Hoạt động ngân hàng gì? Phân tích các hoạt
động ngân hàng
Để tạo lập hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng hoạt động an toàn phát
huy vai trò tích cực đối với nền kinh tế đời sổng hội, đòi hỏi nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó biện pháp sử dụng pháp
luật.
nước ta, cùng với quá trĩnh xây dựng phát triển hệ thổng ngân hàng, tổ
chức tín dụng, pháp luật ngân hàng cũng được Nhà nước ta quan tâm xây
dựng hoàn thiện. Pháp luật ngân hàng được Nhà nước sử dụng làm ng
cụ quản duy trĩ trật tự cho các hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế.
1. Ngân hàng gì?
Như ta đã biết ngân hàng một tổ chức kinh tế đối tượng trong các giao
dịch nghề nghiệp là tiền tệ.
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X, kỳ họp
thứ 2 thông qua năm 1997, ngân hàng được hiểu doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh tiền tệ dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi kỳ hạn,
không kỳ hạn đ cấp tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng loại hình tổ chức tín dụng không bị hạn chế phạm vi thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như các t chức tín dụng phi ngân hàng. Tổ
chức tín dụng ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
các hoạt động kinh doanh khác liên quan.Còn tổ chức tín dụng phi ngân
hàng không được nhận tiền gửi không hạn, không được làm dịch vụ thanh
toán.
2. Hoạt động ngân hàng gì?
Hoạt động ngân hàng việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc
một số nghiệp vụ n nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản.
+ Hoạt động nhận tiền: Theo khoản 13 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010
thì hoạt động nhận tiền gửi hoạt động nhận tiền của tổ chức, nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo
thỏa thuận.
Việc nhận tiền gửi được thực hiện diễn ra liên tục thường xuyên nhất tại
Ngân hàng, việc nhận tiền gửi một trong những hoạt động giúp cho ngân
hàng huy động được nguồn tiền, nguồn vốn đ duy trì hoạt động khác của
ngân hàng.
+Hoạt động cấp tín dụng: Theo khoản 14 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm
2010 thì hoạt động cấp tín dụng việc thỏa thuận để tổ chức, nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Đây hoạt động chủ yếu của ngân hàng, việc cấp tín dụng cho một tổ chức
hay nhân được phép sử dụng được hiểu n một giao kết qua lại giữa các
bên khách hàng ngân hàng đó
+ Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Căn cứ theo khoản
15 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản được hiểu việc cung ứng phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua i khoản của khách hàng.
+ Hoạt động cho vay: Căn cứ tại khoản 16 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm
2010 thì hoạt động cho vay được hiểu nh thức cấp tín dụng, theo đó bên
cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc hoàn trả cả gốc lãi.
3. Phân tích hoạt động ngân hàng
Trong quá trình phát triển của hội loài người, khi sản xuất hàng h phát
triển thì kéo theo sự hình thành phát triển của các quan hệ thương mại
giữa các khu vực, giữa các quốc gia sử dụng các đồng tiền khác nhau. Việc
mua, bán, trao đổi hàng hoá giữa các khu vực, giữa các quốc gia sử dụng
đông tiền khác nhau làm nảy sinh nhu cầu đổi tiền. Các thương nhân phải đổi
các loại tiền của mình để lấy các loại tiền khác thích ứng với từng quan h
mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Đe đáp ứng nhu cầu đổi tiền của các
thương nhân, hộỉ xuất hiện tầng lớp thương nhân mới đó những người
làm nghề đổi tiền. Ban đàu tầng lớp thương nhân mới này chỉ thuần t làm
nghề đổi tiền nhưng dần dần do yêu cầu của khách hàng họ thực hiện
thêm các dịch vụ khác như nhận tiền gửi, cho vay... Cùng với sự phát triển
của nền văn minh nhân loại, nghề đổi tiền các dịch vụ kinh doanh tiền tệ
cũng phát triển trở thành một nghề kinh doanh được gọi nghề ngân
hàng.
Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng, nghề ngân hàng xuất hiện đầu tiên
miền Bắc Italia o thời trung cổ. Người Italia gọi nghề kinh doanh này
bàng từ “Banco”.
Ngày nay, để đáp ứng sự phát triển đa dạng của nền kinh tể mỗi quốc gia
tính toàn cầu hoá của kinh tế thế giới, với sự phát triển của khoa học
công nghệ, hoạt động ngân hàng ngày càng mang tính đa dạng tinh xảo
về các nghiệp vụ kinh doanh. Đồng thời, cấu chù thể hoạt động trong lĩnh
vực ngân hàng cũng đa dạng như: ngân hàng trung ương, các ngân hàng
thương mại, ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng V.V..
Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu trong văn bản pháp luật của nhiều
nước, khái niệm “hoạt động ngân hàng” thường được dùng để chỉ hoạt động
kinh doanh ngân hàng.
Trong hoạt động ý dựng áp dụng pháp luật, việc chuẩn hoá khái niệm
“hoạt động ngân hàng” tác dụng lớn trong việc c định phạm vi áp dụng
đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vậy, trong đạo
luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng của nhiều nước điều luật
ghi nhận hoạt động nào hoạt động kinh doanh ngân hàng.
nhiều nước, pháp luật không đưa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động
ngân hàng liệt các hoạt động được coi lả hoạt động ngân hàng. Chẳng
hạn, Luật c tổ chức tài chính ngân hàng của Malaysia năm 1989 liệt
các dạng hoạt động được coi hoạt động ngân hàng như:
- Huy động tiền gửi của khách hàng;
- Cấp tín dụng;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán;
Việt Nam, tại Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam tại Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng được Quốc hội khoá XII, họp thứ 7 thông qua ngày 16
tháng 6 năm 2010 giải thích khái niệm hoạt động ngân hàng như sau: Hoạt
động ngân hàng việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua i khoản.
Tiền tệ vật trung gian trong trao đổi hàng hoá, thực hiện chức năng
phương tiện thanh toán.
Cấp tín dụng là việc thoả thuận để tổ chức, nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng các nghiệp vụ cấp tín dụng khác (khoản 14 Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng m 2010).
Việc cung ứng dịch vụ thanh toán với tính cách hoạt động ngân hàng được
thực hiện dưới nhiều hình thức như: thực hiện dịch vụ thanh toán séc, thẻ
ngân hàng...
Dịch vụ ngân hàng các loại ng việc tổ chức tín dụng phục vụ khách hàng
liên quan tới hoạt động tiền tệ.
Như vậy, hoạt động ngân hàng là loại hình hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế đối tượng kinh doanh tiền tệ. Đây dấu hiệu quan trọng để phân
biệt hoạt động kinh doanh ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác
trong nền kinh tế như với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, hoạt động
kinh doanh dịch vụ đời sống V.V..
4. Các loại hình ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
+ Ngân hàng chính sách xã hội :
Ngân hàng chính sách hội ngân hàng do Nhà nước thành lập để cho
những người thuộc đối tượng chính sách vay vốn phát triển sản xuất, giải
quyết đời sống, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Ngân hàng chính sách hội ngân hàng phục vụ người nghèo chức
năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, nhân trong nước ngoài
nước , tiếp nhận các nguồn vốn n dụng của Nhà nước đối với người nghèo
các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người
nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo. Hoạt
động của ngân hàng phục vụ người nghèo mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ,
không mục đích lợi nhuận , thực hiện việc bảo toàn vốn ban đầu, phát triển
vốn, đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực
tiếp đối với hộ nghèo sức lao động nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát
triển sản xuất,không phải thế chấp tài sản, hoàn trả vốn vay theo lãi
suất quy định.
Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn giảm thuế doanh thu (thuế
giá trị gia tăng) thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) , để giảm lãi suất
cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro bất khả kháng trong quá trình hoạt
động của Ngân hàng phục vụ người nghèo được đắp bằng quỹ đắp rủi
ro theo quy chế tài chính của Bộ Tài chính.
Ngân hàng chính sách hội được huy động vốn của các t chức, nhân
trong ngoài nước, tiếp nhận c nguồn vốn của Chính phủ Ủy ban nhân
dân các cấp để cho người nghèo các đối tượng chính sách khác vay.
Hoạt động của Ngân hàng chính sách hội không mục đích lợi nhuận,
được Nhà nước bảo đảm khả ng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%
(không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế
các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam
quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản nhà nước về tiền tệ
hoạt động ngân hàng, ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ổn định giá trị đồng
tiền, kiềm chế lạm phát đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng hệ
thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế- hội theo định
hướng hội chủ nghĩa.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam tư cách pháp nhân, cố vốn pháp định, t
chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành hoạt
động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, các văn phòng đại diện trong nước, ngoài nước các
đơn vị trực thuộc. Theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam
năm 1997. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam là người lãnh đạo, điều
hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành viên của Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa chức năng ngân hàng trung ương,
thực hiện c hoạt động kinh doanh vừa quan của Chính phủ. Kể từ sau
cải cách hệ thống ngân hàng theo chế kinh tế thị trường, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam không còn thực hiện hai chức năng bản quản lý nhà
nước về ngân hàng chức năng ngân hàng trung ương của đất nước.
Với chức năng của quan quản Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thực hiện quản nhà nước về tiền tệ hoạt động ngân hàng như: cấp,
thu hồi giấy phép thành lập hoạt động đối với tổ chức tín dụng, cấp thu hồi
giấy phép hoạt động ngân hàng đối với c tổ chức khác, quản việc vay, trả
nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Với chức năng ngân hàng trung ương,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các hoạt động như phát hành, điều hòa lưu
thông tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng.
+ Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn:
Ngân hàng thương mại Nhà nước chuyên doanh tiền tệ , tín dụng dịch vụ
ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm phát
triển kinh tế, văn hóa, hội nông thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn do Nhà nước đầu 100%
vốn thành lập thuộc sở hữu nhà nước. Thực hiện chủ trương cải cách hệ
thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, ngày 26.3.1988, Hội đồng Bộ trưởng
ban hành nghị định số 53/HĐBT quy định lại cấu tổ chức của Ngân hàng
Nhà nước, các ngân hàng chuyên nghiệp được đổi thành ngân hàng chuyên
doanh, trong đó Ngân ng nông nghiệp.
Trên sở pháp lệnh ngân hàng, hợp tác tín dụng công ty tài chính
năm 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 400-CT
ngày 14.11.1990 về việc thành lập Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong đó
quy định rõ; Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam ngân hàng thương mại quốc
doanh, các pháp nhân thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng
dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư diêm nghiệp.
Chức năng ch yếu của Ngân hàng này kinh doanh, tiền tệ, tín dụng, dịch
vụ ngân hàng, cho tập thể, nhân vay tiền với lãi suất thấp nhất nhằm phát
triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế hợp tác xã,kinh tế hộ gia đình,
góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nông dân nhân dân nói chung,
góp phần hiện đại hóa ng nghiệp.
+ Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng kinh doanh tiền t mục đích lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu thường xuyên nhận tiền gửi
của khách hàng để cấp tín dụng thực hiện nghiệp vụ chiếu khấu làm
phương tiện thanh toán. Với cách tổ chức kinh doanh, hoạt động của
ngân hàng thương mại dựa trên sở chế độ hoạch toán kinh tế, nhằm mục
đích lợi nhuận. Ngân hàng thương mại được pháp luật cho phép thực
hiện rộng rãi các loại nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như: nhận tiền gửi
hạn, nhận tiền gửi không kỳ hạn; thực hiện nghiệp vụ chiết khấu; dịch vụ
thanh toán ; huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ nhận nợ
Theo quy địnhcủa Luật t chức các tín dụng năm 1997 Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật tổ chức các n dụng ban hành năm 2004, ngân
hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Về loại hình kinh doanh có: ngân hàng thương mại trung tâm, ngân hàng
thương mại khu vực, ngân ng thương mại địa phương.
+ Về hình thức t chức có: ngân hàng thương mại sở, ngân hàng thương
mại chi nhánh, ngân hàng thương mại chấp hữu.
+ Về hình thức sở hữu có: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng
thương mại liên doanh.
+ Về đối tượng kinh doanh có: ngân hàng thương mại công thương, ngân
hàng nông nghiệp phát triển nông thôn, ngân hàng ngoại thương…
+ Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng thực hiện các hoạt động của Nhà nước về tiền tệ dịch vụ ngân
hàng, giữ vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính chính
thức của một quốc gia.
Chức năng phổ biến của ngân hàng, trung ương trên thế giới thực hiện
chức năng công quyền về ngân hàng như: phát hành đồng tiền quốc gia, bảo
vệ giá trị đối nội đối ngoại của đồng tiền đó, điều hòa lưu thông tiền t
một quốc gia hoặc trong một liên minh giữa một số quốc gia. Khác với các
ngân ng thương mại, ngân hàng trung ương hoạt động chủ yếu nhằm mục
đích thực hiện chính sách tiền tệ của một quốc gia hoặc của liên minh một số
quốc gia. Ngoài ra, ngân hàng trung ương thể nhiệm vụ giám sát, kiểm
tra, ban hành các quy chế quản hoạt động ngân hàng, cũng như chịu trách
nhiệm về hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.
5. Vai t ca ngân hàng n nước
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhiệm vụ phát hành giấy bạc, điều hòa sự
lưu hành tiền tệ; huy động vốn của nhân dân, điều hành mở rộng tín dụng
để nâng cao sản xuất của nhân dân phát triển kinh tế nhà nước; quản lý
ngân quỹ quốc gia; quản ngoại tệ thanh toán các khoản giao dịch với
nước ngoài; quản kim dung bằng các thể lệ hành chính: thể l bằng vàng
bạc, thể lệ về quỹ của c doanh nghiệp, quốc gia. Nói chung, Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam làm những công việc để thi hành chính sách tiền tệ, chính
sách tín dụng chính sách ngân hàng của Chính phủ. Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam tổ chức theo hình trung ương Ngân ng Quốc gia Trung
ương. mỗi liên khu, một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Mỗi
tỉnh thành phố một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngoài ra,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thể mở chi nhánh trong nước hay ngoài
nước. Tổng Giám đốc quyền hạn danh vị n một B trưởng. Điều đó
xác định vị thế của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam quan của Chính
phủ, thực hiện chức năng quản nhà nước về tiền tệ, ngân quỹ quốc gia,
vàng bạc. Nhiệm vụ, quyền hạn hình tổ chức của Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam xác định địa vị pháp lý của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
Ngân hàng Trung ương, đồng thời một ngân hàng thương mại. Ngay từ khi
ra đời, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã thực hiện đồng thời cả ba chức
năng của quan quản nhà nước về tiền tệ, chức năng của Ngân hàng
Trung ương chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương thực thi chính
sách tiền tệ, phát hành tiền điều hòa lưu thông tiền tệ theo Nghị quyết Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ hai (tháng 10/1951) về ngân hàng là: Nắm
vững hai việc chính phát hành giấy bạc quản kho bạc, thực hiện chính
sách tín dụng để phát triển sản xuất". Đồng thời, Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam còn thực hiện hoạt động của ngân hàng thương mại. Đó là, huy động
vốn của nhân dân, điều hòa mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của
nhân dân phát triển kinh tế nhà nước.

Preview text:

Hoạt động ngân hàng là gì? Phân tích các hoạt động ngân hàng
Để tạo lập hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và phát
huy vai trò tích cực đối với nền kinh tế và đời sổng xã hội, đòi hỏi nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp sử dụng pháp luật.
Ở nước ta, cùng với quá trĩnh xây dựng và phát triển hệ thổng ngân hàng, tổ
chức tín dụng, pháp luật ngân hàng cũng được Nhà nước ta quan tâm xây
dựng và hoàn thiện. Pháp luật ngân hàng được Nhà nước sử dụng làm công
cụ quản lí và duy trĩ trật tự cho các hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế. 1. Ngân hàng là gì?
Như ta đã biết ngân hàng là một tổ chức kinh tế có đối tượng trong các giao
dịch nghề nghiệp là tiền tệ.
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X, kỳ họp
thứ 2 thông qua năm 1997, ngân hàng được hiểu là doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi có kỳ hạn,
không kỳ hạn để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng không bị hạn chế phạm vi thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Tổ
chức tín dụng là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Còn tổ chức tín dụng phi ngân
hàng không được nhận tiền gửi không kì hạn, không được làm dịch vụ thanh toán.
2. Hoạt động ngân hàng là gì?
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc
một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
+ Hoạt động nhận tiền: Theo khoản 13 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010
thì hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Việc nhận tiền gửi được thực hiện diễn ra liên tục và thường xuyên nhất tại
Ngân hàng, việc nhận tiền gửi là một trong những hoạt động giúp cho ngân
hàng huy động được nguồn tiền, nguồn vốn để duy trì hoạt động khác của ngân hàng.
+Hoạt động cấp tín dụng: Theo khoản 14 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm
2010 thì hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, việc cấp tín dụng cho một tổ chức
hay cá nhân được phép sử dụng được hiểu như một giao kết qua lại giữa các
bên khách hàng và ngân hàng đó
+ Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Căn cứ theo khoản
15 điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản được hiểu là việc cung ứng phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
+ Hoạt động cho vay: Căn cứ tại khoản 16 Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm
2010 thì hoạt động cho vay được hiểu là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên
cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
3. Phân tích hoạt động ngân hàng
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, khi sản xuất hàng hoá phát
triển thì kéo theo sự hình thành và phát triển của các quan hệ thương mại
giữa các khu vực, giữa các quốc gia sử dụng các đồng tiền khác nhau. Việc
mua, bán, trao đổi hàng hoá giữa các khu vực, giữa các quốc gia sử dụng
đông tiền khác nhau làm nảy sinh nhu cầu đổi tiền. Các thương nhân phải đổi
các loại tiền của mình để lấy các loại tiền khác thích ứng với từng quan hệ
mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Đe đáp ứng nhu cầu đổi tiền của các
thương nhân, xã hộỉ xuất hiện tầng lớp thương nhân mới đó là những người
làm nghề đổi tiền. Ban đàu tầng lớp thương nhân mới này chỉ thuần tuý làm
nghề đổi tiền nhưng dần dần do yêu cầu của khách hàng mà họ thực hiện
thêm các dịch vụ khác như nhận tiền gửi, cho vay... Cùng với sự phát triển
của nền văn minh nhân loại, nghề đổi tiền và các dịch vụ kinh doanh tiền tệ
cũng phát triển trở thành một nghề kinh doanh và được gọi là nghề ngân hàng.
Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng, nghề ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở
miền Bắc Italia vào thời kì trung cổ. Người Italia gọi nghề kinh doanh này bàng từ “Banco”.
Ngày nay, để đáp ứng sự phát triển đa dạng của nền kinh tể ở mỗi quốc gia
và tính toàn cầu hoá của kinh tế thế giới, với sự phát triển của khoa học và
công nghệ, hoạt động ngân hàng ngày càng mang tính đa dạng và tinh xảo
về các nghiệp vụ kinh doanh. Đồng thời, cơ cấu chù thể hoạt động trong lĩnh
vực ngân hàng cũng đa dạng như: ngân hàng trung ương, các ngân hàng
thương mại, ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng V.V.
Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và trong văn bản pháp luật của nhiều
nước, khái niệm “hoạt động ngân hàng” thường được dùng để chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Trong hoạt động xâý dựng và áp dụng pháp luật, việc chuẩn hoá khái niệm
“hoạt động ngân hàng” có tác dụng lớn trong việc xác định phạm vi áp dụng
đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vì vậy, trong đạo
luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng của nhiều nước có điều luật
ghi nhận hoạt động nào là hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ở nhiều nước, pháp luật không đưa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động
ngân hàng mà liệt kê các hoạt động được coi lả hoạt động ngân hàng. Chẳng
hạn, Luật các tổ chức tài chính và ngân hàng của Malaysia năm 1989 liệt kê
các dạng hoạt động được coi là hoạt động ngân hàng như:
- Huy động tiền gửi của khách hàng; - Cấp tín dụng;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán;
Ở Việt Nam, tại Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và tại Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng được Quốc hội khoá XII, kì họp thứ 7 thông qua ngày 16
tháng 6 năm 2010 giải thích khái niệm hoạt động ngân hàng như sau: Hoạt
động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Tiền tệ là vật trung gian trong trao đổi hàng hoá, thực hiện chức năng phương tiện thanh toán.
Cấp tín dụng là việc thoả thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác (khoản 14 Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010
).
Việc cung ứng dịch vụ thanh toán với tính cách là hoạt động ngân hàng được
thực hiện dưới nhiều hình thức như: thực hiện dịch vụ thanh toán séc, thẻ ngân hàng...
Dịch vụ ngân hàng là các loại công việc tổ chức tín dụng phục vụ khách hàng
liên quan tới hoạt động tiền tệ.
Như vậy, hoạt động ngân hàng là loại hình hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân
biệt hoạt động kinh doanh ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác
trong nền kinh tế như với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, hoạt động
kinh doanh dịch vụ đời sống V.V.
4. Các loại hình ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
+ Ngân hàng chính sách xã hội :
Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng do Nhà nước thành lập để cho
những người thuộc đối tượng chính sách vay vốn phát triển sản xuất, giải
quyết đời sống, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng phục vụ người nghèo có chức
năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài
nước , tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo
và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người
nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo. Hoạt
động của ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ,
không vì mục đích lợi nhuận , thực hiện việc bảo toàn vốn ban đầu, phát triển
vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực
tiếp đối với hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát
triển sản xuất,không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.
Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn giảm thuế doanh thu (thuế
giá trị gia tăng) và thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) , để giảm lãi suất
cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro bất khả kháng trong quá trình hoạt
động của Ngân hàng phục vụ người nghèo được bù đắp bằng quỹ bù đắp rủi
ro theo quy chế tài chính của Bộ Tài chính.
Ngân hàng chính sách xã hội được huy động vốn của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn của Chính phủ và Ủy ban nhân
dân các cấp để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay.
Hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội không vì mục đích lợi nhuận,
được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%
(không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế
và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là
cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ổn định giá trị đồng
tiền, kiềm chế lạm phát và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ
thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có tư cách pháp nhân, cố vốn pháp định, tổ
chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt
động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, các văn phòng đại diện ở trong nước, ở ngoài nước và các
đơn vị trực thuộc. Theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam
năm 1997. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam là người lãnh đạo, điều
hành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là thành viên của Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có chức năng ngân hàng trung ương,
thực hiện các hoạt động kinh doanh vừa là cơ quan của Chính phủ. Kể từ sau
cải cách hệ thống ngân hàng theo cơ chế kinh tế thị trường, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam không còn thực hiện hai chức năng cơ bản là quản lý nhà
nước về ngân hàng và chức năng ngân hàng trung ương của đất nước.
Với chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng như: cấp,
thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, cấp thu hồi
giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức khác, quản lý việc vay, trả
nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Với chức năng là ngân hàng trung ương,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các hoạt động như phát hành, điều hòa lưu
thông tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng.
+ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn:
Ngân hàng thương mại Nhà nước chuyên doanh tiền tệ , tín dụng và dịch vụ
ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do Nhà nước đầu tư 100%
vốn thành lập và thuộc sở hữu nhà nước. Thực hiện chủ trương cải cách hệ
thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, ngày 26.3.1988, Hội đồng Bộ trưởng
ban hành nghị định số 53/HĐBT quy định lại cơ cấu tổ chức của Ngân hàng
Nhà nước, các ngân hàng chuyên nghiệp được đổi thành ngân hàng chuyên
doanh, trong đó có Ngân hàng nông nghiệp.
Trên cơ sở pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
năm 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 400-CT
ngày 14.11.1990 về việc thành lập Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong đó
quy định rõ; Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là ngân hàng thương mại quốc
doanh, có tư các pháp nhân thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng
và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư diêm nghiệp.
Chức năng chủ yếu của Ngân hàng này là kinh doanh, tiền tệ, tín dụng, dịch
vụ ngân hàng, cho tập thể, cá nhân vay tiền với lãi suất thấp nhất nhằm phát
triển trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế hợp tác xã,kinh tế hộ gia đình,
góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nông dân và nhân dân nói chung,
góp phần hiện đại hóa nông nghiệp.
+ Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng để cấp tín dụng và thực hiện nghiệp vụ chiếu khấu và làm
phương tiện thanh toán. Với tư cách là tổ chức kinh doanh, hoạt động của
ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở chế độ hoạch toán kinh tế, nhằm mục
đích là có lợi nhuận. Ngân hàng thương mại được pháp luật cho phép thực
hiện rộng rãi các loại nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như: nhận tiền gửi có
kì hạn, nhận tiền gửi không kỳ hạn; thực hiện nghiệp vụ chiết khấu; dịch vụ
thanh toán ; huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ nhận nợ…
Theo quy địnhcủa Luật tổ chức các tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật tổ chức các tín dụng ban hành năm 2004, ngân
hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Về loại hình kinh doanh có: ngân hàng thương mại trung tâm, ngân hàng
thương mại khu vực, ngân hàng thương mại địa phương.
+ Về hình thức tổ chức có: ngân hàng thương mại cơ sở, ngân hàng thương
mại chi nhánh, ngân hàng thương mại chấp hữu.
+ Về hình thức sở hữu có: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại liên doanh.
+ Về đối tượng kinh doanh có: ngân hàng thương mại công thương, ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng ngoại thương… + Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng thực hiện các hoạt động của Nhà nước về tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng, giữ vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính chính thức của một quốc gia.
Chức năng phổ biến của ngân hàng, trung ương trên thế giới là thực hiện
chức năng công quyền về ngân hàng như: phát hành đồng tiền quốc gia, bảo
vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền đó, điều hòa lưu thông tiền tệ ở
một quốc gia hoặc trong một liên minh giữa một số quốc gia. Khác với các
ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương hoạt động chủ yếu nhằm mục
đích thực hiện chính sách tiền tệ của một quốc gia hoặc của liên minh một số
quốc gia. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể có nhiệm vụ giám sát, kiểm
tra, ban hành các quy chế quản lý hoạt động ngân hàng, cũng như chịu trách
nhiệm về hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.
5. Vai trò ca ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ phát hành giấy bạc, điều hòa sự
lưu hành tiền tệ; huy động vốn của nhân dân, điều hành và mở rộng tín dụng
để nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế nhà nước; quản lý
ngân quỹ quốc gia; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với
nước ngoài; quản lý kim dung bằng các thể lệ hành chính: thể lệ bằng vàng
bạc, thể lệ về quỹ của các doanh nghiệp, quốc gia. Nói chung, Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam làm những công việc để thi hành chính sách tiền tệ, chính
sách tín dụng và chính sách ngân hàng của Chính phủ. Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam tổ chức theo mô hình ở trung ương có Ngân hàng Quốc gia Trung
ương. Ở mỗi liên khu, có một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Mỗi
tỉnh và thành phố có một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngoài ra,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có thể mở chi nhánh ở trong nước hay ngoài
nước. Tổng Giám đốc có quyền hạn và danh vị như một Bộ trưởng. Điều đó
xác định rõ vị thế của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là cơ quan của Chính
phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân quỹ quốc gia,
vàng bạc. Nhiệm vụ, quyền hạn và mô hình tổ chức của Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là
Ngân hàng Trung ương, đồng thời là một ngân hàng thương mại. Ngay từ khi
ra đời, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã thực hiện đồng thời cả ba chức
năng của cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, chức năng của Ngân hàng
Trung ương và chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương là thực thi chính
sách tiền tệ, phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ theo Nghị quyết Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ hai (tháng 10/1951) về ngân hàng là: “Nắm
vững hai việc chính là phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính
sách tín dụng để phát triển sản xuất".
Đồng thời, Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam còn thực hiện hoạt động của ngân hàng thương mại. Đó là, huy động
vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của
nhân dân và phát triển kinh tế nhà nước.
Document Outline

  • Hoạt động ngân hàng là gì? Phân tích các hoạt động
    • 1. Ngân hàng là gì?
    • 2. Hoạt động ngân hàng là gì?
    • 3. Phân tích hoạt động ngân hàng
    • 4. Các loại hình ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
    • 5. Vai trò của ngân hàng nhà nước