Hoàn cảnh sáng tác của của tác phẩm Ngữ văn
9 ôn thi vào 10
1. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm thơ
1.1 Bài thơ “Đồng chí”
Chính Hữu Bài thơ Đồng Chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948,
sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc
thu đông (1947), đánh bại cuộc tiến công quy lớn của giặc Pháp lên chiến
khu Việt Bắc. Tác phẩm in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Năm ấy,
Chính Hữu mới vừa tròn 20 tuổi; đang chính trị viên đại đội thuộc Trung
đoàn Thủ Đô. Đại đội của anh được biệt phái đi truy kích địch trên vùng Việt
Bắc. Sau chiến dịch phục kích này, mình bị ốm (bệnh), đơn vị hành quân,
nhưng cử một anh lại trông nom, giúp đỡ mình. Chính nhờ một phần sự
tận tình của anh tình cảm của đồng đội sau trận ốm này mình viết bài
“Đồng chí”
Bài thơ ca ngợi tinh thần đồng đội, đồng chí thiêng liêng cao đẹp, o sinh ra
tử nhau của các anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp. Chính tình đồng
đội, đồng chí thiêng liêng cao đẹp ngọn nguồn sức mạnh giúp người nh
vượt qua mọi gian khổ khó khăn, dũng cảm chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ.
1.2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà t Phạm Tiến
Duật sáng tác năm 1969, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ
nằm trong chùm thơ được giải Nhất của cuộc thi thơ báo Văn nghệ tổ chức
được đưa vào tập thơ “Vầng trăng Quầng lửa” (1970) của tác giả. Bài
thơ được sáng tác trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất
gay go, ác liệt. Miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam vẫn tiếp tục chiến
đấu chống đế quốc Mỹ. Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận
tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ hy sinh đ vận chuyển tiếp viện miền
Nam. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa
Trường Sơn. Lấy cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để n
thơ chiến khắc họa thành công chân dung người chiến lái xe. Bài thơ ca
ngợi những người chiến lái xe Trường Sơn thời đánh Mỹ dũng cảm ngoan
cường, lạc quan yêu đời trong mưa bom bão đạn, quyết chiến đấu hy sinh
một tưởng cao cả giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
1.3 Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
Huy Cận Bài thơ Đoàn thuyền đánh được nhà thơ Huy Cận sáng tác
năm 1958, trong chuyến đi thực tế dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh. T
chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy n trở lại dồi dào trong
cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động niềm vui trước cuộc sống
mới. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại ng” (1958) Hưởng
ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới a bình, xây dựng chủ nghĩa
hội miền Bắc của chính phủ, năm 1958, Huy Cận hăm h đến với vùng mỏ
Quảng Ninh. Chính niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình
thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc
bấy giờ. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại dồi
dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động niềm vui trước cuộc
sống mới. Bài thơ miêu tả đoàn thuyền đánh trong một đêm trăng trên Hạ
Long, qua đó ca ngợi thiên nhiên đất nước nên thơ tươi đẹp đang trên đà
thay da đổi thịt, hình nh những con người mới, hăng say lao động, thế
hiên ngang, tràn đầy lạc quan tin tưởng, đang vươn lên làm chủ thiên nhiên,
làm chủ cuộc sống của mình.
1.4 Bài thơ “Bếp lửa”
Bằng Việt Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang
sinh viên học ngành Luật nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương
cây Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt Lưu Quang Vũ. Bếp
lửa niềm hồi tưởng xúc động của nhà t về nh ảnh bếp lửa quen thuộc,
gần gũi hình ảnh người hiền hậu. Những năm đầu theo học luật tại
nước Nga, từ xa tổ quốc, nhà thơ nhớ đến quê nhà da diết. Tháng 9 bên đó
trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa
sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm
đi học, nhà thơ hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình
ảnh nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Từ
đó khơi gợi nguồn cảm hứng để nhà thơ viết nên bài thơ này. Qua hình ảnh
Bếp lửa ngọn lửa, tác giả thể hiện lòng thương nhớ, kính yêu biết ơn
của đứa cháu đi xa, đồng thời nói lên tình yêu tha thiết đối với gia đình, quê
hương, đất nước.
1.5 Bài thơ “Khúc hát ru những em lớn trên lưng mẹ”
Nguyễn Khoa Điềm Bài thơ Khúc hát ru những em lớn trên lưng mẹ
được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác tại chiến khu
miền tây Thừa Thiên. Tác phẩm sau này được in trong tập “Đất khát vọng”
(1984). Đầu năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước
vào giai đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử. Quân giặc liên tục mở những cuộc
tiến công ác liệt tàn phá miền Bắc khiến cuộc sống của bộ đội nhân dân ta
trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. những chiến khu miền rừng núi,
cán bộ nhân dân ta vừa bám rẫy, bám rừng vừa gia tăng sản xuất, vừa
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động
chiến đấu của đồng bào miền núi, Nguyễn Khoa Điềm viết nên bài thơ này để
cổ tinh thần đánh giặc của cả nước. Bài thơ ca ngợi tấm lòng đôn hậu, dạt
dào tình thương con của mẹ ôi, nh thương con gắn liền với nh yêu
nước, yêu bộ đội Cụ Hồ, yêu con làng bản quê hương.
1.6 Bài thơ “Ánh trăng”
Nguyễn Duy Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng c năm 1978, khi
ông đang đại diện thường trú của Báo Văn nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên của tác giả. Nguyễn Duy vốn người
lính. Sau khi đất nước giải phóng, ông vào làm việc sinh sống tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Bài thơ chính là những trải nghiệm thực tế của chính bản
thân ông. Nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, những người từ trận
đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ nghĩa nh. Mượn hình
ảnh ánh trăng, n thơ bộ lộ chân thành cảm động những ưu niềm
mong mỏi trân trọng giữ gìn quá khứ nghĩa tình của con người khi bước
vào cuộc sống mới. Bài thơ ca ngợi vầng trăng tri kỷ của tuổi thơ, của người
lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy
chung, giữ tròn đạo tốt đẹp.
1.7 Bài thơ "Con cò"
- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường
Chim báo bão” (1967)
- Đây một trong những bài t hay độc đáo của Chế Lan Viên ngợi ca
tình mẹ ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống của con người.
1.8 Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
Bài thơ "Mùa Xuân Nho Nhỏ" được viết vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả
đang nằm trên giường bệnh (không lâu sau ông qua đời), đất nước ta mới
thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn th thách. Nhưng tác
giả vẫn nhiều cảm nhận về mùa xuân thiên nhiên, đất nước, vẫn ước
nguyện cống hiến chân thành, thiết tha. Từ đó thể hiện tưởng chủ đề của
tác phẩm. Tiếng ng thiết tha yêu cuộc sống, ước nguyện được cống hiến
cho cuộc đời của tác giả.
1.9 Bài thơ "Viếng lăng Bác"
Bài thơ được viết vào tháng 4.1976, một năm sau ngày đất nước thống nhất.
Đó cũng khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Viễn Phương
một người con của miền Nam, ng như đồng bào chiến miền Nam, nhà
thơ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh d
mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng
Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, n t viết bài
thơ Viếng lăng Bác.
1.10 Bài thơ "Sang thu"
Bài thơ được Hữu Thỉnh sáng tác o gần cuối năm 1977 (sau ngày giải
phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài t
được in lần đầu báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến
thành phố (xuất bản năm 1991). Sang thu những cảm nhận hết sức tinh tế
của nhà thơ trước khoảnh khắc giao a những suy ngẫm của tác giả về
cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh thiên nhiên ấy.
1.11 Bài thơ "Nói với con"
Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát khỏi chiến
tranh, cái nghèo phủ trên từng con phố, bản làng, gương mặt. In trong tập "
Thơ Việt Nam 1945-1985" Hoàn cảnh sáng tác giúp ta hiểu được tâm sự của
người cha đối với con. Đây vừa lời động viên tinh thần con vượt qua mọi
gian khổ, vừa sự tôn vinh phẩm chất kiên cường, giàu tình yêu thương của
người đồng mình.
1.12 Bài thơ "Mây sóng"
“Mây sóng” được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ Si-su (Trẻ thơ),
xuất bản năm 1909 được Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non
xuất bản năm 1915.
2. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam
2.1 Truyện ngắn "Làng"
Truyện ngắn Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến
khu Việt Bắc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp lật lọng, tiếp
tục đưa quân sang xâm tái lược nước ta. Năm 1946, chính phủ cách mạng
đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong thời kỳ này, người dân nghe
theo chính sách của chính phủ: u gọi nhân dân ta tản , những người dân
vùng địch tạm chiếm đi lên ng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến
lâu dài. giai đoạn đầu, nhiều người dân còn hoang mang đối với chính
sách của Ủy ban kháng chiến con đường cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí
minh. Để trình bày những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông
dân thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời cổ tinh thần
cách mạng, Kim Lân đã viết truyện ngắn Làng. Truyện nói về tình yêu Làng
của ông Hai Thu khi phải xa làng đi tản cư, qua đó ca ngợi tình u quê
hương đất nước tình yêu kháng chiến chống, u cách mạng của người
nông dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.2 Truyện ngắn "Lặng l Sapa"
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác trong chuyến
công tác tại Lào Cai giữa mùa hè năm 1970 của tác giả. Truyện được in trong
tập “Giữa trong xanh” (năm 1972). Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc
sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc, năm 1970,
Nguyễn Thành Long chủ động tìm kiếm chủ đề miền Tây Bắc xa xôi. Ông
hướng sự quan sát tìm kiếm những vẻ đẹp bình dị, ẩn sâu trong cuộc sống
những nơi xa i hẻo lánh của đất nước. Cuối cùng, ông cũng phát hiện
được hình ảnh người thanh niên m việc trên đỉnh cao Yên Sơn Sapa cao
2600 mét. Đó hình tượng nguồn cảm ứng để ông hoàn thành tác phẩm
Lặng lẽ Sa Pa. Thông qua cuộc gặp gỡ giữa bốn nhân vật, ông họa già,
kỹ trẻ, c lái xe với anh thanh niên làm ng tác khí tượng kiêm vật địa
cầu trên đỉnh Yên Sơn giữa núi rừng Lào Cai, tác giả ca ngợi những con
người lao động bình thường đang âm thầm lặng lẽ cống hiến công sức của
mình cho công cuộc y dựng hội chủ nghĩa thống nhất đất nước.
2.3 Truyện ngắn "Chiếc lược ngà"
Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi
tác gi hoạt động chiến trường Nam B được đưa vào tập truyện ng
tên của ông. Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam
công tác. Ông hoạt động ch yếu Vùng Đồng Tháp Mười. Một lần, ông đi
ghe vào sâu trong rừng sống một nhà sàn treo trên ngọn cây. đó,
một đoàn giao liên dẫn đường toàn nữ. Ông rất ấn tượng với câu
chuyện của một gái giao liên chiếc lược ngà trắng. Lấy cảm hứng t
câu chuyện gia đình cảm động của nữ giao liên, sau khi nghe kể chuyện,
lúc trở về, n văn ngồi viết một ngày, một đêm hoàn thành tác phẩm này.
Truyện kể về tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu Thu, qua đó tác
giả ca ngợi tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo
le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của
người nông dân Nam Bộ.
2.4 Truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi"
“Những ngôi sao xa xôi” trong số những tác phẩm đầu tay của Minh
Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn
ra các liệt.Văn bản đưa o sách giáo khoa lược bớt một số đoạn. Truyện
ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất bản
Mỹ. “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba thanh niên
xung phong tổ trinh sát mặt đường Phương Định, Nho chị Thao. H
sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng điểm tuyến
đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ quan sát máy
bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra,
đánh dấu những quả bom chưa nổ phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn
phải đối mặt với i chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui
hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó,
yêu thương nhau mỗi người một tính. Trong một lần p bom, Nho bị
thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng chăm c cho Nho. Một cơn
mưa đá vụt đến vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát
khao. Mỗi người một tính riêng nhưng họ đều ngời sáng vẻ đẹp của
chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba thanh niên
xung phong, Minh Khuê đã không tô vẽ, không mỹ lệ miêu tả hết sức
cụ thể, chân thực bằng cách thể hóa nhân vật với những nh ảnh rất đời
thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng
những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
3. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện Việt Nam
3.1 Chuyện người con gái Nam Xương
Hoàn cảnh sáng tác: “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền),
được viết thế kỷ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương nguồn gốc từ
truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, thiên th 16 trong 20 truyện của
Truyền kỳ mạn lục
Nội dung: Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam, niềm cảm thương số phận bi kịch của họ dưới chế đ phong kiến.
Nghệ thuật: Truyện truyền kỳ viết bằng chữ n; kết hợp các yếu tố hiện thực
yếu tố hoang đường kỳ ảo với cách kể chuyện, xây dựng nhân vật rất
thành công.
3.2 Chuyện trong phủ chúa Trịnh (Vũ trung tùy bút)
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm trong tác phẩm trung tùy bút, viết
khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX), tác phẩm văn xuôi ghi lại một
cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, vừa tài liệu
quý giá về sử học, địa lý, hội học
Nội dung: Phản ánh đời sống xa hoa độ, sự nhũng nhiễu nhân dân của
bọn vua chúa quan lại phong kiến thời vua chúa Trịnh suy tàn.
Nghệ thuật: Tùy bút chữ Hán, ghi chép theo cảm hứng sự việc, câu chuyện
con người đương thời một ch cụ thể, chân thực, sinh động
3.3 Hoàng nhất thống chí (hồi 14)
Hoàn cảnh sáng tác: Hoàng nhất thống chí một c phẩm viết bằng chữ
Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều n vào thời điểm Tây
Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại sự
thống nhất của vương triều nhà còn được viết tiếp, tái hiện một giai
đoạn lịch sử đầy biến động của hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối
thế kỷ 18 mấy năm đầu thế kỷ 19. Cuốn tiểu thuyết bao gồm 17 hồi
Nội dung: Hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ- Quang Trung với
chiến công thần tốc đại phá quân Thanh; sự thất bại thảm hại của quân
Thanh số phận bi đát của vua tôi Chiêu Thống phản nước hại dân.
Nghệ thuật: Tiểu thuyết lịch sử chương hồi viết bằng chữ Hán; cách kể
chuyện nhanh gọn, chọn lọc sự việc, khắc họa nhân vật chủ yếu qua hành
động lời nói.
3.4 Truyện Kiều
Hoàn cảnh ng tác: Truyện Kiều (Đoạn trường n thanh) được Nguyễn Du
sáng tác o đầu thế kỷ 19 (khoảng 1805-1809)
- Nguyễn Du sáng c Truyện Kiều dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều
truyện của Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du cùng lớn,
mang đến sự thành công sức hấp dẫn cho tác phẩm
- Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát Nội dung: Thời đại, gia đình
cuộc đời của Nguyễn Du.
- Giá trị hiện thực giá trị nhân đạo.
Nghệ thuật:
- Truyện thơ Nôm lục bát.
- Ngôn ngữ chức năng biểu đạt, biểu cảm thẩm mỹ
- Nghệ thuật tự sự: dẫn chuyện, y dựng nhân vật, miêu t thiên nhiên…
3.5 Chị em Thúy Kiều
Hoàn cảnh ng tác Đoạn trích nằm phần mở đầu của phần 1: Gặp gỡ
đính ước
Nội dung: Trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, dự cảm về số
phận nhân vật, thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Nghệ thuật: Bố cục chặt chẽ, hoàn chỉnh; bút pháp ước lệ tượng trưng; ngôn
ngữ tinh luyện, giàu cảm xúc; khai thác triệt đ biện pháp tu từ
3.6 Cảnh ngày xuân
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm nằm phần 1 - Gặp gỡ đính ước,
sau đoạn Nguyễn Du miêu tả i sắc của hai chị em Thúy Kiều, trước đoạn
Kiều gặp mộ Đạm Tiên Kim Trọng
Nội dung: Bức tranh thiên nhiên, l hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng.
Nghệ thuật: Từ ng bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
3.7 Kiều lầu Ngưng Bích
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm phần thứ hai: Gia biến lưu lạc. Sau
khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị mắng nhiếc, Kiều nhất quyết
không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng định tự
vẫn, sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống riêng lầu
Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế
nhưng thực chất giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện tàn
bạo hơn
Nội dung: Cảnh ngộ đơn, buồn tủi tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của
Thúy Kiều
Nghệ thuật: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, miêu t nội tâm, sử dụng ngôn ngữ
độc thoại, điệp từ, điệp cấu trúc…
3.8 Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Lục Vân Tiên một truyện thơ nôm của Nguyễn
Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những m 50 của thế kỷ 19, truyện
2082 u thơ lục bát.
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm phần đầu của truyện
Nội dung: Khắc họa những phẩm chất đẹp đ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên
tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân
tình.
Nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị mộc mạc mang u sắc Nam Bộ; xây dựng
nhân vật qua hành động, cử chỉ lời nói.
- Lục Vân Tiên gặp nạn Trích Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Nội dung: S đối lập giữa cái thiện cái ác, giữa nhân cách cao cả
những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quí trọng niềm tin của
tác giả
Nghệ thuật: Ngôn ngữ giàu cảm xúc, khoáng đạt, bình dị, dân dã; nghệ thuật
kể chuyện theo típ dân gian, miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói; cảm
hứng thiên nhiên trữ tình, dạt dào…

Preview text:

Hoàn cảnh sáng tác của của tác phẩm Ngữ văn 9 ôn thi vào 10
1. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm thơ
1.1 Bài thơ “Đồng chí”
– Chính Hữu Bài thơ Đồng Chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948,
sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc
thu đông (1947), đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến
khu Việt Bắc. Tác phẩm in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Năm ấy,
Chính Hữu mới vừa tròn 20 tuổi; đang là chính trị viên đại đội thuộc Trung
đoàn Thủ Đô. Đại đội của anh được biệt phái đi truy kích địch trên vùng Việt
Bắc. Sau chiến dịch phục kích này, mình bị ốm (bệnh), đơn vị hành quân,
nhưng có cử một anh ở lại trông nom, giúp đỡ mình. Chính nhờ một phần sự
tận tình của anh và tình cảm của đồng đội mà sau trận ốm này mình viết bài “Đồng chí”
Bài thơ ca ngợi tinh thần đồng đội, đồng chí thiêng liêng cao đẹp, vào sinh ra
tử có nhau của các anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp. Chính tình đồng
đội, đồng chí thiêng liêng cao đẹp là ngọn nguồn sức mạnh giúp người lính
vượt qua mọi gian khổ khó khăn, dũng cảm chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ.
1.2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
– Phạm Tiến Duật Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ Phạm Tiến
Duật sáng tác năm 1969, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ
nằm trong chùm thơ được giải Nhất của cuộc thi thơ báo Văn nghệ tổ chức
và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa” (1970) của tác giả. Bài
thơ được sáng tác trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất
gay go, ác liệt. Miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam vẫn tiếp tục chiến
đấu chống đế quốc Mỹ. Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận
tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hy sinh để vận chuyển tiếp viện miền
Nam. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa
Trường Sơn. Lấy cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà
thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe. Bài thơ ca
ngợi những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời đánh Mỹ dũng cảm ngoan
cường, lạc quan yêu đời trong mưa bom bão đạn, quyết chiến đấu hy sinh vì
một lý tưởng cao cả là giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
1.3 Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
– Huy Cận Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được nhà thơ Huy Cận sáng tác
năm 1958, trong chuyến đi thực tế dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh. Từ
chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong
cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống
mới. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958) Hưởng
ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc của chính phủ, năm 1958, Huy Cận hăm hở đến với vùng mỏ
Quảng Ninh. Chính niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình
thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc
bấy giờ. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi
dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc
sống mới. Bài thơ miêu tả đoàn thuyền đánh cá trong một đêm trăng trên Hạ
Long, qua đó ca ngợi thiên nhiên đất nước nên thơ tươi đẹp đang trên đà
thay da đổi thịt, hình ảnh những con người mới, hăng say lao động, tư thế
hiên ngang, tràn đầy lạc quan tin tưởng, đang vươn lên làm chủ thiên nhiên,
làm chủ cuộc sống của mình.
1.4 Bài thơ “Bếp lửa”
– Bằng Việt Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là
sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương
cây – Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bếp
lửa là niềm hồi tưởng xúc động của nhà thơ về hình ảnh bếp lửa quen thuộc,
gần gũi và hình ảnh người bà hiền hậu. Những năm đầu theo học luật tại
nước Nga, từ xa tổ quốc, nhà thơ nhớ đến quê nhà da diết. Tháng 9 ở bên đó
trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa
sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm
đi học, nhà thơ hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình
ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Từ
đó khơi gợi nguồn cảm hứng để nhà thơ viết nên bài thơ này. Qua hình ảnh
Bếp lửa – ngọn lửa, tác giả thể hiện lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà
của đứa cháu đi xa, đồng thời nói lên tình yêu tha thiết đối với gia đình, quê hương, đất nước.
1.5 Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”
– Nguyễn Khoa Điềm Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác tại chiến khu
miền tây Thừa Thiên. Tác phẩm sau này được in trong tập “Đất và khát vọng”
(1984). Đầu năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước
vào giai đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử. Quân giặc liên tục mở những cuộc
tiến công ác liệt tàn phá miền Bắc khiến cuộc sống của bộ đội và nhân dân ta
trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu miền rừng núi,
cán bộ và nhân dân ta vừa bám rẫy, bám rừng vừa gia tăng sản xuất, vừa
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động và
chiến đấu của đồng bào miền núi, Nguyễn Khoa Điềm viết nên bài thơ này để
cổ vũ tinh thần đánh giặc của cả nước. Bài thơ ca ngợi tấm lòng đôn hậu, dạt
dào tình thương con của bà mẹ Tà ôi, tình thương con gắn liền với tình yêu
nước, yêu bộ đội Cụ Hồ, yêu bà con làng bản quê hương.
1.6 Bài thơ “Ánh trăng”
– Nguyễn Duy Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, khi
ông đang là đại diện thường trú của Báo Văn nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên của tác giả. Nguyễn Duy vốn là người
lính. Sau khi đất nước giải phóng, ông vào làm việc và sinh sống tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Bài thơ chính là những trải nghiệm thực tế của chính bản
thân ông. Nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, những người từ trận
đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình. Mượn hình
ảnh ánh trăng, nhà thơ bộ lộ chân thành và cảm động những ưu tư và niềm
mong mỏi trân trọng và giữ gìn quá khứ nghĩa tình của con người khi bước
vào cuộc sống mới. Bài thơ ca ngợi vầng trăng tri kỷ của tuổi thơ, của người
lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy
chung, giữ tròn đạo lý tốt đẹp. 1.7 Bài thơ "Con cò"
- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” (1967)
- Đây là một trong những bài thơ hay và độc đáo của Chế Lan Viên ngợi ca
tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống của con người.
1.8 Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
Bài thơ "Mùa Xuân Nho Nhỏ" được viết vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả
đang nằm trên giường bệnh (không lâu sau ông qua đời), đất nước ta mới
thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Nhưng tác
giả vẫn có nhiều cảm nhận về mùa xuân thiên nhiên, đất nước, vẫn có ước
nguyện cống hiến chân thành, thiết tha. Từ đó thể hiện tư tưởng chủ đề của
tác phẩm. Tiếng lòng thiết tha yêu cuộc sống, ước nguyện được cống hiến
cho cuộc đời của tác giả.
1.9 Bài thơ "Viếng lăng Bác"
Bài thơ được viết vào tháng 4.1976, một năm sau ngày đất nước thống nhất.
Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Viễn Phương là
một người con của miền Nam, cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà
thơ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh dự
có mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng
Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, nhà thơ viết bài thơ Viếng lăng Bác. 1.10 Bài thơ "Sang thu"
Bài thơ được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải
phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ
được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến
thành phố (xuất bản năm 1991). Sang thu là những cảm nhận hết sức tinh tế
của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm của tác giả về
cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh thiên nhiên ấy.
1.11 Bài thơ "Nói với con"
Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát khỏi chiến
tranh, cái nghèo phủ trên từng con phố, bản làng, gương mặt. In trong tập "
Thơ Việt Nam 1945-1985" Hoàn cảnh sáng tác giúp ta hiểu được tâm sự của
người cha đối với con. Đây vừa là lời động viên tinh thần con vượt qua mọi
gian khổ, vừa là sự tôn vinh phẩm chất kiên cường, giàu tình yêu thương của người đồng mình.
1.12 Bài thơ "Mây và sóng"
“Mây và sóng” được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ Si-su (Trẻ thơ),
xuất bản năm 1909 và được Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non xuất bản năm 1915.
2. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam
2.1 Truyện ngắn "Làng"

Truyện ngắn Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến
khu Việt Bắc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp lật lọng, tiếp
tục đưa quân sang xâm tái lược nước ta. Năm 1946, chính phủ cách mạng
đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong thời kỳ này, người dân nghe
theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân
ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến
lâu dài. Ở giai đoạn đầu, nhiều người dân còn hoang mang đối với chính
sách của Ủy ban kháng chiến và con đường cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí
minh. Để trình bày những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông
dân thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời cổ vũ tinh thần
cách mạng, Kim Lân đã viết truyện ngắn Làng. Truyện nói về tình yêu Làng
của ông Hai Thu khi phải xa làng đi tản cư, qua đó ca ngợi tình yêu quê
hương đất nước và tình yêu kháng chiến chống, yêu cách mạng của người
nông dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.2 Truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa"
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác trong chuyến
công tác tại Lào Cai giữa mùa hè năm 1970 của tác giả. Truyện được in trong
tập “Giữa trong xanh” (năm 1972). Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc
sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, năm 1970,
Nguyễn Thành Long chủ động tìm kiếm chủ đề ở miền Tây Bắc xa xôi. Ông
hướng sự quan sát tìm kiếm những vẻ đẹp bình dị, ẩn sâu trong cuộc sống ở
những nơi xa xôi hẻo lánh của đất nước. Cuối cùng, ông cũng phát hiện
được hình ảnh người thanh niên làm việc trên đỉnh cao Yên Sơn – Sapa cao
2600 mét. Đó là hình tượng và nguồn cảm ứng để ông hoàn thành tác phẩm
Lặng lẽ Sa Pa. Thông qua cuộc gặp gỡ giữa bốn nhân vật, ông họa sĩ già, cô
kỹ sư trẻ, bác lái xe với anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa
cầu trên đỉnh Yên Sơn giữa núi rừng Lào Cai, tác giả ca ngợi những con
người lao động bình thường đang âm thầm lặng lẽ cống hiến công sức của
mình cho công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước.
2.3 Truyện ngắn "Chiếc lược ngà"
Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi
tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng
tên của ông. Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam
công tác. Ông hoạt động chủ yếu ở Vùng Đồng Tháp Mười. Một lần, ông đi
ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Ở đó, có
một đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Ông rất có ấn tượng với câu
chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Lấy cảm hứng từ
câu chuyện gia đình cảm động của nữ giao liên, sau khi nghe cô kể chuyện,
lúc trở về, nhà văn ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.
Truyện kể về tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu và bé Thu, qua đó tác
giả ca ngợi tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo
le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.
2.4 Truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi"
“Những ngôi sao xa xôi” ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh
Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn
ra các liệt.Văn bản đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn. Truyện
ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất bản ở
Mỹ. “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên
xung phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ
sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến
đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy
bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra,
đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn
phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui
hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó,
yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị
thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn
mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát
khao. Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của
chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên
xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mỹ lệ mà miêu tả hết sức
cụ thể, chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời
thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng –
những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
3. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện Việt Nam
3.1 Chuyện người con gái Nam Xương
Hoàn cảnh sáng tác: “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền),
được viết ở thế kỷ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ
truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục
Nội dung: Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam, niềm cảm thương số phận bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến.
Nghệ thuật: Truyện truyền kỳ viết bằng chữ Hán; kết hợp các yếu tố hiện thực
và yếu tố hoang đường kỳ ảo với cách kể chuyện, xây dựng nhân vật rất thành công.
3.2 Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Vũ trung tùy bút)
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết
khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX), là tác phẩm văn xuôi ghi lại một
cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, vừa là tài liệu
quý giá về sử học, địa lý, xã hội học
Nội dung: Phản ánh đời sống xa hoa vô độ, sự nhũng nhiễu nhân dân của
bọn vua chúa quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn.
Nghệ thuật: Tùy bút chữ Hán, ghi chép theo cảm hứng sự việc, câu chuyện
con người đương thời một cách cụ thể, chân thực, sinh động
3.3 Hoàng Lê nhất thống chí (hồi 14)
Hoàn cảnh sáng tác: Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm viết bằng chữ
Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây
Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự
thống nhất của vương triều nhà Lê mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai
đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối
thế kỷ 18 và mấy năm đầu thế kỷ 19. Cuốn tiểu thuyết bao gồm 17 hồi
Nội dung: Hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ- Quang Trung với
chiến công thần tốc đại phá quân Thanh; sự thất bại thảm hại của quân
Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước hại dân.
Nghệ thuật: Tiểu thuyết lịch sử chương hồi viết bằng chữ Hán; cách kể
chuyện nhanh gọn, chọn lọc sự việc, khắc họa nhân vật chủ yếu qua hành động và lời nói. 3.4 Truyện Kiều
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du
sáng tác vào đầu thế kỷ 19 (khoảng 1805-1809)
- Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều
truyện của Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn,
mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm
- Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát Nội dung: Thời đại, gia đình
và cuộc đời của Nguyễn Du.
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Nghệ thuật:
- Truyện thơ Nôm lục bát.
- Ngôn ngữ có chức năng biểu đạt, biểu cảm và thẩm mỹ
- Nghệ thuật tự sự: dẫn chuyện, xây dựng nhân vật, miêu tả thiên nhiên… 3.5 Chị em Thúy Kiều
Hoàn cảnh sáng tác Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của phần 1: Gặp gỡ và đính ước
Nội dung: Trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, dự cảm về số
phận nhân vật, thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Nghệ thuật: Bố cục chặt chẽ, hoàn chỉnh; bút pháp ước lệ tượng trưng; ngôn
ngữ tinh luyện, giàu cảm xúc; khai thác triệt để biện pháp tu từ 3.6 Cảnh ngày xuân
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm nằm ở phần 1 - Gặp gỡ và đính ước,
sau đoạn Nguyễn Du miêu tả tài sắc của hai chị em Thúy Kiều, trước đoạn
Kiều gặp mộ Đạm Tiên và Kim Trọng
Nội dung: Bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng.
Nghệ thuật: Từ ngữ bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
3.7 Kiều ở lầu Ngưng Bích
Hoàn cảnh sáng tác: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau
khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết
không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng định tự
vẫn, Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống riêng ở lầu
Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế
nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn
Nội dung: Cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều
Nghệ thuật: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, miêu tả nội tâm, sử dụng ngôn ngữ
độc thoại, điệp từ, điệp cấu trúc…
3.8 Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ nôm của Nguyễn
Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ 19, truyện có 2082 câu thơ lục bát.
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện
Nội dung: Khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên
tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.
Nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị mộc mạc mang màu sắc Nam Bộ; xây dựng
nhân vật qua hành động, cử chỉ lời nói.
- Lục Vân Tiên gặp nạn Trích Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Nội dung: Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và
những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quí trọng và niềm tin của tác giả
Nghệ thuật: Ngôn ngữ giàu cảm xúc, khoáng đạt, bình dị, dân dã; nghệ thuật
kể chuyện theo mô típ dân gian, miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói; cảm
hứng thiên nhiên trữ tình, dạt dào…
Document Outline

  • Hoàn cảnh sáng tác của của tác phẩm Ngữ văn 9 ôn t
    • 1. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm thơ
      • 1.1 Bài thơ “Đồng chí”
      • 1.2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
      • 1.3 Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
      • 1.4 Bài thơ “Bếp lửa”
      • 1.5 Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
      • 1.6 Bài thơ “Ánh trăng”
      • 1.7 Bài thơ "Con cò"
      • 1.8 Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
      • 1.9 Bài thơ "Viếng lăng Bác"
      • 1.10 Bài thơ "Sang thu"
      • 1.11 Bài thơ "Nói với con"
      • 1.12 Bài thơ "Mây và sóng"
    • 2. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện hiện đại
      • 2.1 Truyện ngắn "Làng"
      • 2.2 Truyện ngắn "Lặng lẽ Sapa"
      • 2.3 Truyện ngắn "Chiếc lược ngà"
      • 2.4 Truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi"
    • 3. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm truyện Việt Nam
      • 3.1 Chuyện người con gái Nam Xương
      • 3.2 Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Vũ trung tùy b
      • 3.3 Hoàng Lê nhất thống chí (hồi 14)
      • 3.4 Truyện Kiều
      • 3.5 Chị em Thúy Kiều
      • 3.6 Cảnh ngày xuân
      • 3.7 Kiều ở lầu Ngưng Bích
      • 3.8 Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga