



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377 lOMoAR cPSD| 58702377
PHÂN CHIA NHIỆM VỤ STT Tên thành viên
Mã sinh viên
Nhiệm vụ thực hiện 1 Nguyễn Đức Sơn 11216601
1. Tổng quan về FDI và vốn đầu tư ( trưởng nhóm)
trong nước, thực trạng tại Việt Nam 2.
Các hoạt động của FDI về mua bán, sát nhập(M&A) 2 Nguyễn Thu Hiền 11212164
Đầu tư nước ngoài tạo sự hỗn loạn đối
với các doanh nghiệp cũng như sản phẩm trong nước 3 Phạm Thị Ngọc Ánh 11216509
1. FDI tạo nên sự dịch chuyển lao động 2. Viết kết luận
2. Làm bản Word, PDF cho bài nộp 4 Phùng Thị Ngọc Ánh 11216510
FDI tạo nên sức mạnh độc quyền 5 Vũ Thị Hồng Phương 11216597 1.
Đầu tư trong nước rời rạc, nhỏ bé,
phan mảnh, không có tính tích hợp. Doanh nghiệp yếu thế 2. Viết lời mở đầu 6 Quách Thu Phương 11216596 1.
Những chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp FDI 2.
Các biện pháp giải quyết lOMoAR cPSD| 58702377 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 4
I. KHÁI QUÁT .......................................................................................................................... 4
1. Tổng quan về hoạt động đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài .................................. 4
1.1. Về đầu tư nước ngoài ................................................................................................. 4
2. Thực trạng tại Việt Nam ............................................................................................... 7
II. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LÀ ĐỘNG LỰC KÌM HÃM CHO ............ 8
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC ........................................................................... 8
1. Hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A) ........................................................................ 9
2. Đầu tư nước ngoài tạo sự hỗn loạn đối với các doanh nghiệp cũng như sản .......... 11
phẩm trong nước ............................................................................................................. 11
3. Nguồn vốn đầu tư FDI nước ngoài ảnh hưởng đến thị trường lao động Việt
Nam, tạo ra sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động, gây nên những tác động tiêu
cực.................................................................................................................................... 14
4. Các danh nghiệp có nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài tạo nên sức mạnh độc ........ 18
quyền ............................................................................................................................... 18
5. Đầu tư trong nước rời rạc, nhỏ bé, phan mảnh, không có tính tích hợp ................. 22
6. Những chính sách ưu đãi dành cho đầu tư vốn FDI ................................................. 24
III. GIẢI PHÁP .................................................................................................................. 26
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 29 lOMoAR cPSD| 58702377
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ tương đối khá trong bối cảnh
kinh tế thế giới đang phục hồi và còn nhiều biến động. Tuy nhiên nền kinh tế tiếp
tục đối mặt với nhiều bất ổn kinh tế, xã hội, như lạm phát, thâm hụt ngân sách tăng,
tình trạng nợ công, thị trường tài chính tiền tệ biến động khó lường, chưa khai thác
triệt để tiềm năng của thị trường lao động, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm,
chuyển giao công nghệ và lao động trong các khu vực kinh tế chưa đồng nhất…
Một trong những nguyên nhân chính của bất ổn vĩ mô là do mô hình tăng trưởng
theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, đặc biệt phải kể đến đầu tư nước
ngoài và đầu tư trong nước. Mô hình này ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững dài hạn của nền kinh tế.
Có hai giả thuyết chính giữa quan hệ của đầu tư FDI và đầu tư tư nhân. Giả
thiết đầu tư FDI “lấn át” đầu tư tư nhân cho rằng, FDI tăng dẫn đến khu vực tư nhân
bị thu hẹp, khó có khả năng phát triển, thậm chí là đóng cửa, ngừng hoạt động. Giả
thiết ngược lại là đầu tư nước ngoài FDI là động lực thúc đẩy khu vực tư nhân, khi
tỉ trọng FDI quá cao, các doanh nghiệp tư nhân có động lực đứng lên và cạnh tranh,
thị trường sôi động, ... Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chậm lại, hàng vạn
doanh nghiệp trong nước kinh doanh kém hiệu quả, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) nổi lên như là động lực tăng trưởng đang vận hành tốt. Thực trạng đó đã nảy
sinh vấn đề quan hệ nội lực và ngoại lực: Liệu hoạt động đầu tư của FDI có lấn át đầu tư trong nước.
Vậy mục tiêu đặt ra là làm sao để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế, mà trọng tâm là vừa thu hút phát triển, vừa cân bằng nguồn
vốn FDI với nguồn vốn tư nhân, tạo nền tảng vững chắc để đưa Việt Nam trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để làm rõ vấn đề, sau đây nhóm chúng em sẽ phân tích, chứng mình hoạt động
đầu tư nước ngoài là động lực kìm hãm hoạt động đầu tư trong nước. lOMoAR cPSD| 58702377 NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT
1. Tổng quan về hoạt động đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài
1.1. Về đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân của một quốc gia đưa vốn dưới
các hình thức khác nhau vào một quốc gia khác để tiến hành các hoạt động kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hình thức đầu tư
trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vai trò quan trọng trong việc:
• Chuyển giao nguồn lực, vốn công nghệ
• Tăng năng suất, thu nhập quốc dân và thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế
• Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước
• Tiếp cận với thị trường nước ngoài
• Tạo sự chuyển, đổi cơ cấu kinh tế trong nước 1.2.FDI Khái niệm
(Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hoặc tổ
chức nước này vào nước khác bằng cách thiết lập nhà xưởng sản xuất, cơ sở kinh
doanh. Mục đích nhằm đạt được các lợi ích lâu dài và nắm quyền quản lý cơ sở kinh doanh này. Đặc điểm:
• Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt
mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định.
• Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý dự án mà họ bỏ vốn đầu tư.
Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. lOMoAR cPSD| 58702377
• Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các
bên theo tỷ lệ góp vốn và vốn pháp định, sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi
tức cổ phần (nếu có).
• FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua
lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động, hoặc mua cổ phiếu để thôn
tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Hình thức:
• Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất
của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm
nhập vào thị trường nước nhận đầu tư một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp pháp.
• Hình thức DN 100% vốn đầu tư nước ngoài
• Hình thức hợp tác kinh doanh dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Mặt tích cực:
• Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh
thì nó cần nhiều vốn, nếu vốn trong nước không đủ thì nền kinh tế sẽ thu hút vốn
bên ngoài, trong đó có FDI
• Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: thu hút FDI từ các công ty đa quốc
gia sẽ giúp đất nước có cơ hội tiếp thu công nghệ, bí quyết quản lý kinh doanh mà
các công ty này đã tích lũy phát triển qua nhiều năm. Nhưng có còn phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực tiếp thu của nước nhận đầu tư.
• Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: khi thu hút FDI, không chỉ doanh
nghiệp có vốn đầu tư của các công ty đa quốc gia, mà các doanh nghiệp khác trong
nước có mối quan hệ làm ăn với các công ty đó cũng sẽ tham gia vào quá trình phân
công lao động khu vực. Vì thế nước nhận đầu tư sẽ tham gia vào chuỗi sản xuất toàn
cầu, tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu. lOMoAR cPSD| 58702377
• Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: để đạt được chi phí sản xuất
thấp, các doanh nghiệp FDI sẽ thuê nhiều lao động địa phương, giúp một bộ phận
lao động địa phương được cải thiện, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời tạo ra một đội ngũ có kĩ năng nghề nghiệp cho nước nhận đầu tư.
• Tạo nguồn thu ngân sách lớn: đối với các nước, thuế từ các doanh nghiệp
FDI nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Mặt tiêu cực:
• Phải đối mặt với nhiều gánh nặng trong môi trường mới về chính trị, xung
đột vũ trang. Hay đơn thuần là những tranh chấp nội bộ, mâu thuẫn về những khác
biệt trong tư duy truyền thống.
• Nếu doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nước sẽ mất
đi nguồn vốn đầu tư. Gây khó khăn trong việc tìm vốn phát triển, áp lực giải quyết
việc làm trong nước, do đó có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái kinh tế.
• Các chính sách trong nước có thể bị thay đổi bởi khi đưa ra yêu cầu đầu tư,
các nhà đầu tư thường có các biện pháp vận động Nhà nước theo hướng có lợi cho mình.
• Trong quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ có sự thay đổi liên tục
của các luồng vốn dẫn đến cán cân kinh tế bị di chuyển theo.
1.3. Về hoạt động đầu tư trong nước Khái niệm
Đầu tư trong nước là việc các tổ chức, cá nhân trong một quốc gia dùng vốn
bằng tiền mặt, hiện vật hoặc quyền về tài sản để sản xuất, kinh doanh tại quốc gia
đó dưới hình thức thành lập mới doanh nghiệp hoặc mở rộng quy mô cơ sở sản xuất
kinh doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế. Hình thức
• Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
• Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp.
• Thực hiện dự án đầu tư. lOMoAR cPSD| 58702377
• Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC.
• Các hình thức đầu tư, loại hình tổ chức kinh tế mới theo quy định của Chính phủ.
2. Thực trạng tại Việt Nam
• Trong hai năm 2017 - 2018, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tạm ngừng hoạt động
so với số doanh nghiệp tư nhân thành lập mới lần lượt là 47,73% và 69,05%; gần
50% số doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thua lỗ. Trong những năm gần đây, tỷ
trọng của kinh tế tư nhân trong GDP có xu hướng giảm, từ 43% (1995), 39% (2010)
và 38% (2017). Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong GDP chỉ là 8,64% (2017).
• Trong khi các doanh nghiệp nhà nước ngày càng lâm vào tình trạng khó khăn,
phải thừa nhận rằng, số lượng các doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn chưa đủ
lớn và mạnh cả quy mô và thực lực để tạo đà thực sự cho phát triển công nghiệp.
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có 591.499 doanh nghiệp, chiếm 96,9% số
doanh nghiệp cả nước, tăng 9,2% (trong đó có 258.722 doanh nghiệp kinh doanh
có lãi, chiếm 43,7%; có 45.308 doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn, chiếm 7,7%; có
287.469 doanh nghiệp kinh doanh lỗ, chiếm 48,6%). Điều này cho thấy, chúng ta
đang đi thiên lệch trên nhiều phương diện, nhất là về pháp lý và tạo điều kiện về
vốn… Không ít dư địa về quản trị phát triển kinh tế tư nhân cũng đang bị bỏ trống.
Rõ ràng, đây càng là bước quan trọng trên con đường cần phải đi để kinh tế tư nhân
góp phần giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, với những tập đoàn
đủ mạnh, trực tiếp nâng cao thực lực, uy tín của nền kinh tế và khả năng chống chịu
của nền kinh tế nước ta.
• Đối với khu vực kinh tế FDI, trong vài năm gần đây, chúng ta đã đón khá
nhiều doanh nghiệp lớn như các đối tác của Apple là Foxconn, Pegatron… và những
công ty lâu năm như Samsung, LG cũng có động thái mở rộng. Đây là tín hiệu tốt
cho Việt Nam. Dù vậy, nền kinh tế nước ta đang lệ thuộc vào khu vực FDI. Kết thúc
năm 2019, thành phần kinh tế FDI chiếm trên 70% giá trị sản xuất công nghiệp và lOMoAR cPSD| 58702377
trên 70% giá trị xuất khẩu của nước ta. Nhưng nếu FDI chỉ chiếm chừng 20 - 22%
GDP mà chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu lại “là có chuyện”. Năm 2020,
xuất khẩu kể cả dầu thô đạt gần 181 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ, chiếm 71,3%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô đạt 179,5 tỷ USD, tăng 6,9% so
với cùng kỳ, chiếm 70,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhập khẩu của khu vực
đầu tư nước ngoài đạt 148,9 tỷ USD, tăng 9,1% so cùng kỳ và chiếm 63,5% kim
ngạch nhập khẩu cả nước. Tính chung, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu 32,1 tỷ
USD kể cả dầu thô và xuất siêu 30,6 tỷ USD không kể dầu thô, bù đắp phần nhập
siêu 12,7 tỷ USD của khu vực trong nước, giúp cả nước xuất siêu 19,4 tỷ USD.
Nghĩa là, “doanh nghiệp FDI được hưởng hầu hết lợi ích thương mại do nỗ lực hội
nhập của ta mang lại” như các chuyên gia kinh tế cảnh báo gần đây.
• Qua số liệu trên chúng ta thấy được sự phát triển ngược chiều của doanh
nghiệp tư nhân với doanh nghiệp FDI. Từ đó, thấy rằng các doanh nghiệp FDI ngày
càng kìm hãm, bóp nghẹt các doanh nghiệp tư nhân trong nhiều lĩnh vực.
II. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LÀ ĐỘNG LỰC KÌM HÃM
CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài mang lại cho nước ta khá nhiều giá trị, tuy nhiên
chính nó lại là một trong những nguyên nhân kìm hãm hoạt động đầu tư trong nước.
Điều này được thể hiện qua và chứng minh qua các vấn đề sau:
- Hoạt động mua bán, sát nhập M&A
- Đầu tư nước ngoài tạo sự hỗn loạn đối với các doanh nghiệp cũng như sản phẩm trong nước
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo nên sự dịch chuyển lao động
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo ra sức mạnh độc quyền
- Đầu tư trong nước rời rạc, nhỏ bé, phan mảnh, không có tính tích hợp. Doanh nghiệp
yếu thế, đầu tư nguồn vốn nước ngoài phá vỡ hàng rào thuế quan lOMoAR cPSD| 58702377
1. Hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A)
Nguyên nhân đồng thời cũng là vấn đề đầu tiên khiến hoạt động đầu tư nước
ngoài kìm hãm hoạt động đầu tư trong nước đó chính là do hoạt động mua bán, sáp nhập M&A
Mua bán và sáp nhập (M&A) là thuật ngữ viết tắt của 2 cụm từ Mergers (Sáp
nhập) và Acquisitions (Mua lại). Hoạt động M&A là hoạt động giành quyền kiểm soát
doanh nghiệp thông qua hình thức sáp nhập hay mua lại 1 phần (số cổ phần) hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác.
Mergers (Sáp nhập) là sự liên kết giữa các doanh nghiệp có cùng quy mô và cho
ra đời một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân mới. Toàn bộ tài sản, lợi ích chung,
quyền hay nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập hay bị mua lại sẽ “về tay” doanh nghiệp sáp nhập.
Acquisitions (Mua lại) là hình thức một doanh nghiệp lớn sẽ mua lại những
doanh nghiệp nhỏ và yếu hơn và doanh nghiệp mua vẫn giữ tư cách pháp nhân cũ.
Doanh nghiệp mua lại được quyền sở hữu hợp pháp đối với doanh nghiệp được mua.
• Theo thống kê của Diễn đàn M&A Việt Nam, hoạt động M&A đã tăng trưởng
không ngừng và trở thành một xu thế quan trọng trong hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Hoạt động M&A đã phát triển không chỉ về số lượng và quy mô thương vụ
mà còn thực sự trở thành một kênh huy động vốn mới hiệu quả trong tổng vốn đầu
tư toàn xã hội. Nếu như năm 2009, tổng giá trị thương vụ M&A mới chỉ đạt 1,1 tỷ
USD, thì đến năm 2018, con số này đã vượt mốc kỷ lục 10,2 tỷ USD, đưa tổng giá
trị thương vụ trong thập kỷ qua đạt khoảng 55 tỷ USD. Không chỉ đạt kỷ lục về tổng
giá trị, số lượng các thương vụ cũng tăng lên rất nhanh, diễn ra trên mọi khu vực
doanh nghiệp: Tư nhân, đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn nhà nước; thu hút
sự tham gia không chỉ các nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp trong và ngoài nước
mà còn có sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh, doanh lOMoAR cPSD| 58702377
nghiệp công nghệ... 7 tháng đầu năm 2019, tổng giá trị các thương vụ M&A tại Việt Nam đạt gần 5,43 tỷ
USD, trong đó bao gồm gần 2,8 tỷ USD từ các thương vụ M&A được công bố tại Việt
Nam và khoảng 2,64 tỷ USD nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam.
• Xu hướng M&A sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, khiến nảy sinh nguy cơ những
doanh nghiệp tiềm năng (có quy mô vừa và lớn, có thị phần nhất định và có vai trò
dẫn dắt một số ngành quan trọng) có thể bị thâu tóm bởi các nhà đầu tư nước ngoài
đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh. Ở
TP.HCM, xu hướng đầu tư thông qua góp vốn, mua cổ phần tiếp tục vượt trội so với
hình thức đầu tư trực tiếp (FDI). Số liệu từ Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cho
biết, 5 tháng qua, đã có 1,6 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư vào
TP.HCM. Trong số này, riêng phần đầu tư thông qua góp vốn, mua cổ phần là 1.923
lượt, với giá trị lên tới 1,23 tỷ USD, chiếm gần 77% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Thành phố.
• Ví dụ điển hình phải kể tới những thương vụ chuyển nhượng thương hiệu
đáng chú ý nhất: Kinh Đô bán lại cho Mondelez International. Nhắc đến Kinh Đô,
ai cũng nghĩ đây là thương hiệu của Việt Nam. Sau nhiều năm thị trường bánh kẹo
biến động mạnh, mặc dù đang dẫn đầu thị trường trong nước nhưng Kinh Đô nhận
thấy ngành hàng này không còn nhiều cơ hội phát triển như những năm đầu mới
thành lập công ty. Do đó, tập đoàn chuyển sang tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư vào
một số ngành hàng khác. Năm 2015, Mondelez International chính thức lộ diện và
mua đứt 80% cổ phần của Công ty CP Kinh Đô Bình Dương với giá khoảng 370
triệu USD (gần 8.000 tỷ đồng). Đồng thời, Công ty CP Kinh Đô đổi tên thành Công
ty CP Tập đoàn Kido (Kido Corporation).
• Một ví dụ điển hình nữa là: X-Men bán lại cho Marico (Ấn Độ). Năm 2003,
sản phẩm dầu gội đầu XMen xuất hiện với chiến lược marketing rầm rộ cùng slogan
“Đàn ông đích thực” và nhanh chóng trở thành nhãn hiệu dầu gội đầu số 1 dành
riêng cho nam giới. Đây là công ty hàng gia dụng quốc tế (ICP) của người Việt sản lOMoAR cPSD| 58702377
xuất. Từ năm 2011 các quỹ đầu tư thoái vốn, ICP cần tìm cho mình nhà đầu tư có
tiềm lực mạnh, cùng ngành nghề. Tháng 3/2011, tập đoàn mỹ phẩm Marico của Ấn
Độ mua lại 85% cổ phần ICP nhưng vẫn giữ lại toàn bộ nhân sự điều hành. Đến
năm 2014 Marico nắm giữ xấp xỉ 100% quyền biểu quyết tại ICP. Không chỉ những
doanh nghiệp trên, có rất nhiều doanh nghiệp nổi tiếng đã “bán mình” cho nước
ngoài. Việc gây dựng lên hình ảnh thương hiệu cùng với chất lượng nổi tiếng, đặc
biệt của quốc gia đang phát triển như Việt Nam trong mắt người tiêu dùng cả trong
nước và quốc tế đã là rất khó rồi. Dù để giải quyết vấn đề nội bộ công ty hay bất cứ
lý do nào khác, việc các thương hiệu Việt dần mất đi “chất Việt” cũng đặt ra dấu hỏi
lớn và đáng để chúng ta suy ngẫm.
2. Đầu tư nước ngoài tạo sự hỗn loạn đối với các doanh nghiệp cũng như
sản phẩm trong nước
Hoạt động thương mại quốc tế tại VN diễn ra sôi nổi. Theo số liệu báo cáo
thống kê năm 2019, Hàn Quốc dẫn đầu bảng xếp hạng cùng 134 quốc gia khác đầu
tư 30.827 với tổng số vốn hơn 300 tỷ USD vào VN. Nước ta được biết đến với
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, do vậy mà dự án các nước đầu tư vào lúc
đầu chỉ khai thác nguyên vật liệu thô với giá thành khá rẻ, sau đó được phát triển
với vốn cao hơn cùng công nghệ, kỹ thuật trong thời đại 4.0 điển hình như công
nghệ chế biến, chế tạo, bất động sản, khoa học công nghệ,... Nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài ấy thường được đầu tư cho các tập đoàn đa quốc gia bởi tính hiệu quả,
đa dạng, nhiều cơ sở làm tăng quy mô sản xuất, phát triển đồng đều, thu được nhiều
lợi nhuận hơn. Hoạt động thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài dần được các quốc gia
trên thế giới áp dụng nhiều hơn vì những lợi ích nó mang lại như: chuyển giao công
nghệ (các nước nhận đầu tư được lợi từ quyền sử dụng công nghệ và kỹ thuật từ
nước khác vào dây chuyền sản xuất của mình); tạo việc làm (quy mô sản xuất mở
rộng, người dân có việc làm, một phần gián tiếp giải quyết vấn đề thất nghiệp; mang
lại sự lựa chọn tốt hơn cho người tiêu dùng, họ có thể mua sản phẩm nước ngoài lOMoAR cPSD| 58702377
ngay trong nước, điều đó cũng giúp tỷ lệ nhập khẩu giảm đi, cân bằng lại cán cân
thương mại (đa dạng sản phẩm với mức giá khác nhau).
Không thể phủ nhận những phúc lợi kinh tế nhận được từ nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam
Á nước ta. Tuy nhiên, cuộc giao dịch, đầu tư nào cũng có những rủi ro nhất định,
các quốc gia đã đánh đổi những gì để nhận được miếng mồi báu bở đó từ các nhà
đầu tư nước ngoài? Việc sử dụng thành quả công nghệ từ nước ngoài, lấy cái sẵn có
ấy đưa vào sản xuất trong nước có ảnh hưởng nghiêm trọng rõ rệt nền kinh tế và
đời sống xã hội. Một số ảnh hưởng tiêu cực có thể kể đến như: mạng lưới thông tin
của người sử dụng có thể bị phá hủy, liên quan đến vấn đề riêng tư và an toàn của
họ; chênh lệch thu nhập giữa người lao động trí óc và chân tay…; và có thể nhận ra
ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là tạo nên sự hỗn loạn đối với doanh nghiệp và sản
phẩm trong nước. Các tập đoàn đa quốc gia càng phát triển và xuất hiện ở nhiều
nơi, càng tạo nên sức ép cho các doanh nghiệp trong nước. Vì đa quốc gia, kinh
nghiệm tích lũy ở nhiều nguồn, các nước nhận đầu tư từ đây cũng hoạt động hiệu
quả, xâm nhập, mở rộng ra toàn thị trường tiêu dùng, dễ dàng đạt được mục tiêu và
lợi nhuận mong muốn. Điều này đồng nghĩa với việc các sản phẩm nhập khẩu hay
mang danh nước ngoài được quảng cáo và ồ ạt bán ra thị trường với số lượng lớn,
phần đông vì tò mò và nghĩ dùng hàng nước ngoài đắt là tốt. Dẫn tới kết quả nhu
cầu của người dân đối với các sản phẩm trong nước giảm, thị phần của các doanh
nghiệp trong nước cũng giảm, gây sức ép lớn đối với các doanh nghiệp quốc nội.
Ví dụ điển hình đó là trong những năm gần đây, với sự phát triển của công
nghệ, các thiết bị điện tử được nâng cấp, chế tạo và sản xuất với nhiều tính năng
thông minh, ưu việt. Sự thay đổi ấy thể hiện rõ nhất ở các đời điện thoại và TV, 2
sản phẩm được tiêu thụ nhiều trên thị trường. Theo kênh gso.gov.vn Tổng cục thống
kê của VN, một trong số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trọng điểm trong 4
tháng đầu năm 2021 là dự án LG Display (tập đoàn lớn ở Hàn Quốc) Hải Phòng của
Công ty TNHH LG Display Việt Nam Hải Phòng được bổ sung vốn 750 triệu USD.
Lãnh đạo thành phố Hải Phòng vừa trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tăng thêm lOMoAR cPSD| 58702377
vốn cho LG Display Việt Nam Hải Phòng. Theo đó, với tổng mức đầu tư lên đến
3,25 tỷ USD, đây là dự án có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất trên địa bàn thành
phố. Dự án đã bắt đầu triển khai và đến tháng 5 sẽ chính thức đi vào sản xuất. LG
Display dự kiến tuyển thêm 5.000 lao động, đóng góp khoảng 5 triệu USD vào ngân
sách nhà nước mỗi năm. Nhà máy này chuyên sản xuất các sản phẩm màn hình
OLED TV, OLED nhựa cho các thiết bị, màn hình LCD… Số lượng các dòng TV
được bán ra rất nhiều, gần như sold out, mặc dù giá cả đắt đỏ và hơn trung bình
lương của nhóm người lao động bình thường ở VN. Đây là lí do gián tiếp dẫn tới
các dòng TV của VN không còn được ưa chuộng và lượng hàng tiêu thụ không đạt
ngưỡng trung bình, không có lợi nhuận, lãi tăng chậm và giảm nhanh khiến các
doanh nghiệp về lĩnh vực công nghệ của VN dừng sản xuất, hoạt động đầu tư trong
nước bị đóng băng. Tập đoàn lớn như Vingroup lúc bấy giờ chưa nhận đầu tư nước
ngoài phải tuyên bố VinSmart sẽ dừng sản xuất tivi, điện thoại di động để tập trung
nguồn lực phát triển các sản phẩm điện tử và các tính năng về “Infotainment” cho
ôtô VinFast. Trên thực tế, từ khi ra mắt 5 dòng sản phẩm đầu tiên vào cuối năm
2019 đến nay, thương hiệu tivi Vsmart chưa có thêm sản phẩm mới nào. Và cho tới
T3/2021, Vingroup mới đăng ký đầu tư 4 dự án ra nước ngoài và tăng vốn đầu tư ở
Mỹ, Đức. Ông Phạm Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Asanzo - một hãng TV của VN nổi
tiếng với mức giá bình dân, từng đánh giá tivi không còn là ngành hàng chủ chốt
của các doanh nghiệp điện tử tại VN. Ông cho rằng các sản phẩm của hàng hãng
đang dần bị xóa bỏ trên thị trường VN, các nguồn vốn đầu tư trong nước cho lĩnh
vực này đang dần rút lui vì hãng không duy trì được thị phần và thương hiệu của
mình. Ngược lại, các hãng như Sony, LG, Aqua, Samsung, Casper… được nhận vốn
và dây chuyền công nghệ từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Mỹ… lại liên tục tung
ra sản phẩm và công nghệ mới để đối đầu trực diện, đánh thẳng vào thị trường VN.
Do đó, thay đổi này đã tạo nên sự hỗn loạn cho các doanh nghiệp ở VN.
Một ví dụ khác, trong khoảng thời gian đầu và đỉnh điểm của đại dịch Covid19,
dù nước ta đã có phương án và cùng đồng lòng chống dịch rất tốt, nhưng không thể
phủ nhận sự thiếu thốn từ các dụng cụ y tế tốt, hiện đại và nhận được hỗ trợ nguồn lOMoAR cPSD| 58702377
thực phẩm, vaccine từ đồng bào quốc tế. Các nước như Ấn Độ, Anh, Australia,
Cuba, Đức… cũng đã có những cam kết cụ thể về viện trợ, ưu tiên, hợp tác chuyển
giao công nghệ với Việt Nam. Về thiết bị, vật tư y tế và nguồn lực phòng chống
dịch bệnh, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ hết sức có ý nghĩa từ UNICEF, Lào,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Đức, Campuchia, Saudi Arabia. Dịch bùng nổ,
nông dân mất mùa, công nhân nghỉ việc, không có nguồn nguyên vật liệu tạo ra sản
phẩm, các doanh nghiệp VN phải đối đầu với việc công ty phá sản. Thiếu hụt sản
phẩm Việt, ta quyết định nhập khẩu hàng hóa và sản phẩm từ nước ngoài, người tiêu
dùng lại đổ xô đi mua trữ đầy nhà, sản phẩm Việt rớt giá, sản phẩm khác với hãng
nước ngoài tăng, tạo hỗn loạn trao đổi mua bán hàng hóa trong chính thị trường
nước nhà. Hậu Covid-19, VN tăng trưởng tỷ lệ thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh
mẽ ở mảng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (các mặt hàng xuất khẩu chủ lực -
tăng 55,4%), bỏ xa các nhà đầu tư trong nước ở các chiến dịch (vd: giải cứu thanh
long ở Long An). Mỗi năm, có gần 140.000 doanh nghiệp ra đời, hơn 50% chủ
doanh nghiệp khác phải dừng cuộc chơi, các doanh nghiệp không phát triển được
bền vững và lớn mạnh khi chỉ thực hiện nhận vốn từ trong nước, họ luôn bấp bênh,
lúc tăng lúc giảm. Sự hỗn loạn như vậy chính là một phần của nguyên nhân hoạt
động đầu tư nước ngoài luôn chiếm ưu thế, đầu tư trong nước bị kìm hãm, không
thích ứng được với thị trường đầy biến động do các tập đoàn đa quốc gia phần lớn
làm chủ. Nguồn lực bị hạn chế, không có môi trường và cơ hội cho doanh nghiệp
trong nước, các nhà đầu tư trong nước đang phát triển đang phải đối mặt với môi
trường kinh tế khó khăn, bị kìm hãm toàn diện.
3. Nguồn vốn đầu tư FDI nước ngoài ảnh hưởng đến thị trường lao động
Việt Nam, tạo ra sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động, gây nên những tác động tiêu cực.
Theo số liệu thống kê, số lượng lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã tăng từ 330 nghìn năm 1995 lên khoảng 6,1 triệu lao động vào
năm 2019. Tốc độ tăng lao động của khu vực này, bình quân 7,72%/năm giai đoạn lOMoAR cPSD| 58702377
2005-2017, cao hơn nhiều tăng trưởng lao động toàn nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.
Thời gian tới, với làn sóng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng
nhiều vào Việt Nam chắc chắn cơ cấu ngành lao động sẽ có sự thay đổi. Thị trường
lao động lúc đó sẽ đòi hỏi nhân lực có trình độ trung bình trở lên thay vì các ngành
thâm dụng lao động như hiện nay.
“Những xu thế vĩ mô này đã và đang làm nổi bật một số xu hướng rõ rệt đối
với dòng chảy và chính sách thu hút vốn FDI trên toàn thế giới và thay đổi căn bản
thị trường lao động thế giới, trong đó có Việt Nam"- Bộ trưởng Bộ Lao động Thương
binh & Xã hội Đào Ngọc Dung nhận định và nhấn mạnh. Trong tương lai gần, cấu
trúc lao động đã, đang và sẽ tiếp tục dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu việc làm sẽ có xu hướng dịch chuyển từ các
lĩnh vực thâm dụng lao động sang các ngành ứng dụng công nghệ. Việc làm sử dụng
lao động phổ thông, ít kỹ năng sẽ giảm dần, thay vào đó là việc làm yêu cầu lao
động có trình độ cao hơn và nhiều kỹ năng hơn.
Điều đó đồng nghĩa với việc, người lao động nằm trong khu vực ngành nghề
truyền thống, ngành nghề phổ thông, cơ bản sẽ rơi vào trạng thái mất việc làm, thất
nghiệp. Sự dịch chuyển lao động sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gây nên
sự bất ổn trong thị trường lao động, cũng như các vấn đề an sinh, xã hội khác. Các
doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư nước ngoài thường trả cho công nhân mức lương
cao hơn các doanh nghiệp tư nhân trong nước, điều này dẫn đến sự so sánh trong
công nhân. Người lao động vì yếu tố này mà tác động đến tâm lý, có xu hướng thôi
việc, nghỉ việc ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước mà dịch chuyển đến
các doanh nghiệp FDI; gây mất cân bằng cơ cấu lao động, ảnh hưởng và gây tổn
thất không nhỏ tới các doanh nghiệp trong nước.
Đáng chú ý, ở quý đầu năm 2021 trên toàn quốc, lương lao động doanh nghiệp
FDI đang dẫn đầu với mức 8,049 triệu đồng/người/tháng. Mức lương trung bình
này tăng gần 700 nghìn đồng so với quý trước, cao hơn 1,2 triệu đồng so với mức lOMoAR cPSD| 58702377
lương trung bình lao động khối doanh nghiệp tư nhân. Chính bởi mức lương cao
hơn hẳn như vậy, các doanh nghiệp FDI càng có nhiều cơ hội để thu hút một lượng
lớn lao động về phía mình, sư chuyển dịch lao động này càng thể hiện rõ rệt. Cụ
thể, theo tổng điều tra kinh tế năm 2021 theo loại hình doanh nghiệp, tại thời điểm
31/12/2020, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tập trung nhiều doanh nghiệp và
lao động nhất, với 660,1 nghìn doanh nghiệp, chiếm 96,4% tổng số doanh nghiệp
cả nước, tăng 35,1% so với năm 2016; thu hút 8,6 triệu lao động, chiếm 58,6% trong
tổng số lao động, tăng 0,4% so với năm 2016. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp
FDI có tốc độ tăng số doanh nghiệp nhanh nhất trong ba khu vực và chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn trong tổng số việc làm tạo ra tại khu vực doanh nghiệp. Số lượng
doanh nghiệp FDI là 22,2 nghìn doanh nghiệp, chiếm 3,3% tổng số doanh nghiệp,
tăng 58,8% so năm 2016; thu hút 5,1 triệu lao động, chiếm tỷ trọng 34,6%, tăng 22,5% so với năm 2016.
Với tốc độ tăng lao động như vậy, doanh nghiệp FDI sẽ ngày càng có ưu thế
và tuyển dụng ngày càng nhiều lao động hơn, sự mất cân đối cơ cấu lao động sẽ
ngày càng diễn ra đậm nét.
Bên cạnh đó, người lao động còn đối mặt với sự bất công khi làm việc ở các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này càng gây nên sự bất ổn
trong thị trường lao động, là biểu hiện của sự tác động tiêu cực từ nguồn vốn đầu tư
nước ngoài tới thị trường lao động Việt Nam.
Thứ nhất, phải đề cập đến việc tuyển dụng một cách ồ ạt và sau một thời gian
bị sa thải hàng loạt cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Quan hệ lao động chủ
yếu 96% giao kết hợp đồng có thời hạn từ 1 - 3 năm và hợp đồng không xác định
thời hạn. Tuy nhiên, tình hình biến động lao động là rất lớn, mặc dù lao động tăng
thêm hàng năm trong doanh nghiệp FDI khoảng 10%, nhưng biên độ biến động lao
động (vào - ra) trong các doanh nghiệp này lên tới 50 - 60% (tuyển vào 30 -
35%/năm; ra khỏi DN 20 - 25%/năm), thậm chí có khu vực lên tới 70%. Trên 2/3
lao động đã từng thay đổi nơi làm việc ít nhất 1 lần, trong đó, 53% đã từng thay đổi
nơi làm việc 2 - 3 lần, gần 10% đã từng làm ở 4 doanh nghiệp trở lên. Người lao lOMoAR cPSD| 58702377
động phải làm việc trong môi trường độc hại, cường độ lao động cao, không được
đóng bảo hiểm xã hội. Khi nghỉ việc tự nguyện hoặc không tự nguyện thì vấn đề
tìm việc làm mới không được đảm bảo.
Thứ hai, vấn đề chế độ dành cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI.
Theo số liệu do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam công bố hàng năm cho thấy,
hiện chỉ có 21% số doanh nghiệp FDI tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế cho người lao động và trích nộp kinh phí công đoàn với số lượng 517.000 người.
Đây là một tỷ lệ quá nhỏ so với số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp
FDI ở nước ta hiện nay. Thực trạng này đã gây ra những thiệt thòi nhất định đối với
người lao động trong các doanh nghiệp FDI. Dù rằng, bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt
buộc, còn có hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, nhưng những
bất cập trong một số quy định của hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đã làm giảm
đi sức hút và sự quan tâm của người lao động đối với hình thức bảo hiểm này. Điều
này đã dẫn đến thực trạng nhiều lao động trong các doanh nghiệp FDI có nguyện
vọng tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chưa được tham gia, tạo ra những tác động
tiêu cực đến tâm lý, ý thức và thái độ lao động của một bộ phận người lao động làm
thuê trong các doanh nghiệp FDI ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, các doanh nghiệp FDI đang có nhiều bất cập trong chính sách tiền
lương. Không ít doanh nghiệp FDI chưa thực hiện tốt chính sách tiền lương như
chậm nâng mức lương tối thiểu, không nâng lương niên hạn cho công nhân, thực
hiện chính sách phạt trừ tiền lương người lao động, tăng ca nhiều, không đóng hoặc
nợ tiền bảo hiểm xã hội,… Do đó, tồn tại một thực trạng là các đơn vị này luôn
trong tình trạng thiếu hụt lao động, lao động đình công, bỏ việc,... làm ảnh hưởng
đến hoạt động của doanh nghiệp và an ninh trật tự xã hội. Người lao động tại các
doanh nghiệp này hầu hết có mức lương thấp, bình quân dưới 2 lần lương cơ bản,
đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhiều doanh nghiệp khó tuyển dụng lao động
và nhiều cuộc đình công xảy ra trong khu vực này. lOMoAR cPSD| 58702377
4. Các danh nghiệp có nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài tạo nên sức mạnh độc quyền
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là khi nhân loại vừa trải
qua đại dịch Covid-19, vấn đề phục hồi và phát triển nền kinh tế đòi hỏi các nước
đang phát triển phải nhanh chóng mở cửa thương mại và thu hút vốn FDI để đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc mở rộng quá nhiều các FTA (free trade
agreement) với bên ngoài vô tình khiến cho các nước này bỏ quên việc bảo vệ thị trường trong nước.
Các doanh nghiệp nhận vốn từ nước ngoài dễ dàng lấn át được hoạt động của
các doanh nghiệp nội địa vì chiếm thị phần lớn trên thị trường nhờ có nguồn vốn
dồi dào và máy móc, công nghệ hiện đại. Hơn nữa, chủ đầu tư nước ngoài thường
lựa chọn doanh nghiệp có tiềm năng và đang trên đà phát triển để rót vốn vào, vì
vậy mà việc sản xuất kinh doanh sau khi có vốn FDI càng được mở rộng. Điển hình
là thương vụ M&A (merge and acquisitions) giữa ThaiBev với Tổng công ty Bia –
Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (SABECO). Thaibev là một trong những công ty
nước giải khát lớn của Đông Nam Á, đồng thời là công ty giải khát lớn nhất Thái
Lan. Năm 2017, ThaiBev mua lại 53,59% cổ phần của Sabeco với giá 4,8 tỷ USD.
Ngay sau đó, Sabeco tăng trưởng mạnh, vào cuối năm 2019, Sabeco chiếm thị phần
lớn nhất thị trường bia Việt Nam với 40,9%, lớn hơn nhiều so với các dòng bia khác
của Việt Nam như bia Hà Nội, bia Sài Gòn, ... là các thương hiệc bia nổi tiếng của Habeco lOMoAR cPSD| 58702377
Bên cạnh chiến lược của các nhà đầu tư thì lựa chọn của người tiêu dùng cũng
là một trong những yếu tố giúp cho doanh nghiệp có vốn FDI chiếm được thị trường.
Các sản phẩm của doanh nghiệp nội địa thường có giá thành cao hơn vì được sản