Hội quan Tuệ Thanh của người Hoa Quảng Đông | Khoa học xã hội | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Hội quán Tuệ Thanh của người Hoa Quảng Đông là một tổ chức cộng đồng quan trọng, được nghiên cứu trong chuyên ngành Khoa học Xã hội tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Hội quán này không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, tôn giáo của người Hoa Quảng Đông mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội và từ thiện trong cộng đồng. Nghiên cứu về Hội quán Tuệ Thanh giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò và ảnh hưởng của người Hoa trong lịch sử và xã hội Việt Nam, cũng như sự giao thoa văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................
1
1.
Lí do chọn đềi.............................................................................................................
1
2.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn........................................................................................
1
3.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề..............................................................................................
1
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................
2
5.
Phương pháp nghiên cứu................................................................................................
3
6.
Bố cục đề tài...................................................................................................................
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THC TIỄN...........................................................
4
1.1 Tổng quan về ngưi Hoa Quảng Đông.........................................................................
4
1.2 Khái quát về hội quán Tuệ Thành.................................................................................
6
CHƯƠNG 2: NÉT ĐẶC TRƯNG Ở HỘI QUÁN TUỆ THÀNH....................................
14
CỦA NGƯỜI HOA QUẢNG ĐÔNG...............................................................................
14
2.2.1
Khu tiền điện...........................................................................................................
16
2.2.2
Khu Thiên đỉnh (Giếng trời)....................................................................................
17
2.2.3
Khu trung điện.........................................................................................................
18
2.2.4
Khu vực Hương đình (Nhà thắp nhang)..................................................................
18
2.2.5
Khu đại điện............................................................................................................
18
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH...............................................
32
3.1 Các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng...........................................................................
32
3.2 Các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục....................................................................
33
3.3 Các hoạt động kinh tế.................................................................................................
35
KẾT LUẬN......................................................................................................................
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................
38
)
lOMoARcPSD| 40799667
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 39
)
lOMoARcPSD| 40799667
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình định sinh sống người Hoa đã thể hiện nét riêng vốn của mình
trên nhiều nh vực, từ đường nét kiến trúc độc đáo của các hội quán của từng nhóm
ngôn ngữ như nhóm Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Nét riêng biệt độc đáo ấy,
qua quá trình sống cộng cư với cộng đồng người Việt cũng cho thấy nhiều yếu tố giao
lưu văn hóa, thể hiện xu hướng hội nhập quá trình Việt a đã đang diễn ra tại
vùng đất Nam bộ Việt Nam nói chung riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Do
đặc điểm về địa bàn trú xen kẽ lẫn Hoa Việt diễn ra rất sớm, mối quan hệ giao
lưu văn hóa vẫn còn in đậm nét qua các Hội quán.
Chúng ta phải nhìn nhận một thực tế rằng tín ngưỡng tâm linh chỗ dựa vững chắc
nhất cho những tâm hồn cần nơi nương tựa, họ cần một người che chở qua những
sóng gió của cuộc đời cũng như khi họ phải tha phương cầu thực một phương xa
xôi. sự trông đợi ấy được đáp lại bởi sự phù hộ của Thiên Hậu Thánh Mẫu
nhiều vị nhân thần khác. Thiên Hậu Thánh Mẫu một vị trí vai trò rất quan trọng
trong lòng nhóm người Hoa Quảng Đông nói riêng người Hoa mọi nơi nói
chung. giống như người mẹ hiền che chở trong suốt cuộc đời của họ, mỗi lúc họ
gặp khó khăn luôn bên cạnh ủng hộ che chở. Đó chính do nhóm tôi chọn
đề tài Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hôi quán của người Hoa Quảng Đông Thành
phố Hồ Chí Minh” để thực hiện bài tiểu luận của nhóm
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc tìm hiểu về miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán góp phần quan trọng trong
việc tìm hiểu lịch sử văn hóa địa phương nói chung, lịch sử văn hóa cộng đồng của
người Hoa thành phố Hồ chí Minh nói riêng. giúp ta tìm thấy được những đặc
trưng văn hóa của cộng đồng người Hoa trên vùng đất mới.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1
)
lOMoARcPSD| 40799667
Tác giả Trần Hồng Liên trong Văn hóa người Hoa Nam Bộ - n ngưỡng tôn
giáo, xuất bản năm 2005 khắc họa sinh động đời sống tinh thần cụ thể tín
ngưỡng và tôn giáo của người Hoa ở Nam Bộ.
Tác giả Phan An trong “Người Hoa ở Nam Bộ” xuất bản năm 2005 tác giả đề cập đến
nhiều vấn đề như kinh tế, văn hóa, hội nguồn nhân lực của người Hoa, các tổ
chức Bang và Hội của người Hoa.
Các nghiên cứu về cơ sở tín ngưỡng
Năm 2000, Ban quản trị Tuệ Thành hội quán do ông Văn Cảnh (chủ biên) đã xuất
bản công trình “Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội quán”. Đây công trình phân tích
khá sâu về sở n ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa Quảng Đông,
bao gồm các vấn đề: lịch sử ngôi miếu, kiến trúc tổng quan, đồ bài trí, các hoạt
động của hội quán và đặc biệt là những giới thiệu về quần thể tiểu tượng gốm trang trí
trên các nóc miếu.
Luận văn cao học của Phan Thị Thu Thảo về Văn hóa hội quán của người Hoa tại
thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu về lịch sử phát triển, cấu trúc, chức
năng, thờ cúng, văn bia, kiến trúc… của các hội quán người Hoa tại TPHCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài Tuệ Thành hội quán của người Hoa Quảng Đông
tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Tuệ Thành hội quán được tìm hiểu qua tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, đặc
điểm kiến trúc hoạt động của miếu trong đời sống văn hóa của cộng đồng người
Hoa tại TP.HCM.
2
)
lOMoARcPSD| 40799667
Về không gian, Tuệ Thành hội quán ở khu vực quận 5, TPHCM
Về thời gian, tìm hiểu tổ chức hoạt động của miếu Tuệ Thành hội quán của người
Hoa Quảng Đông trong quá trình hình thành phát triển của cho đến thời gian
hiện nay tại TP.HCM.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bằng việc tổng hợp tài liệu, điền dã. Bài tiểu luận phần lớn
lấy nhiều từ nguồn tài liệu trên các website, bên cạnh đó cũng thu thập thêm nhiều
nguồn tài liệu học tập của các môn học khác.
6. Bố cục đề tài
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: NÉT ĐẶC TRƯNG HỘI QUÁN TUỆ THÀNH CỦA NGƯỜI QUẢNG
ĐÔNG
Chương 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH
3
)
lOMoARcPSD| 40799667
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Tổng quan về người Hoa Quảng Đông
1.1.1 Quá trình định cư và phân bố dân cư
Người Quảng Đông những người xuất thân tỉnh Quảng Đông thuộc miền nam
Trung Quốc ngày nay. thành phố Hồ Chí Minh, dân số người Hoa 414.045 người
(chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), đứng thứ hai sau người Việt, gồm năm
nhóm ngôn ngữ: Hẹ, Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Đông, trong người Hoa
Quảng Đông sống tập trung ở quận 5, quận 6 và quận 11.
Người Hoa Quảng Đông ở Quận 5 đến định cư tại thành phố Hồ Chí Minh vào cuối thế kỉ
XVII. Đây nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên xin định được Chúa Nguyễn
Phúc Tần cho lập nghiệp ở Cù lao Phố và Đông Phố, (Gia Định) và một số địa điểm khác
Nam Bộ. Tới năm 1978, khu thương mại này bị quân Tây Sơn đàn áp do đã ủng hộ
Nguyễn Ánh nên họ đã chuyển đến khu vực Chợ Lớn ngày nay sinh sống, lập ra làng
Minh Hương và hình thành nên một phố chợ để tiếp tục hoạt động buôn bán.
Người Hoa Quảng Đông Quận 5 trú theo hai dạng: một txen kẽ với người
Việt, hai là tập trung thành từng khu vực nhỏ, trong phạm vi một số khu phố, tổ dân phố,
thường là những nơi thuận lợi cho công việc làm ăn, buôn bán.
1
1.1.2 Vài nét kinh tế - xã hội
Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế nhỏ hộ gia đình theo nguyên tắc cha truyền con nối, tiệm
mẹ đẻ tiệm con, kinh doanh theo chữ tín… Các ngành nghề cổ truyền, những tri thức về
sản xuất, kinh doanh của người Hoa đã mang vào Nam Bộ, Sài Gòn - Chợ Lớn. Những
người thợ thủ công tài hoa khi di vào nước ta đã chuyển tải các ngành sản xuất gốm
xứ, gạch ngói, dệt vải, dệt lụa, thuộc da, làm giấy, bút mực và nghề in, lúc đầu họ giữ
1 http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-
bo/1167-vu-le-van-hoa-nguoi-hoa-o-tp-ho-chi-minh.html
4
)
lOMoARcPSD| 40799667
quyết nghề nghiệp, nhưng sau do yêu cầu của sản xuất, họ đã chuyển giao công nghệ.
Đến nay nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ TP. HChí Minh vùng Nam Bộ đã trở
thành sản phẩm của sự giao thoa văn hóa Hoa - Việt. Ít người nhập thể mang theo
gia đình. Phần đông họ lập gia đình tại chỗ bằng cách cưới một người vợ Việt Nam, vì s
đa thê là được chấp nhận ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.
2
1.1.3 Văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo
Về văn hóa, người Hoa Việt Nam rất nhiều điểm tương đồng trong tập quán, tín
ngưỡng, các quy chuẩn khuôn khổ đạo đức, và trong nhân sinh quan xã hội nói chung. Do
đó, người Hoa hòa nhập rất dễ dàng vào hội người Việt. Điều này rất khác nếu so
với các cộng đồng người Hoa những đất nước như Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan,
vốn có một nền văn hóa và tư tưởng khác hoàn toàn với văn hóa Trung Hoa.
Tín ngưỡng của người Hoa phong phú, đa dạng cũng khá gần gũi với văn hóa Việt
Nam. Đặc biệt, các hình thức này được thể hiện nét người Hoa Quảng Đông. Người
Hoa tin linh hồn, con người sau khi chết đi sẽ bị hình phạt hay khen thưởng tuỳ vào
hành động, công đức của mình đang có trong kiếp hiện tại. Vì vậy, người Hoa đã tích cực
thờ phụng nhiều thần linh trú ngụ thuộc nhiều cảnh giới khác nhau để cầu mong được
nhiều sự hỗ trợ. Người Hoa thực hành tín ngưỡng nhưng một dạng tín ngưỡng pha
tạp cả những yếu tố của tam giáo đồng nguyên (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo). thể
xét các hình thức hội nhập này thông qua tín ngưỡng của người Hoa dưới nhiều góc độ:
trong đời sống cộng đồng và trong gia đình.
Quá trình cộng cư nhiều thế kỷ qua giữa người Việt và người Hoa đã hình thành trong tín
ngưỡng của người Hoa nhiều hình thức giao lưu văn hoá, thể hiện qtrình hội nhập của
cộng đồng người Hoa vào cộng đồng Việt. Có thể thấy những biểu hiện này qua nhiều
hình thức: kiến trúc, trang trí, nghi thức cúng lễ, các thần linh được thờ tự, qua lễ vật
dâng cúng, qua lễ hội… Do điều kiện sinh sống của người Hoa ở vùng đất mới, nên ý
2 http://www.sugia.vn/portfolio/detail/815/hoi-nhap-va-giao-luu-van-hoa-
cua-nguoi-hoa-o-viet-nam-tren-linh-vuc-tin-nguong-ton-giao.html
5
)
lOMoARcPSD| 40799667
thức cộng đồng luôn luôn được đề cao, được củng cố. Tinh thần cố kết cộng đồng: gia
đình, họ tộc, đồng hương, đồng nghiệp đặc biệt được quan tâm giữ gìn như một giá trị
thiêng. Lòng biết ơn, tinh thần nghĩa hiệp đùm bọc lẫn nhau ý cquyết lập nghiệp
những giá trị được cộng đồng người Hoa hết sức nâng niu, trân trọng. Chính nhcác giá
trị văn hóa, ý thức cộng đồng đã giúp cho người Hoa tồn tại như một nhóm hội đặc
thù, vừa hoà nhập với các cộng đồng khác, vừa giữ được những đặc điểm riêng tính
ưu trội của mình. Về văn hóa tinh thần, người Hoa đến ng Nam Bộ Sài Gòn - Chợ
Lớn mang theo một nền văn hóa đã phát triển phong phú, đa dạng và đặc sắc.
Trước hết văn hóa tín ngưỡng, tâm linh với việc thờ cúng rất nhiều nhân thần nhiên
thần, hai hệ thống thần linh đã ăn sâu vào tâm thức của họ. Về nhân thần những thánh
nhân được tôn thờ truyền tụng trong đời sống tinh thần của cộng đồng như Quan
Công, Bao Công, Bổn Đầu Công, Thiên Hậu, Quan Âm Bồ Tát… Về nhiên thần cũng
rất nhiều biểu tượng thiêng liêng được n thờ như Ngọc Hoàng - Thượng Đế, Th
Công - Táo Quân, Thần Tài, Phật Di Lặc… Các công trình kiến trúc tôn giáo, tâm linh uy
nghi được dựng lên:hội quán Tuệ Thành (Hội quán Tuệ Thành), Chùa Ông (Hội quán
Nghĩa An), Nhị Phủ Miếu (Chùa Ông Bổn), Quỳnh Phủ Hội quán, Hội quán Sùng Chính
Chùa Quan Âm (Hội quán Ôn Lăng). Cùng với các nghi lễ trong những ngày tết:
Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Thanh Minh, n Thực, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Thượng
Nguyên… làm cho đời sống tâm linh của người Hoa vừa thiêng liêng vừa huyền ảo
nhưng vẫn gắn với đời sống nhân sinh của con người. người cho rằng: Thông qua hệ
thống tín ngưỡng, tâm linh các tục lệ, lễ thức nhân cách tâm người Hoa được
hình thành, góp phần củng cố các quan hệ gia đình, ý thức cộng đồng hướng tới những
ước vọng về một cuộc sống an sinh, bền vững. Văn hóa nghệ thuật của người Hoa cũng
hết sức phong phú với các loại hình dân ca, dân vũ và các loại nhạc cụ đặc sắc. Dân ca
các làn điệu hát Quảng, hát Tiều, dân múa lân - - rồng dàn nhạc nhạc
Xã… làm tăng thêm tính đa dạng văn hóa Nam Bộ và Sài Gòn - Chợ Lớn.
1.2 Khái quát về hội quán Tuệ Thành
6
)
lOMoARcPSD| 40799667
1.2.1 Quan niệm về nơi thờ tự
Địa điểm thờ phụng hay nơi thờ phụng ng trình, địa điểm hay không gian, nơi một
nhóm người (một giáo đoàn hoặc nhóm tín đồ, giáo dân) đến để thực hiện các hoạt động,
nghi thức tôn giáo (cầu nguyện, tôn kính, ca tụng...) hoặc tín ngưỡng (cúng tế, thờ
phụng...). Các dạng chức năng của các ng trình thờ phụng, cúng tế đã được phát
triển biến chuyển trong một thời gian dài theo sự thay đổi trong tôn giáo kiểu kiến
trúc. Nơi thờ phụng của những tôn giáo khác nhau thường có những tên gọi riêng. Thí dụ
chùa tên dành cho nơi thờ của Phật giáo, đền thường chỉ nơi th thần hoặc danh nhân
đã quá cố, phủ nơi thờ các vị chúa trong Đạo Mẫu, nhà thờ hay thánh đường chỉ nơi
thờ phụng của một số tôn giáo như Kitô giáo.
1.2.2 Các khái niệm “hội quán”, “miếu”, “chùa”
Một số hội quán của người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh như chùa (chỉ hội quán
Tuệ Thành của nhóm người Hoa gốc Quảng Đông), chùa Ông (chỉ hội quán Nghĩa An
của nhóm người Hoa gốc Triều Châu), chùa Ông Bổn (chỉ hội quán Nhị Phủ của nhóm
người Hoa gốc Phúc Kiến), chùaHải Nam (chỉ hội quán Hải Nam hay Quỳnh Phủ hội
quán của nhóm người Hoa gốc Hải Nam). Nhà nghiên cứu Phan Thị Yến Tuyết đã
những nhận định rất chính xác: “Trong dân gian có thói quen gọi vắn tắt hội quán của các
cộng đồng người Hoa Nam Bộ chùa, miễu, bất kể giao lưu văn hóa thì hình
trung cũng quy hội quán vào phạm trù sở tôn giáo tín ngưỡng, dễ dẫn tới cách hiểu
sai lệch về tính chất và chức năng chủ yếu của hội quán…
Theo Từ điển Hán ngữ hiện đại thì từ miếu được giải thích: (1) nơi cúng tổ tiên các vị
thần, (2) nơi cúng các vị thần phật hoặc các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử. Nếu chùa
sở tôn giáo thì miếu lại sở tín ngưỡng, mang đậm tính dân gian. sở tín
ngưỡng n gian do đó, trong miếu thường thờ thì đối tượng thờ cúng chính rất đa
dạng, thể một vị nhân thần (là một nhân vật lịch sử, một nhân vật truyền thuyết)
hoặc một người danh (Cô, cậu, bà, …) nhưng tác động đến yếu tố tâm linh của
người dân bản địa nên được phụng thờ. Như vậy, người Hoa xem miếu như là một nơi
7
)
lOMoARcPSD| 40799667
thờ tự các thần, tổ tiên các đối tượng khác trong lịch sử đại diện tiêu biểu cho những
giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội. Miếu là một thành phần trong số các cơ sở thờ tự như
chùa, đền, đình của cơ sở tín ngưỡng người Việt. Còn đối với người Hoa, miếu được xem
như thành tố chính chiếm hơn 50% các sở tín ngưỡng khác trong các sở tín
ngưỡng của người Hoa.
Hội quán được lập nên bởi những thương nhân tổ chức đoàn thể chính thức của họ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Hội quán “Nhà của một đoàn thể để m nơi hội họp c
hội viên gặp nhau” hoặc “Nơi dành cho các hiệp hội theo ngôn ngữ hay theo xuất xứ”.
Nếu chùa và miếu là những cơ sở mang đậm màu sắc tôn giáo, tín ngưỡng thì hội quán lại
mang những sắc thái của một tổ chức hội thu nhỏ chỉ cộng đồng người Hoa.
Một bên là tổ chức tôn giáo, phục vụ nhu cầu tâm linh. Một bên là tổ chức xã hội thu nhỏ.
Về lịch sử những người thuộc nhà Minh không chịu khuất phục trước người Mãn
Thanh nên đã di dân khỏi Trung Quốc và tìm ngày “phản Thanh phục Minh”. Ra đi trong
tình hình hội rối ren như vậy cho đến khi tìm được một vùng đất mới. nhu cầu tập
trung đồng hương lại một nhu cầu vô cùng bức bách của cộng đồng người Hoa. Do đó,
thể xem những hội quán của người Hoa Việt Nam chính sản phẩm của một quá
trình lịch sử. Sự ra đời của Hội quán chứng tỏ số lượng dân Hoa đã khá đông đảo
tiềm lực kinh tế mạnh, bởi Hội quán chỉ hình thành với đầy đủ ý nghĩa khi hội đủ 3
yếu tố: (1) phải có lượng dân định người Hoa đáng kể, (2) phải một số nhân vật
then chốt nhiệt tình đảm nhận công việc tổ chức xây dựng Hội quán, phải dựa trên nền
tảng kinh tế đã khá phát triển của cộng đồng dân này. Dưới danh nghĩa Hội quán đóng
vai trò tích cực trong hoạt động chăm lo cho thành viên. Đặc biệt với ba nội dung quan
trọng: giáo dục, y tế và vấn đề hậu sự cho người quá cố.
Trên địa bàn TP.HCM, hội quán thường đặt bên trong các sở tín ngưỡng cộng đồng,
nên lâu ngày hai nơi này tưởng chừng như hợp nhất với nhau làm một. Trong đó, hội
quán thường được gọi chung miếu” đây cách gọi thông thường để chỉ sở tín
ngưỡng cộng đồng người Hoa, hay ngược lại khi miếu cũng được gọi hội quán.
Thực ra thì hội quán và miếu tọa lạc gần nhau nhưng các hoạt động của hai cơ sở này gần
như độc lập. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo và xây dựng mới, hội quán dần dần được
8
)
lOMoARcPSD| 40799667
đưa vào bên trong trở thành nơi gắn với cơ sở tín ngưỡng. Ban quản trị hội quán đồng
thời cũng ban quản trị miếu. Chỉ cần một gian nhà nhỏ đặt nơi thuận tiện như trường
học, sở tin ngưỡng cộng đồng… thể thực hiện chức năng nmột hội quán. Sự
kết hợp giữa hội quán miếu thỏa mãn nhiều nhu cầu văn hóa khác nhau của di dân
người Hoa.
1.2.3 Lịch sử và nguồn gốc và tên gọi
Chùa Bà Thiên Hậu (theo cách gọi của người Việt) còn được gọi là chùa Bà Chợ Lớn, tên
chữ Hán Thiên Hậu miếu, người Hoa gọi Phò Miếu (tức miếu Đức Bà). Theo tấm
bia đá treo ở chùa bà Thiên Hậu, Thiên Hậu Thánh Mẫu vốn là người Phước Kiến (Trung
Quốc) trên 1000 năm về trước. rất thông minh, gan dạ, hiền lành khả năng đặc
biệt dự đoán được sự thay đổi của khí hậu, biết bệnh, khử bơi lặn, do đó rất được
nười dân trong vùng biển yêu thương, khâm phục. Sau khi mất thì con đã lập miếu
để thờ được người Hoa xem như một vị thần biển. được sinh ra vào đời vua
Tống Kiến Long (tại vị từ năm 960-976). Khi mới chào đời, đã tỏa hào quang
hương thơm ngát. Khi lớn, thể cỡi chiếu ra biển, cỡi mây đi khắp nơi. Đến khi
đã qua đời, thỉnh thoảng người đi biển vẫn thấy bay lượn trên biển để cứu người bị
nạn.
Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển gặp nạn, người ta đều gọi vái đến bà. Năm 1110, nhà
Tống sắc phong cho Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngoài ra, còn được người Quảng
Đông gọi là A Phò, nghĩa Đức Bà. Đó do sao chùa Thiên Hậu còn có tên
gọi Phò Miếu. Do bên cạnh chùa Tuệ Thành Hội quán nơi quy tụ của nhóm
người Hoa Quảng Đông, nên chùa còn được gọi Tuệ Thành Hội quán.
Theo tác giả Văn Cảnh (2000) cho biết Tuệ Thành Hội Quán (710 Nguyễn Trãi,
phường 11, quận 5) lịch sử lâu đời, nổi tiếng của người Hoa tại thành phố, nhất từ
sau ngày cải cách mở cửa, đã trthành một điểm tham quan của du khách trong
ngoài nước, người thập phương đến dâng hương, cúng lrất nhộn nhịp, mỗi ngày ước
chừng đón hàng trăm du khách nước ngoài đến tham quan. Do quá lâu đời và không có
9
)
lOMoARcPSD| 40799667
tài liệu ghi chép cụ thể nên không thể biết chính xác Hội quán đã xây dựng vào năm nào.
Căn cứ theo tài liệu đã ghi trên bia đá được biết vào năm 1800, Hội quán đã một đợt
trùng tu lớn, sau đó vào các năm 1825, 1842, 1882, 1890, 1996 cũng đã những đợt
trùng tu lớn hoặc nhỏ, nghe những người lớn tuổi klại vào đầu triều đại Mãn Thanh
(đầu năm 1760), đã rất nhiều thương buôn đi tàu sang Việt Nam buôn bán làm ăn, do
đi tàu sóng to gió lớn, nên trên tàu đều thờ Thánh Mẫu để phù hộ. Lúc bấy giờ, tàu đi
biển phải trông theo hướng gió, thường thì đi lúc mùa gió Bắc và về lúc mùa gió Nam, do
đó luôn phải lại Việt Nam vài ba tháng mỗi năm, nhiều người trong số thương buôn đã
đề nghị hùn tiền xây Miếu để thờ xây dựng Hội Quán để làm nơi dừng chân của
họ. Sau này bên Trung Quốc thời cuộc không ổn định, nên nhiều thương gia đã không
về nước và ở lại Việt Nam an cư lập nghiệp.
Quá trình hình thành, xây dựng đã thể hiện rất nét quá trình lao động hội nhập vào
hội Việt Nam, người Hoa gốc phủ Quảng Châu từ ngày xưa đến vùng đất Sài Gòn
này, đồng thời ng đã góp sức vào sự hình thành xây dựng một thành phố 300 tuổi.
Tuy trải qua nhiều năm tháng, nhưng Hội quán Tuệ Thành vẫn giữ được nét đặc trưng cũ,
phong cách kiến trúc cổ xưa độc đáo của người Hoa, nhiều hiện vật, nhiều đường nét
chạm trỗ, điêu khắc rất giá trị về lịch sử mỹ thuật, những hiện vật kiến trúc này
đã thu hút được sự chú ý chiêm ngưỡng của rất nhiều du khách trong ngoài nước. Sử
dụng tiền hương hỏa để chăm lo cho sự nghiệp giáo dục phúc lợi hội nét đẹp
truyền thống của các Hội quán Hoa.
Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán (còn gọi Chùa và Miếu Má Tổ) nằm ngay trung
tâm Chợ Lớn- khu vực người Hoa của TPHCM, ngôi miếu khá lâu đời, giá trị lịch sử
văn hóa nghệ thuật cao. “Tuệ Thành HỘi Quán” là tên nguyên thủy của chủ thể khối kiến
trúc này. Trong tất cả các bia, liễn hoành phi trong miếu không hề một tên nào khác
ngoài tên này của Miếu cho thấy, Thánh Mẫu Thiên Hậu chẳng qua vị thần chủ yếu đặt
trong Hội quán này thôi. Tên “Tuệ Thành Hội Quán” chỉ đây nơi tụ họp của những
người đến từ phủ Quảng Châu tỉnh Quảng Đông đây tên gọi xa xưa về trụ slàm việc
của một tổ chức quần chúng đồng hương hay đồng nghiệp. Quá trình
10
)
lOMoARcPSD| 40799667
xây dựng Tuệ Thành Hội Quán thể hiện tâm huyết, kỳ vọng ước của tiên hiền
của người Quảng Đông “an cư, lạc nghiệp, hội nhập đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, cùng xây dựng một thế giới duy tân, văn minh và phồn thịnh, một cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho con cháu đời đời kiếp kiếp.
Vị trí thuận lợi quan trọng này đã tạo điều kiện cho người n dễ dàng đến cúng bái,
tổ chức lễ vía bà, diễu hành quanh các khu vực thị tứ. Từ đó ngôi miếu này càng khang
trang hơn, bề thế hơn và cho đến hôm nay, thể nói hội quán cổ nhất và đẹp nhất của
người Hoa Quảng Đông thành phố Hồ Chí Minh.Người Hoa đến cúng vía Bà, đâu chỉ
ngày vía 23 tháng 3 âm lịch ng năm. Mọi vui buồn xảy ra trong cuộc sống, người
hoa đều đến nhờ sự hỗ trợ của Bà giúp thêm niềm tin vào cuộc sống, mong gia đình “Ngũ
phúc lâm môn”, mong sản xuất kinh doanh luôn được “Mã đáo thành công”…
Bên cạnh một số ngôi miếu thờ nhiều nơi quanh khu vực, miếu Thiên Hậu Tuệ
Thành hội quán dường như vẫn được người Hoa Quảng Đông coi như là ngôi miếu chính,
thu hút các du khách thanh niên nam nữ khắp nơi về đây hội tụ để cùng chung nhau làm
việc phước thiện. Ngày vía cũng ngày hội đấu thầu đèn lồng. Trong ánh sáng lung
linh không khí nức của ngày hội ấy, hàng trăm chiếc lồng đèn được người Hoa
thỉnh dâng cúng bà, trước là để tlòng thành kính, sau dịp làm phước thiện. Số tiền
hàng trăm triệu đồng hàng năm và lúc cao điểm lên con số bạc tđược dùng vào việc
công ích cho cộng đồng. Đến tham dự lễ hội, người Hoa nào cũng thấy như được gần gũi
nhau hơn. Trong cái sân rộng, nhiều tuồng tích cổ xưa lại được nhắc đến, giúp cho lớp trẻ
hiểu được truyền thống của cộng đồng mình và pho tượng lại được mang ra ngự lãm,
dường như để chứng kiến và cổ vũ thêm cho đoàn hát thâu đêm suốt sáng hàng mấy ngày
liền.
Gần 300 năm mặt tại địa bàn cổ xưa, phồn thịnh, Hội Quán Tuệ Thành đã tạo nhiều
điều kiện giúp đỡ, cố kết cộng đồng: bệnh viện, trường học, nghĩa trang… luôn được hội
quán quan tâm, ngày càng làm cho những người Hoa gốc Tuệ Thành an tâm vui sống.
Với lịch sử lâu đời, từng chứng kiến bao biến động của các triều đại. Di tích có giá trị về
11
)
lOMoARcPSD| 40799667
lịch sử nghệ thuật ấy đã được công nhận di tích cấp quốc gia vào ngày 7-1-1993,
càng làm tôn vinh vai trò và vị trí của hội quán Tuệ Thành ở khu vực Sài gòn xưa và nay,
điều này mở ra một trang lịch sử huy hoàng nhất của Hội Quán, trở thành di tích nhà
nước nghiwx liệt vòa kho báo của đất nước dân tộc, là vĩnh tồn, bất hủ, bất khả
xâm phạm. Ban Quản trị cộng đồng người Hoa sẽ ng với c quan chức năng
quyết tâm gìn giữ, bảo quản, trùng tu phát huy tác dụng tốt di tích để cho những
đường nét nghệ thuật truyền thống sẽ còn hiện diện trong ng các thế hệ trẻ .Ngày nay,
hội quán Tuệ Thành hội quán cổ đẹp đẽ, một điểm tham quan không thể thiếu của du
khách trong ngoài nước khi đến viếng trung tâm Sài gòn (xưa) Chợ Lớn (nay) của
thành phố Hồ Chí Minh.
Do quá lâu đời không tài liệu ghi chép cụ thể nên không thể biết Hội Quán được
xây từ khi nào căn cứ theo tài liệu ghi trên bia đá trong Miếu, được biết vào năm 1800
miếu đã một đượt trùng tu lớn sau đó vào các năm 1825,1842,1882,1890.1996.Công
việc tu sửa, tôn tạo hội quán Tuệ Thành việc làm bản thường xuyên của các Ban
quản trị Tuệ Thành Hội quán. Năm 1988, hưởng ứng cuộc vận động chỉnh trang đô thị,
Ban quản trị đã phát động các giới thiện tín đóng góp tiền bạc để tôn tạo, tu sửa lại hồ
phóng sinh, trồng thêm hoa để tăng vẻ đẹp.
Năm 1992, Ban quản trị thông qua phương án trùng tu hội quán Tuệ Thành, đồng thời
tiến hành thủ tục xin phép trùng tu. Năm 1995 khởi công, nâng thêm một tầng lầu hai
bên nhà phụ để tăng diện tích sử dụng ng vật liệu mới gia cố hai bên điện thờ để
tăng độ bền vững trăm năm, công trình này đã hoàn thành vào cuối năm 1997 với tổng
chi phí hơn hai tỷ tám trăm chín mươi ba triệu đồng. Năm 1997, chấp hành chủ trương
phóng đường, một lần nữa Ban quản trị phải tu sửa hồ phóng sinh theo hướng thu hẹp lại.
Khi hội quán Tuệ Thành được công nhận khu Di tích lịch sử văn hóa, việc sửa chữa
phải m đúng theo Pháp lệnh về bảo vệ Di tích. Do vậy, công trình tu sửa Khu chánh
điện đã được giao cho Công ty Tu bổ Di tích Trung ương tiến hành khảo sát, thiết kế. Sau
khi được Bộ Văn Hóa Thông Tin phê duyệt đề án thiết kế và Văn phòng Kiến trúc sư
12
)
lOMoARcPSD| 40799667
Trưởng TP cho phép tu sửa, ngày 20/11/1998, Ban quản trị đã tổ chức lễ khởi công, công
trình này giao cho Công ty Tu bổ di tích Trung ương thi công dự kiến sẽ hoàn thành vào
năm 2000 với tổng kinh phí dự trù một tỷ tám trăm triệu đồng, được chi trả từ trong
quỹ của Hội quán Tuệ Thành (Lê Văn Cảnh, 2000, tr.88).
13
)
lOMoARcPSD| 40799667
CHƯƠNG 2: NÉT ĐẶC TRƯNG Ở HỘI QUÁN TUỆ THÀNH
CỦA NGƯỜI HOA QUẢNG ĐÔNG
2.1 Nguồn gốc, quá trình phát triển và truyền bá đến Việt Nam của tín ngưỡng
Thiên Hậu
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Thơ (2011) tín ngưỡng Ma Tổ - Thiên Hậu (Mazu Tianhou)
hình thành tại đảo Mi Châu, Phổ Điền, Phúc Kiến (Meizhou, Putian, Fujian) vào thời
Tống Trung Quốc. tên thật Lâm Mặc ( 林默 Lin Mo) thường được gọi Lâm
Mặc Nương (默娘 Lin Moniang), sinh ngày 23 tháng 3 năm 960, là một nữ shaman nổi
tiếng. Bà vốn là người Đản Dân (Tangka, còn gọi là Long nhân (龙人 người Rồng), Giao
nhân (鲛人) một nhánh hậu duệ người Mân Việt (闽越 Minyue) cổ chuyên sống bằng
nghề trao đổi ng hóa trên sông, biển. Các sách địa phương ghi chép Lâm
Mặc rất thông minh, tháo vát, giúp n vượt hoạn nạn dạy dân cách sống văn minh,
thoát bệnh tật. Một ngày nọ ngủ trưa, thấy cha anh trai gặp bão biển, ng năng
lực đặc biệt cứu được anh trai. Trong khi đang cố gắng cứu cha thì bị mlay dậy nên
không cứu được cha. Về sau thường dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp
dân, bao gồm dạy dân dùng rau rong biển cứu đói, cầu mưa, treo chiếu m buồm, hàng
phục hai thần Thuận Phong Nhĩ Thiên Nhãn, giải trừ thủy tai quái phong, thu
phục nhị quái, chữa bệnh cứu dân, nhận bùa dưới giếng, thăng thiên đảo Mi Châu v.v..
qua đời ngày 9 tháng 9 năm 987 tuổi 28. Người đời tin rằng con gái Ngọc
Hoàng, ban đầu dân đảo Mi Châu dựng miếu thờ bà, gọi miếu Ma Tổ. Tương truyền
thường hiển linh cứu giúp người đi biển nên dân gian vị hải thần.Đến năm
1086, nhà Nam Tống chính thức cổ xúy cho tín ngưỡng y, nhờ vậy phạm vi ảnh hưởng
càng ngày ng mở rộng. Đến thời Nguyên, Ma Tổ được phong làm Thiên phi ( 天妃,
năm 1354), từ đó tín ngưỡng Ma Tổ phát triển lên vùng hạ lưu Dương Tử, bán đảo Sơn
Đông. Từ thời Minh trở về sau do nhu cầu giao thương hàng hải với khu vực Đông Nam
Á, tín ngưỡng này truyền bá xuống Lĩnh Nam, Đài Loan và Đông Nam Á. Đời Thanh
14
)
lOMoARcPSD| 40799667
Khang Hy 1682 , được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu. Tên gọi đặc khu nh chính
Macau được cho bắt nguồn từ danh từ Ma Các” (妈阁 = miếu Ma Tổ). Cuốn Ma Tổ
Cung Tập Thành (妈祖宫集成) ghi chép tại Trung Quốc hơn 450 huyện, thị, thành
phố cóhội quán Tuệ Thành. Người Mân Nam (nam Phúc Kiến) Hải Nam thích gọi
là Đại Mẫu hoặc Ma Tổ (妈祖Mazu), người Quảng Đông gọi là Đức Bà hay Thiên Hậu.
Tục thờ Thiên Hậu bản vẫn tín ngưỡng dân gian, mang đầy đủ các đặc trưng truyền
thống của dòng văn hóa dân gian phương Nam gần gũi, giản dị. một phương diện nào
đó, người Nam Trung Hoa dùng tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với c tín ngưỡng thờ Mẫu
khác) làm đối trọng với kiểu văn hóa quan phương “nam tôn nữ ti” phương Bắc. Điều đó
nghĩa là, tín ngưỡng Thiên Hậu thấm đẫm các đặc trưng văn hóa phương Nam, đặc
biệt và văn hóa Mân Nam – nơi sản sinh ra nó.
Người Trung Quốc Đài Loan thờ Thiên Hậu, coi thủy-hải thần, nữ thần hộ
mệnh; nữ thần sinh sôi, nữ thần khai sơn v.v., thi thoảng đồng nhất với Quan âm trong
Phật giáo, Tây vương Thánh mẫu trong Đạo giáo, với Lâm Thủy phu nhân, Kim Hoa phu
nhân trong tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Hoa Nam. Tín ngưỡng Thiên Hậu du nhập vào Nam
Bộ Việt Nam theo dòng di dân người Hoa o thời Minh Thanh, đặc biệt cuối Minh
đầu Thanh. Đợt 1 vào khoảng thập niên 1660, khoảng 7000 người Hoa Nam do
Dương Ngạn Địch Trần Thượng Xuyên (người Quảng Đông) dẫn đầu vào định tại
Đồng Nai, Đề Ngạn (Chợ Lớn) Mỹ Tho. Đợt thứ 2 do Mạc Cửu dẫn đầu khai phá đất
Hà Tiên, sau phát triển dần xuống bán đảoMau. Từ cuối thể kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ
20, nhiều dòng di dân người Hoa người tiếp tục đến vùng Nam Bộ, đặc biệt vào cuối thế
kỷ 19, Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, các hiệp ước Pháp Thanh năm 1885 1886
đã mở ra nhiều hội để người Hoa di dân đến Việt Nam. Từ đó trở đi, đồng bào người
Hoa đã chung sống chan hòa cùng các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer Chăm,
cùng tạo dựng văn hóa Nam Bộ. Hiện tại toàn Nam Bộ có khoảng 800.000 người dân tộc
Hoa (2009), phân thành 5 nhóm hệ n Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam
và Khách Gia (còn gọi Hẹ). Người Quảng Đông tập trung chủ yếu Tp. Hồ Chí Minh,
Đông Nam Bộ và một số thành phố, thị xã lớn ở Tây Nam Bộ; người Triều Châu cư trú
15
)
lOMoARcPSD| 40799667
nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau (Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau); người Phúc Kiến và người
Hải Nam sinh sống rải rác khắp vùng miền; người Khách Gia định rải rác Biên Hòa
và khu vực hai bên ng Tiền, sông Hậu, nhiều nhất Long Xuyên. Ban đầu cả 5 hệ dân
cùng phối hợp nhau dựng các Thất phủ cổ miếu (Cù lao Phố, Tp. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho,
Vĩnh Long v.v.) chủ yếu thờ Thiên Hậu, Quan Công, nhưng sau từng nhóm tách riêng tự
xây cất các miếu cho riêng mình.
Trên đường đi biển, hthường cầu nguyện hiển linh hỗ trợ. Khi định được bình an
tại vùng Nam Bộ, di dân lập miếu trang trọng thờ Bà, ngưỡng vọng thờ tự với tấm
lòng biết ơn đã giúp đỡ họ đượcthuận buồm xuôi gió. Theo dòng di dân đến khắp nơi
Nam Bộ,hội quán Tuệ Thành cũng được dựng lên. Vsau, người Hoa còn thờ thêm
chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt hộ mệnh cho trẻ sinh .
Chính thế rải rác các thị tứ, thị trấn, thành phố tại vùng đất Nam Bộ đều cóhội quán
Tuệ Thành với nhiều tên gọi Chùa , Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hayhội quán
Tuệ Thành. Vùng Bạc Liêu, Mau còn gọi Thiên Hậu Châu ( 妈祖 Mazu), do
vậyhội quán Tuệ Thành còn gọi Chùa Châu (妈祖). Vùng Sóc Trăng cũng
gọi Ma Tổ, phong cách tác tượng thờ mang nét ảnh ởng từ Macau Đài Loan, Ma
Tổ gương mặt đen với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai.
3
2.2 Đặc điểm kiến trúc
2.2.1 Khu tiền điện
Hội quán được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 7-1-1993. Nóc
được trang trí hoa văn hình hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai Bửu Nguyên
Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908). Trang trí các điện hình hoa lá, chim
thú hoành phi, u đối, biển tự thường màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Hội
quán còn các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".Chùa Thiên
Hậu có lối kiến trúc tam quan cách điệu với cửa vào ở chính giữa và hai hành lang, tạo sự
3 http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-
truong-xa-hoi/2322-nguyen-ngoc-tho-tin-nguong-thien-hau-tai-nam-bo-viet-nam.html
16
)
lOMoARcPSD| 40799667
thông thoáng để mọi người dễ dàng di chuyển trong những ngày đông người đến viếng.
Đây là tổ hợp bốn ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ “khẩu” hoặc
chữ “quốc”. Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và đại điện.
Trước khi bước vào Tiền điện thì ấn tượng tượng nhất cổng chính của Miếu đơn giản
nhưng trang nghiêm, trên tranh tường “Trúc lâm thất hiền”, giữa phù điêu thuyền
Bát Nhã”, dưới Củng Môn, trên dòng chữ “Khổng Tử giáng sinh năm thứ 2460 Kỷ
Dậu Trùng Kiến (1909), hai góc sân có cặp sư tử đá
Tiền điện hai trang thờ hai bên cổng vào: Phúc Đức Chánh thần nằm bên phải Môn
Quan Vương Tnằm bên trái. Hai bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu
các bức tranh lớn vẽ cảnh đang hiển linh trên sóng nước. Chùa đã được công nhận
Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1993 của Bộ Văn Hóa. Bên trái
dựng một số bia ghi các lần trùng tu vào năm 1859, 1970,1990,2005… Bên phải
hiện vật “Lệnh của Tư lệnh liên quân pháp Y pha Nho: cấm binh sĩ phá hoại Hội quán
năm 1860.
Hồ phóng sinh thể cùng xây trong m 1980 khi trùng tu Hội Quán, năm 1995 Thành
phố chỉnh trang lại, u cầu mở rộng đường Nguyễn Trãi nơi hội quán tọa lạc , do đó hồ
phóng sinh phải lùi vào 7m. Trên tường trang trí cụm p điêu “Cửu Long Bích”
tượng nổi ở giữ (1908) và hầu hết các trang trí khác đều là mới xây sau này.
2.2.2 Khu Thiên đỉnh (Giếng trời)
Khu vực giữa các tòa nThiên tỉnh (giếng trời) tạo không gian thoáng đãng, đón nhận
ánh sáng tự nhiên. Theo hướng tay phải chúng ta thể thấy trên nóc, diềm mái, hiên, vách
tường nhóm tượng gốm niên đại năm Quang tự th34 Mậu Thân (1908) do nghệ
nhân Trung Quốc dùng vật liệu tại chỗ sản xuất từ gốm Bửu Nguyên trên đất Sài Gòn
xưa. Các tượng, phù điêu này được tạo tác dựa theo các điển tích cổ Trung Quốc như Tam
Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc… được bố trí hài hòa với các hình tượng khác như “tứ
linh” (long, lân, quy, phụng), “lưỡng long tranh châu”, “bái tổ vinh quy”…
17
)
lOMoARcPSD| 40799667
Các bia về lập xe chữa cháy năm Quang Tự thứ 24 Mậu Tuất (1898), về việc trùng
tu Hội quán năm Đạo Quang thứ 10 Canh Dần (1830); về việc mua đất khắc ghi niên
đại Việt Nam từ năm thứ 9 đến 13 thời vua Tự Đức.
2.2.3 Khu trung điện
Bước vào khu trung điện ta thể thấy tấm biển gỗ to ghi 4 chữ m Hoằng Quang Đại
bằng chữ cổ niên đại thứ 5 Gia Khánh, đời Thanh (1800) nhân dịp trùng tu Hội quán.
Đây hiện vật cổ xưa nhất cũng căn cứ để tính toán về lịch sử của Hội quán. Miếu
lịch sử 256 năm dựa theo hiện vật trên cộng với khoảng cách thời gian trung nh của
những lần trùng tu ghi trên bia ký” (từ 1800 tính lùi 40 năm thành 1760). ngơi
hiện giờ chúng ta thể thấy là lần trùng tu gần đây nhất được khởi công từ năm 1995
hoàn thành vào m 2003. Phía dưới b ngũ sự làm bằng hợp kim chì niên đại
Quang Tự thứ 12 (1886) được đúc tại trấn Phật Sơn, Quảng Châu tỉnh Quảng Đông. Và
đây còn được xem là bộ Ngũ sự lớn nhất Đông Nam Á.
2.2.4 Khu vực Hương đình (Nhà thắp nhang)
Nơi đây đặt 5 hương niên đại đời vua Quang Tự: từ Bính (1876) đến Đinh
Dậu (1897) đều trên 100 năm. n trên khu vực treo nhang vòng khá độc đáo lạ
mắt. Trước đây nhang đường kính từ 1m 1m2, sau khi thực hiện chỉ thị của Trung
ương và được bà con nhiệt liệt hưởng ứng nay các khoanh nhang này được thu nhỏ lại chỉ
còn 35 cm. Trong đợt trùng tu gần nhất, những cây gồ dưới mái ngói 4 y cột gỗ
bên ngoài là gỗ lim, loại gỗ quý hiếm sản xuất tại phía Bắc trong đợt trùng tu vừa qua gần
như đã thay đổi toàn bộ xà gồ bằng gỗ lim.
2.2.5 Khu đại điện
Về gian thờ giữa thờ Thiên Hậu Nương Nương vị thần thờ chính trong miếu, 3 pho
tượng bằng gỗ thờ qua các thời kỳ trùng tu mở rộng miếu. Gian thờ n phải thờ Long Mẫu
Nương Nương. Gian thbên trái thờ Kim Hoa Nương Nương. Ngày hội lớn của Hội quán
ngày vía Bà (ngày 23 tháng 3 âm lịch) và đêm giao thừa (Tết cổ truyền), bà con
18
)
lOMoARcPSD| 40799667
về đây rất đông vui. Ngoài việc cúng bái, mọi người đều vui vẻ tự nguyện đóng góp
tiền hương dầu, cùng nhau gây quỹ làm việc thiện. Trong khu tiền điện còn được trưng
bày Đại Hồng chung ghi niên đại năm thứ 60 vua Càn long, đời Thanh (1795). Hai bên
đại điện còn được thờ thêm hai vị Quan Công (thờ bên phải), Thần Tài (thờ bên trái).
Bên trong đại điện 2 đại đồng chung phía trên chung có ghi dòng chữ “Phong điều
thuận”, “Quốc thái dân an”, Càn Long lục thập niên tuế thứ Ất Dậu quý xuân cát đán”
(1795), “Chúng thương của Tuệ Thành Hội Quán đồng kiến”.
2.3 Quần thể tiểu tượng trên nóc Hội quán
Chính diện của Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán có 5 tòa nhà, trên nóc 3 tòa nhà: số
1 (mặt trước mặt sau), số 3 (mặt trước và mặt sau), số 5 (mặt trước mặt sau)
trang trí 6 quần thể biểu tượng (16mx2mx0.4m) nóc và 4 quần thể tiểu tượng mái đầymàu
sắc dân tộc, rất rực rỡ sinh động, có niên đại 1908 khi trùng tu lớn Hội Quán. Trải qua
biết bao thử thách nắng mưa, gió, bão ngày nay vẫn còn, đủ thấy người Hoa đã dùng
những vật liệu thiết bị kỹ nghệ tối tân nhất thời ấy.
Qua quá trình tạo dựng địa chất kphức tạp diễn ra hàng triệu năm, Thành phố Hồ Chí
Minh với diện tích 226.000 ha, trong đó khoảng 500 ha trữ lượng các loại đất sét
cao lanh, đây chính nguồn tài nguyên quý giá, nguyên liệu chính m ra các sản
phẩm gốm. Tập trung khu vực: Chợ Lớn, Củ Chi, Thủ Đức, quận 9, các loại đất sét làm
gốm đây nhiều ưu điểm khai thác dễ dàng. Đồng thời, nằm trong khu vực khí
hậu nhiệt đới ẩm ướt, yếu tố quan trọng trong việc phát triển rừng, cung cấp nhiên liệu
cho các gốm hoạt động. Với hệ thống song ngòi chằng chịt tổng cộng trên 9.120 km,
giao thông vận tải ở Sài Gòn – Gia Định thật sự rất thuận tiện cho việc phát triển nghề
gốm.
Nét nổi bật của gốm người Hoa gốc Quảng Đông cách sử dụng nước men nhiều
màu sắc trên sản phẩm, cụ thể các màu như: lam, xanh lục, vàng, đen, nâu trắng. Màu
lam và xanh lục là hai màu chủ yếu và có độ sáng bóng. Màu xanh lam là màu xanh
19
)
lOMoARcPSD| 40799667
coban; màu xanh lục hỗn hợp bột đồng thau bột phenspat (feldspath); màu vàng
được chế tạo từ thổ hoàng (ocre jaune); màu đen từ oxyt cmàu đỏ từ hépatit. Hoa
văn trên các sản phẩm gốm của người Hoa Quảng Đông thường cách điệu, đẹp, trang nhã
loại nh sản phẩm cũng rất đa dạng. n cạnh đồ gia dụng, các loại chậu hoa, voi,
đôn với loại to thường dùng để ngồi, loại nhỏ thường dùng để trang trí nội thất… đặc biệt
họ còn chuyên sản xuất các loại tượng, quần thể tiểu tượng trang trí. Đó là các tượng Ông
Nhật, Bà Nguyệt, Phúc Lộc Thọ, Long Ly Quy Phụng, hóa long, Lưỡng long
tranh châu…, các quần thể tiểu ợng trag trí các hội quán của người Hoa Quảng Đông
với kiểu dáng rất đa dạng chứng tỏ sự vượt trội thiên về trang trí, mỹ thuật của các
Quảng. Sản phẩm của gốm người Hoa Quảng Đông còn được xác định qua di tích khảo
cổ học khu vực gốm cổ Hưng Lợi. Sản phẩm gốm chiếm tỷ lệ lớn nhất các loại
sành không men hoặc men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ
yếu siêu, ơ (nồi tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy
siêu, nắp hay đáy hộp in nổi ba chữ n trong khung hình bầu dục “Hưng Lợi diêu”
(lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn các kiểu khạp, hủ, chậu, vịm, chậu bông. Đặc biệt trong
xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men
nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng
của gốm cổ Sài Gòn. Các loại sản phẩm gia dụng trên tuy đơn giản về kiểu dáng nhưng
có nhiều kích thước, theo thời gian sớm muộn mà có những khác biệt ở một vài chi tiết.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các lò gốm người Hoa Quảng Đông dần chuyển về Biên
Hòa, Lái Thiêu… những nơi trlượng đất nguyên liệu dồi dào hơn, rồi từ đó hình
thành nên các dòng sản phẩm gốm mới. thể nói những thành tựu của gốm Biên Hòa từ
sau 1925 kết quả tổng hợp của việc kế thừa truyền thống của các gốm của người Hoa
gốc Quảng Đông ở Sài Gòn – Gia Định và việc tiếp thu những thành tựu của gốm Limoge do
Balik giảng dạy thể nghiệm trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Kết quả của sự giao lưu này
đã sản sinh ra gốm sành xốp men màu Biên Hòa “với vẻ đẹp đặc trưng trầm mặc cổ kính
đã một thời nổi tiếng trên thế giới". Sau 1975, nhiều loại gốm của người Hoa Quảng Đông
phục vụ cho “công nghệ miếu vũ” và các quần thể tiểu tượng
20
)
lOMoARcPSD| 40799667
trang trí trên mái, nóc các công trình tín ngưỡng hầu như không còn, có chăng chỉ vài sản
phẩm đơn lẻ của người đặt hàng.
Chính diện của Tuệ Thành Hội Quán 5 tòa nhà, trên nóc 3 tòa nhà: số 1 (mặt trước
mặt sau), số 3 (mặt trước mặt sau), s5 (mặt trước sau) trang trí 6 quần thể tiểu
tượng (16m x 2m x 0,4m) nóc 4 quần thể tiểu tượng mái đầy màu sắc dân tộc, rất rực
rỡ sinh động, niên đại năm 1908 khi trùng tu lớn Hội quán. Trải qua biết bao thử
thách nắng mưa gió bão nay vẫn còn, đủ thấy tiền nhân đã dùng những vật liệu thiết
bị kỹ nghệ tối tân nhất thời ấy.
2.3.1 Họa tiết gốm nóc số 1
Giống nhau ở cả hai mặt trước sau, họa tiết gốm trang trí ở tầng trên của nóc số 1 là đồ án
“lưỡng long tranh châu”, cụ thể: trên đỉnh trung tâm là một chiếc đài, bên trong bổ ô hình
khánh chạm nổi một con nai trong thế nằm, đầu ngẩng lên quay ngoắt về phía sau,
cạnh cây tùng, hai bên dãy trang trí hóa dơi, bên trên tượng dơi ngậm chữ Thọ,
một vòng trang trí dây hoa tạo thành hình ngọn lửa bao quanh viên ngọc lớn màu nâu.
Hai bên đối xứng với nhau là hình lưỡng long men xanh đồng nằm trải dài uốn lượn trong
mây, cũng hướng lên chầu viên ngọc. Kế tiếp, hai đầu của dãy trang trí cặp tượng
“Cá hóa long”.
Trang trí tầng dưới mặt trước: hình thầy trò đường tăng, ba tiêu động, thiết phiến cung
Trang trí tầng dưới mặt sau: trung tâm quần thể tiểu tượng miêu tcảnh sinh hoạt của
một đại gia đình giàu có, bề thế, trên vòm cửa phần cuối của phân cảnh này chữ
“Đông Viên”: vườn phía Đông tuốt trên phần đầu phân cảnh, trên vòm cửa chữ
“Tây tương”: nhà phía Tây. Quần thể tiểu tượng bên phải diễn tả cảnh haiớng cùng
quân sĩ, vị tướng trẻ, trên cờ chữ “Vũ An Quân Bạch” phía trên: vị tướng già râu
bạc, trên cờ chữ Vũ Lăng Quân Liêm”, trên khung viền trang trí bên ới hàng
chữ: ‘Trinh tường”. Kế là ô trang trí dây hoa lá, trên chữ Thọ, bên trong chạm nổi chữ
“Bửu Nguyên diêu tạo”. Phía trái, bên cạnh ô trang trí tương tự như trên, bên trong có
21
)
lOMoARcPSD| 40799667
chữ “Mậu Thân niên lập”. Phân cảnh quần thể tiểu ợng kế bên miêu tả cảnh hai
tướng để râu dài năm chòm cùng quân sĩ, trên vách núi phía sau có chữ “Nhân thủ dụ”
“Diệt Ngạn sơn”, đối diện, bên vị tướng trẻ có chữ “Cửu Gia than”. Hai đầu phải trái
của nóc tượng “Thổi tiêu dẫn phụng” (Nguyễn Thị Thu Trúc, 2007, tr.54)
2.3.2 Họa tiết gốm nóc số 3
Chi tiết góc trái và góc phải của họa tiết nóc 3 là hình “ Hòa hợp nhị tiên”
Trang trí tầng dưới mặt trước: cảnh các quan văn được phân thành từng nhóm nhỏ,
nhóm ôn tồn trò chuyện, nhóm hoa chân múa ty, nhóm mặt mũi tươi cười nhưng khoát
tay không nhận khi người dưới dâng kim ngân, nhóm thì mỹ nhân yểu điệu, xiêm áo
thướt tha bên cạnh võớng, trên lầu: công tử, văn nhân,tiểu đồng, ngọc nữ, người ngắm,
kẻ nhìn, lại người đang thổi sáo. Tiếp theo về bên trái ô trang trí bình hoa, đỉnh
trầm, khung viền bổ ô hình tròn và hình khánh chạm nổi hoa trên nền dây hoa lá, bên trên
hoa văn chạm nổi hình cuốn thư trong chữ “Lân thố ngọc thư”. Bên cạnh quần thể
tiểu tượng miêu tả cảnh một vị tướng mặc giáp phục trên lưng ngựa ô, phía sau: lính cầm
cờ chữ “Yên”, đối diện: một vị tướng cưỡi trên lưng bạch mã đang lao từ trên cao
xuống, bên dưới một vị quan quỳ gối ra chiều hoảng hốt. Sau ng cảnh cây cối, i
non hiểm trở. Kế tiếp ô trang trí chạm nổi chữ “Đồng Hòa diêu tạotrên nền trổ thủng
hoa văn hình tổ ong, khung viền trang trí hoa mẫu đơn, đối xứng hai bên hoa chạm nổi
công, chim, dê, nai, hạc xen kẽ hoa lá. Trên đỉnh trang trí một con bướm lớn. Bên phải
quần thể trang trí trung tâm ô trang trí nh hoa bên cạnh đĩa đựng các loại trái cây
gồm phật thủ, đào, lựu trên kệ hoa văn chữ Hồi, khung viền bổ ô chạm nổi hoa trên nền
hoa văn dây lá, bên trên trang trí cuốn thư có chữ “Lân thố ngọc thư”. Hai đầu phải
trái của nóc là tượng “Hòa Hợp nhị tiên” gồm một vị mặc trường bào nhiều lớp, lớp trong
màu trắng, lớp ngoài màu xanh đồng, vạt trên áo đắp chéo bên ngực phải, lưng thắt dây
lụa tết nhuyễn, quần ống nhỏ màu xanh lam, đang ngồi, hai tay ôm chiếc hộp. Kế bên,
một vị mặc trường bào hai lớp, trong màu trắng, ngoài màu xanh lam, lưng thắt dây lụa
tết nhuyễn có đầu dây màu trắng, quần ống rộng màu trắng, trong tư thế đứng, tay trái
22
)
lOMoARcPSD| 40799667
cầm bông lúa giơ cao, tay phải ôm đồng tiền vàng, chân trái c trên mình một con c
lớn ba chân, xung quanh trên cao là mặt trời và mây ngũ sắc.
Trang trí tầng dưới mặt sau: quần thể tiểu tượng trung tâm diễn tả các quan văn, quan võ
và các phu nhân (thường đứng bên trong lan can) trong các tư thế: người dợm chân, hùng
hổ bước đi, kẻ ngăn lại ra chiều dặn dò, người ung dung vuốt râu, kkhoan thai một tay
nâng đỡ nh đai, người lắng nghe, kẻ chỉ trỏ như báo hiệu điều gì… trên cờ do người
lính cầm cuối phân cảnh chữ “Đại nguyên soái họ Lưu”, đầu phân cảnh chữ
“Đông Bình”. Bên phải quần thể tiểu tượng ô trang trí bình hoa mẫu đơn, men trắng,
bên cạnh dĩa ba chân đựng phật thủ, khung viền bổ ô chạm nổi hoa trên nền hoa văn dây
hoa lá, trên cuốn thư trong chạm nổi chữ “Lân thố ngọc thư”. Kế bên quần thể tiểu
tượng diễn tả cảnh đang giao chiến giữa hai vị tướng, một vị trên cờ chữ “Định Quốc
Công Hàn” ngồi trên ngựa ô, phía dưới có một quân tay cầm tấm khiên hình tròn.
Phía trước, một vị tên “Hoàng Hoa Sơn Khương” cưỡi trên lưng bạch mã, bạch
như trong thế sẵn sàng phóng đi. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm vẫn ô trang
trí chữ “Lân thố ngọc thư” nhưng bên trong trang trí bình hoa đỉnh trầm men m.
Bên cạnh quần thể tiểu tượng diễn tả một vị tướng cưỡi bạch chạy, lính cầm cờ
phía trước có chữ “Tây Lương – Mã”, phía sau một vị tướng cưỡi xích thố chạy theo, lính
cầm cờ phía sau có ch“Yên Nhân Trương”, phía sau cảnh rừng núi hiểm trở. Ô trang
trí kế tiếp chữ “Quang Tự Mậu Thân” trên nền hoa văn trthủng hình tổ ong, khung
bên ngoài trang trí mẫu đơn, bướm, chim, bốn góc bốn vật trong bát bửu:bầu rượu,
quạt vả, cặp sênh, gỗ đào. Trên chạm nổi hình một con ớm. Hai đầu phải trái của
nóc là tượng “Hòa hợp nhị tiên”.
2.3.3 Họa tiết gốm nóc số 5
Tạo hình con giống của làng gốm sứ nổi tiếng nhất Hoa Nam huyện Thạch Văn tỉnh
Quảng Đông Trung Quốc theo cốt truyện c điển trong “Tam Quốc”, “Tây Du Ký”,
“Thủy Hử”, “Hồng Lâu Mộng” với các điển cố thầy trò đượng tăng. Gốm nóc phía trái:
bên phải là hình biểu tượng “Tam Hiệp Sĩ” có dòng chữ “Thiên Cung Tứ Phúc”, “Tử K
23
)
lOMoARcPSD| 40799667
Đông Khởi”, “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Đề Ngạn Gốm giai”, giữa phù điêu điển
cố “Thôi Tiêu Dẫn Phượng”, dòng chữ “Khổng Tử đản sinh 2459 chu niên, Trần Hoa
Sinh vẽ”.
Trang trí tầng dưới mặt trước: chính diện quần thể tiểu tượng trung tâm, ngồi giữa một
vị vương, xung quanh quần thần và bá quan văn võ hai bên, trên vòm cửa cung điện trang
trí một con đại bàng sải rộng cánh, hai bên hai con tử, phía trên lầu cột bên trái
của cung điện có chữ “Đế tử tụng thi thư”, đối xứng cột phải có hàng chữ “Cung nga điệu
nhã nhạc”. Trên một vòm cửa bên phải hai chữ “Long bàn” trên một vòm cửa bên trái
hai chữ “Hổ cứ”. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm ô trang trí dơi ngậm chữ
Thọ, bên dưới tượng nai dơi ngậm vòng đầu hướng về nhau, giữa hai đồng tiền
vàng. Khung viển trang trí hoa dây lá, dơi ngậm vòng, phía trên đỉnh tượng “lưỡng
long tranh châu”. Ô kế tiếp diễn tả một vị vương râu bạc trắng mặc trường bào màu vàng
ngồi trên mình bạch mã, tay cầm quạt giơ cao trên đầu, động tác như khích lệ, bên cạnh
vị tướng mặc phục hướng nhìn về một người áo chỉ khoác một bên vai, dáng n
đang thuần một con thú, xung quanh lính, cận thần người chăn bên hai con
chạy túa ra sau ngoái cổ nhìn. Ô kế tiếp, đối xứng nhau chạm nổi một cành mẫu đơn, trên
chim phượng uốn mình trong thế rất đẹp mắt, phía dưới dơi cánh giang rộng. Bên
trong bổ ô hình chữ nhật chữ Bửu nguyên diêu tạo”. Bên dưới hoa văn hình chữ
Thọ, trên đỉnh nh bướm sải rộng cánh màu nâu. Bên phải quần thể tiểu tượng trung
tâm, ô trang trí tương tự như bên trái: dơi ngậm chữ Thọ, bên dưới tượng nai dơi
ngậm vòng đầu hướng về nhau, giữa hai đồng tiền vàng. Khung viền trang trí hoa
dây, dơi ngậm vòng, phía trên đỉnhtượng “lưỡng long tranh châu”. Tuy nhiên, ô trang
trí bên phải, vtrí của nai dơi đổi chỗ cho nhau. Khung quần thể kế tiếp diễn tả cảnh
Tào Tháo đầu đội mão đen, áo trường bào màu xanh đồng đai đang cưỡi trên ng
bạch phóng nước đại, bên cạnh lính cầm lọng, các quân theo sau vừa chạy vừa
ngoái lại nhìn. Phía sau Trương Phi râu hàm én, áo phanh ngực bụng chạy theo lên cầu,
tướng sĩ và con bạch mã theo sau.
24
)
lOMoARcPSD| 40799667
Xung quanh cây cối um tùm, dưới cầu ch“Trường bản kiều”. Kế tiếp khung trang
trí hoa dây bên trong chữ “Mậu Thân niên lập”. Bên phải trái dãy trang t
tượng một vị thần đầu đội mão, bên trong mặc trường bào tay ôm màu trắng, bên ngoài
mặc áo khoác màu tím, dưới vạt viền nẹp vàng, tua tím cưỡi trên lưng long mã, tượng
bên phải tay cầm bình hoa men trắng chữ “Hoa khai phú quý”, tượng n trái tay cầm
bình hoa có chữ “Trúc báo bình an”.
Trang trí tầng dưới mặt sau: quần thể trung tâm diễn tả cảnh u nước tụ họp, với các
tướng, kẻ hầu người hạ cùng các phu nhân, trên cờ của mỗi ớc chữ, tuần tự
“Hàn”, “Yên”, “Nguy”, “Triệu”, “Sở”, “Tề”. Chính giữa, trên vòm của motip trang trí
“song phụng triều dương”, bên dưới hai vị, một mặc trường bào màu xanh, một mặc
trường bào màu trắng đang vái chào nhau, hai bên cung nữ cầm lọng. Đối xứng hai
bên phải, trái ô trang trí chạm nổi “trúc ớc” bên trái, “mai điểu” n phải, bên
trên tiểu tượng “lân cầu”, bên ới hoa văn:hoa văn chữ Thọ. Ô trang trí bên trong
tạo hình một con đại bàng đứng trên một gộc cây, bên dưới sóng ớc. Kế tiếp quần
thể tiểu tượng diễn tả cảnh “Thầy trò Đường Tăng” với Đường Tam Tạng cưỡi trên lưng
bạch mã, đi bên cạnh là Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không, theo sau Sa Ngộ Tĩnh vai vác
bảo trượng. Nhóm bên cạnh Đại Lực Ngưu Ma ơng cưỡi trên con thú mắt vàng kỵ
nước, tay trái giơ cao quạt ba tiêu, bên cạnh Thiết Phiến công chúa Ngọc Diện công
chúa, phía sau người hầu cận trần, bốn mắt, đầu sừng. Trên vách đá phía sau
chữ “Ba Tiêu Động”. Ô kế tiếp chữ “Bửu Nguyên diêu tạo”, xung quanh trang trí hoa
dây. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm quần thể trang trí diễn tả cảnh hai vị
tướng cưỡi trên hai con thú, một người trẻ hơn tay cầm bình hồ lô, người già hơn tay
cầm cây kiếm ngắn, người hầu cận phía sau cầm cờ chữ “Lộc Mục Đại Vương”, trên
vách đá chữ “:Ngân Khanh Động” cờ đuôi nheo chữ “Mạnh” kế tiếp bên
trong chữ “Mậu Thân niên lập”, khung viền trang trí hoa dây. Bên phải trái dây
trang trí tượng một vị thần đầu đội mão, bên trong mặc trường bào tay ôm màu trắng
viền nẹp xanh lam, bên ngoài khoác áo màu m, dưới vạt viền nẹp màu vàng xanh
đồng, cưỡi trên lưng long mã (Nguyễn Thị Thu Trúc,2007, tr.58)
25
)
lOMoARcPSD| 40799667
2.4 Một số cổ vật quí
Theo thống kê chưa đầy đủ, bản quán hiện có gần 400 đồ cổ: tượng thần 7, tượng đá 6,
bia đá 9, biển hoành phi 10, câu đối 23, phù điêu “Thuyền Bát Nhã” 2, tranh nổi
41, họa tiết gốm nóc mái 10, tranh chữ vẽ 20, tranh tường 34, chuông lớn 1, chuông
đồng nhỏ 2, tranh chạm gỗ 24, đỉnh doòng lớn 1,…
2.4.1 Hoành phi, liễn đối
Hoành phi được định nghĩa: “Hoành phi là những tấm biển gỗ có hình thức trình bày theo
chiều ngang treo trên cao bên ngoài c gian thờ tại đình, chùa, miếu…thường trên đó
khắc từ 3 đến 4 chữ đại tự”. Hoành phi (橫扉) nghĩa bảng nằm ngang với hoành
ngang, phi phô bày. Hoành phi bức thư họa (tranh chữ), được dùng rộng rãi trong
dân gian ình, đền, nhà thờ họ, nhà ở…). Bức hoành phi được treo cao nhất tại không
gian thờ cúng hơi nghiêng về phía trước để người nhìn dễ quan sát tạo sự cân đối.
Việc treo một, hai hoặc ba bức hoành phi tại không gian thờ tùy thuộc vào từng gia
đình và khu vực thờ cúng.
Nội dung thường những chữ Hán (không dùng chữ Nôm) viết trên hoành phi (大字 đại
tự) thường theo 3 kiểu bản chữ chân , chữ thảo , chữ triện . Nội dung
khi bày tỏ lòng tôn nh của con cháu đối với tổ tiên những người công với đất
nước, thông thường chỉ từ ba đến bốn chữ như: 万古英灵 “Vạn cổ anh linh” (muôn
thuở linh thiêng), 留福留摁 Lưu phúc lưu ân (Lưu giữ mãi ơn đức), 護國庇民 Hộ quốc
dân (bảo vệ nước che chở dân); khi mang ý nghĩa chúc tụng n 僧财进禄 “Tăng
tài tiến lộc” (được hưởng nhiều tài lộc), 福禄寿成 Phúc lộc thọ thành” (được cả phúc,
lộc, thọ), 家门康 Gia môn khang thái (Cửa nhà rạng rỡ yên vui).
MIếu 4 bức hoành phi 18 câu liễn hoành phi, liễn đối chủ yếu được làm vào
những năm 1910 niên hiệu Tuyên Thống triều Thanh, Trung Quốc và một số cặp l Tạihội
quán Tuệ Thành các bức hoành phi, những cặp liễn đối được m giai đoạn những năm
1908 đến 1910 gắn với niên hiệu Tuyên Thống và một số cặp liễn được tạo tác giai đoạn
26
)
lOMoARcPSD| 40799667
sau này gắn với thời Trung Hoa Dân Quốc. Các cặp liễn tạihội quán Tuệ Thành với các đồ án
hoa văn rồng mây sóng nước như để nhắc nhở về một quá trình vượt biển gian nan. Số
lượng hoành phi treo tạihội quán Tuệ Thành không nhiều, có lẽ vì lối kết cấu kiến trúc không
gian thờ tự của miếu thích hợp cho việc treo liễn đối hơn hoành phi, gian Trung điện thì
quá dài, thế gian Trung điện hẹp về chiều ngang chiều cao tcó, nên các hàng
cột thích hợp cho việc treo các cặp liễn.Tạihội quán Tuệ Thành hiện 18 cặp liễn đối
được treo ở các gian thờ sau: Hiện cửa trước có 2 cặp liễn, hàng cột 1 có 1 cặp, hàng cột 2
1 cặp, ở hàng cột thứ 8 mặt trong có 1 cặp, mặt ngoài 1 cặp, vách tường 1 cặp, hàng cột thứ 9
mặt ngoài 1 cặp, mặt trong 1 cặp, hàng cột thứ 10, cột thứ 13, cột thứ 14, cột thứ 15, cột thứ
16, cột thứ 17, cột th18, đều treo 1 cặp và 1 cặp ch tường nơi đại điện. Dưới đây là 1
vài bức hoành phi và cặp liễn tôi đưa ra phân tích.
Bức hoành phi và cặp liễn ở trung điện
Phiên âm: Hàm hoành quang đại.
Gia Khánh ngũ niên Qúy xuân cốc đán, Phúc Kiến chúng thương đẳng trùng kiến lập.
Dịch nghĩa:Hàm ơn to lớn của Thiên Hậu.
Các nhà buôn Phúc Kiến cúng hoành phi nhân dịp trùng tuhội quán Tuệ Thành vào ngày
lành tháng 3 năm thứ 5 (1800) niên hiệu Gia Khánh (Triều Thanh, Trung Quốc).
Đặc điểm:
Chạm nổi chữ Hán, xung quanh chạm lưỡng long tranh châu, song phụng, bên dưới chân
giá đỡ cho bức hoành 2 con dơi lớn. Đến nay bức hoành phi vẫn còn treo tại Trung
điện củahội quán Tuệ Thành, lẽ do thời gian nên nền của bức hoành phi cũng phai
màu dần. Hoành phi được làm tháng 3 năm 1800.
Cặp liễn đối ở hàng cột thứ 2 tại Trung điện
Phiên âm:
27
)
lOMoARcPSD| 40799667
Hoàn vũ mông ân, nhất biện tâm hương ân báo đức;
Từ vân khải thụy,ngũ châu phàm ảnh khánh an lan.
Tuế thứ Canh Tuất quý xuân cốc đán. Mộc ân Công Nghĩa Đường chúng tín kính.
Tuệ Thành hội quán trùng tân cung phụng.
Dịch nghĩa:
Khắp chốn mang ơn, một nén hương lòng mong được báo đền công đức;
Mây lành che chở, mọi cánh buồm khắp năm châu mừng được sóng êm.
Đặc điểm:
Các thương nhân Công Nghĩa Đường cúng liễn đối vào ngày lành tháng 3 năm Canh
Tuất (1910), nhân dịp trùng tu hội quán Tuệ Thành
Cặp liễn rời, treo ở cột, chạm nổi chữ Hán, nền bức liễn chạm nổi các đường vân,
mây, kiếm, sáo, thư sách.
Cặp liễn được làm vào năm Canh Tuất (1910)
Cặp liễn đối ở hàng cột thứ 8 (mặt trong): cặp liễn này do một cửa hàng thịt ở Sài Gòn
kính tặng với ý nghĩa là ca tụng công đức của Thiên Hậu.
Phiên âm:
Thánh trạch nhược giang hà, châu tiếp sở thông giai vũ lộ;
Dân sanh đồng huyết khí, thê hàng tuy viễn diệc tùng du.
Tuyên Thống nhị niên tuế thứ Canh Tuất quý xuân chi nguyệt, Tây Cống nhục hàng Hiệp
Hòa Đường kính tống.
Dịch nghĩa:
Thánh đức như biển sông, thuyền bè đi về thông suốt đều nhờ ơn mưa móc;
28
)
lOMoARcPSD| 40799667
Dân chúng cùng dòng máu, thuyền buôn đi xa nhưng vẫn thấy hình bóng quê nhà.
Đặc điểm:
Các ông Hiệp, Hòa, Đường của cửa hàng thịt ở Sài Gòn cúng liễn đối vào tháng 3 năm
Canh Tuất (1910), năm thứ 2 niên hiệu Tuyên Thống (Triều Thanh, Trung Quốc)
Cặp liễn rời, treo ở cột, chạm nổi chữ Hán, nền chạm nổi rồng, mây.
Cặp liễn được làm vào tháng 3 năm Canh Tuất (1910) (Nguyễn Phúc Ánh, 2008,
tr.66).
4
2.4.2 Lư hương cổ
hương dụng cụ dùng để đốt nhang, được tạo thành từ kim loại hoặc gốm sứ, tùy
theo từng giai đoạn lịch sử hình dáng sự thay đổi, thường hình tròn, trên miêng
đôi ta, thường 3 chân, được gọi “lư hương đỉnh”, sau y người ta gọi chung
“lư hương” cho cả loại 3 chân hay đế bằng, văn hóa hương được cho bắt nguồn từ
thời Thương Chu” . Khi nghiên cứu các vấn đề văn hóa truyền thống Trung Quốc,
những nhà nghiên cứu Trung Quốc còn quen gọi một văn hóa đó “văn hóa hương”
(Trung Quốc hương văn hóa) hay "văn hóa hương trầm”, gọi đây văn hóa
không chỉ việc đốt hương việc ng các hiện vật để đốt thứ hương liên quan
đến niềm tin, tín ngưỡng của con người. Sự xuất hiện của hương đem lại cho con
người một đời sống tinh thần phong phú hơn, qua thời gian, suốt chiều dài lịch sử đã
đem lại những ảnh hưởng văn hóa sâu sắc.
Kiểu dáng của các hương cổ trong các miếu của người Hoa thành phố Hồ Chí Minh
rất phong phú. Tùy thuộc vào các tiêu chí như nguồn gốc, xuất xứ, niên đại, chất liệu…
đã quy định kiểu dáng ơng tương ứng. Theo đó, bản thể chia kiểu dáng
theo phong cách Trung Quốc và Việt Nam. Trung Quốc thể chia ra thời
Minh thời Thanh Việt Nam hai loại tiêu biểu hương hợp kim đồng thế
kỷ XIX – XX và lư hương gốm Sài Gòn thế kỷ XIX.
4 Báo cáo thực tập
29
)
lOMoARcPSD| 40799667
hương cũng như các loại hình cổ vật khác trong miếu Hoa ngoài chức năng dùng để
thờ cúng hiện vật trung gian để con người giao tiếp với thần linh. còn chức
năng trang trí cho miếu. hương trong bộ ngũ sựhội quán Tuệ Thành hội quán Tuệ
Thành được trang trí bằng bộ tranh gỗ “bát tiên” thể hiện các vị tiên trong những thế
thoát tục, thảnh thơi, tay cầm những bảo bối của mình. “Bát tiên” được cho là thần canh
gác cho m hướng nên việc tái hiện họ đem lại điều tốt về phong thủy. Người Hoa tin
rằng họ mang lại sự trường thọ, tài lộc, sức khỏe cho con cháu. Còn về đề tài cảnh sinh
hoạt dân gian như đề tài “tam đa” gồm ba vị Phúc Lộc Thhươnghội quán Tuệ
Thành hội quán Tuệ Thành được sử dụng trên các hương để cầu những điều tốt đẹp
cho các ngôi miếu cho con tín hữu. c đề tài trang trí về các nhân vật lịch sử
nhân vật tôn giáo tín ngưỡng như bát tiên”, “tam đa” chức năng truyền tải niềm tin
tín ngưỡng, đề cao đạo lý nhân sinh và tính giáo dục đối với con người. Về đề tài trang trí
con vật dân điển hình hình ảnh con dơi. Con dơi tiếng n âm gần với chữ
“phúc” nên được coi là biểu tượng của hạnh phúc sung túc. hương trong bộ ngũ
sựhội quán Tuệ Thành hội quán Tuệ Thành 8 con dơi xòe cánh xếp cạnh nhau. Đế
chân nến cũng 8 con dơi xòe cánh. Các loại cũng được sử dụng trang trí khá phổ
biến trên hương. Con tiếng Hán đọc “ngư” đồng âm với chữ “dưchỉ sự giả,
giàu có. gắn với truyền thuyết “ngư hóa long” (cá hóa rồng” biểu hiện cho sự thành
đạt, giàu sang, hội phồn vinh. Đề tài “ngư thủy” (cá gặp thời) được thể hiện trên
mảng tranh gỗ hương của hội quán Tuệ Thành hội quán Tuệ Thành. Ngoài ra bộ
ngũ sự còn thể hiện các loại cua, cá bằng tranh gỗ tạo vẻ đẹp khá gần gũi và vui mắt.
Ngoài ra tranh tường cũng điểm đặc sắc khi đến Hội Quán. “Thương Sơn Tứ Hạo” cuối
đời nhà Trần có ông Đông Viên Công, Giác Lý Tiên, Khởi Lý Quý, Hạ Huỳnh Công, là 4 tên
lừng danh cao nhân nhã tuổi tác gần nhau ngoài 80, lánh ẩn thời loạn thuộc núi Thương
Sơn thuộc tỉnh Thiểm Tây, ai nấy tóc bạc hết đầu nên thiên hạ gọi hbằng “Thương Sơn
Tứ Hạo”, khi Lưu Bang đánh bại Hạng thôn tính thiên hạ, ngỏ ý mời họ ra ngoài làm
quan triều đình nhưng bất toại, kế đó Lưu Bang ý muốn truất phế thái tử “Dinh” định lập
Triệu Vương Như Ý nên dùng kế Trương Lương mang quà biếu hậu tặng
30
)
lOMoARcPSD| 40799667
lễ thỉnh họ ra đời phụ trợ khi thái tử Lưu Dinh dẫn họ nhập cung bái kiến Vua Lưu Bang,
nhà vua nói “ nay Thái tư nhà ta được Tứ Hạo lãnh nhân nâng đỡ giúp việc không khác gì
con chim lông cánh trổ đầy được cao bay rồi”, rốt cuộc không phế truất Thái Tử.
31
)
lOMoARcPSD| 40799667
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH
3.1 Các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng
Theo tác giả Phan Thị Thu Thảo (2006) mỗi hội quán đều miếu thờ một vị thần linh
theo tín ngưỡng của người Hoa hay lịch sử di dân của họ. Mỗi miếu đều thờ một vị thần
chính một số các vị thần linh phối tự khác. Đặc điểm nổi bật trong văn hóa Hoa thờ
cúng, tín ngưỡng. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu qua định tại Việt Nam và khi đã có
nơi ăn chốn ở, họ nghĩ ngay tới việc xây dựng các đền thờ, miếu, chùa chiền, hội quán để
đáp ứng nhu cầu về tín ngưỡng của mình. Tùy theo nội dung tín ngưỡng mà hằng năm
những ngày lễ hội lớn nhỏ; tùy theo tính chất của các ngày lễ tế, người ta sắm sửa các
lễ vật dâng cúng khác nhau, thành tâm thắp hương khấn nguyện, làm việc thiện. Đến với
hội quán vào những dịp lễ hội, người Việt cũng có thể tham gia hoặc xem người Hoa biểu
diễn văn nghệ, múa rồng, múa lânđây còn những trung tâm văn hóa, giáo dục,
nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa nghệ thuật của người Hoa.
Tín ngưỡng tôn giáo môi trường chủ yếu để định hướng nhân cách tâm cộng
đồng của người Hoa. Chính vì thế tín ngưỡng và tôn giáo có vai trò rất cần thiết và là một
nhu cầu không ththiếu của phần đông người Hoa tại TP.HCM. Theo tác giả Phan An
trong Chùa Hoa –một nét văn hóa đặc sắc của TP.HCM thì “Chùa Hoa được phân bố rải
rác trên nhiều quận, huyện, của Thành phố, nhưng phần nhiều tập trung trên địa bàn quận
5, quận 1. Chùa Hoa gắn nhiều mặt với đời sống của người Hoa Thành phố cũng
như lịch sử hình thành phát triển của Thành phố từ lúc đầu”. Nhìn chung, hội quán
miếu Hoa nơi đồng bào Hoa thể hiện niềm tin lòng biết ơn của mình đến Trời, Phật,
thần linh, những anh hùng nghĩa đã theo độ trì, phù hộ cho họ. Tuy nhiên, tín ngưỡng
của họ nghiêng hẳn về thờ phụng thánh nhân hơn là thần linh. Trong các hội quán miếu
Hoa, người Hoa đặc biệt thờ cúng những thánh nhân được thờ phổ biến Thiên Hậu,
Quan Công, Ông Bổn, Bao Công…
32
)
lOMoARcPSD| 40799667
Trong hệ thống tín ngưỡng của người Hoa tại các hội quán, mỗi vị thần ợng trưng cho
một ý nghĩa riêng. Chẳng hạn, tín ngưỡng Quan Công nhằm định hướng nhân cách cho
nhân cộng đồng theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo: nhân, lễ, nghĩa, trí tín.
tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, một nhân thần được người dân vùng biển phía Nam Trung
Hoa tôn xưng thần biển. Với Thiên Hậu, trước hết người Hoa muốn ghi tạc công
lao của một thánh nhân đã hết lòng cưu mang che chở cho họ vượt biển đến những vùng
đất mới một cách an toàn, sau mong muốn bồi dưỡng nhân ch cho cộng đồng, đặc
biệt là là phụ nữ Hoa, được tình yêu thương giúp đỡ những người trong cơn hoạn nạn,
hiếu thảo với các bậc sinh thành, mẫu mực trong tình anh em, đồng loại. “Đa số người
Hoa định hải ngoại những người đã ợt qua nguy hiểm trong quá trình di dân,
nên họ đề cao vị thánh mẫu đã phò trợ, giúp họ vượt qua được hiểm nguy. Người Hoa thờ
Thiên Hậu nhằm nói lên tính nhân nghĩa của cộng đồng, biết báo đáp ân sâu mình
mang nặng. Hội quán người Hoa không chcủa người Hoa, còn nơi thờ cúng
thiêng liêng cho tất cả những ai niềm tin vào tín ngưỡng tôn giáo. Cho họ thuộc
nhóm ngôn ngữ nào, người Hoa, người Việt hay người nước ngoài, đều thể đến
hội quán cúng bái, cầu xin, làm cho các hoạt động của hội quán thêm phần sinh khí,
mang các giá trị biểu trưng thuộc về đời sống tâm linh rất điển hình.
Tín ngưỡng Kim Hoa ơng nương của người Hoa quận 5 tục thờ Bà Mụ của người
Việt vùng Nam Bộ một số điểm tương đồng khác biệt bản. Người Việt người
Hoa gọi Kim Hoa Nương Nương với nhiều tên gọi khác nhau nhưng Bà vẫn vị nữ thần
đại diện cho tín ngưỡng cầu tự phù hộ cho trẻ khỏe mạnh, thông minh, học giỏi
ngoan ngoãn. Người Hoa còn gửi con cho nuôi đến năm đứa trẻ 18 tuổi mới làm lễ
trưởng thành, xem như đứa trẻ đã trưởng thành cần phải tự lập trong cuộc sống. Trong
khi đó, người Việt làm lễ Nhương căn cho trẻ khi đứa trẻ đủ 12 tuổi để tạ ơn Mười Hai
Mụ đã nuôi nấng, dạy bảo cho trẻ trong suốt 12 năm qua. Người Việt người Hoa
đều đến chùa, miếu để cầu tự cầu xin Kim Hoa Nương Nương khi nhu cầu (Phan
Thị Thu Thảo, 2006, tr.86).
3.2Các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục
33
)
lOMoARcPSD| 40799667
thể nói Thiên Hậu Thánh Mẫu nữ thần được người Hoa gốc Quảng Đông sùng bái
thờ cúng nhiều nhất. Đối với họ, luôn hiện hữu trong tâm thức, luôn lắng nghe h
giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Người Hoa đến vía đâu chỉ có
ngày 23 tháng 3 hàng năm họ thể đến đây hàng ngày. Mọi vui buồn xảy ra trong
cuộc sống thường nhật họ đều đến nhsự hỗ trợ của Bà, giúp thêm niềm tin vào cuộc
sống, mong gia đạo “Ngũ phúc lâm môn”, mong sản xuất kinh doanh luôn được “Mã đáo
thành công”…
Bên cạnh một số ngôi miếu thnhiều nơi quanh khu vực thì miếu Bà Thiên Hậu
Tuệ Thành Hội quán vẫn luôn được người Hoa Quảng Đông xem ngôi miếu chính thu
hút nhiều du khách về đây hội tụ để cùng chung nhau làm việc phúc thiện. Ngày vía
cũng là ngày hội đấu thầu đèn lồng. Trong ánh sáng lung kinhtrong không khí nức
của ngày hội. Hàng trăm chiếc đèn lồng được người Hoa thỉnh dâng cúng Bà, trước tỏ
lòng thành kính, sau dịp để làm phước thiện. Số tiền thu được hàng năm khoảng
hàng trăm triệu đồng khi cao điểm lên đến hàng tỷ. Tất cả đều được dùng trong công
tác từ thiện hội. Đến tham dự lễ hội, người Hoa nào cũng cảm thấy như được gần gũi
nhau hơn. Trong sân rộng nhiều tuồng tích cxưa được nhắc đến giúp cho lớp trẻ hiểu
được truyền thống của cộng đồng pho tượng được mang ra ngự lãm dường như để
chứng kiến cổ vũ thêm sức mạnh cho mọi người. Trải qua hơn mấy trăm năm mặt
và đóng góp tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngôi miếu cùng với Tuệ Thành Hội quán đã tạo
điều kiện giúp đõ nhau, cố kết cộng đồng, xây dựng những sở vật chất: bệnh viện,
trường học, nghĩa trang… luôn được Hội quán quan tâm giúp cho con người Hoa an
tâm vui sống. Ngày nay, hội quán Tuệ Thành Tuệ Thành Hội quán một di tích cổ,
đẹp, một điểm tham quan không thể thiếu của du khách trong ngoài nước khi đến
viếng thăm Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài những giá trị tinh thần màhội quán Tuệ Thành mang đến mà còn có những giúp đỡ
về vật chất đáng kể đối với bà con người Hoa. Nếu bạn là người Hoa Quảng Đông lưu lạc
đến đây không nơi nương tựa, bạn hãy đến Tuệ Thành Hội quán họ sẽ giúp bạn. Ban
quản trị sẽ sắp xếp chỗ ăn ở cho bạn trong Hội quán trong ba tháng, và trong thời gian đó,
34
)
lOMoARcPSD| 40799667
họ sẽ giúp bạn tìm kiếm một việc làm và chỗ ở ổn định. Những sự giúp đỡ mang tính quy
mô lớn hơn được thực hiện trong các công tác từ thiện hội. Công tác từ thiện, phúc lợi
hội, hỗ trhoạt động văn hóa giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
việc làm thường xuyên của Hội quán xuyên suốt hơn 200 năm nay. Phát huy truyền thống
tốt đẹp đó, hơn 20 năm nay Ban quản trị đã tích cực đóng góp vào các hoạt động xả hội
nêu trên với số tiền gần chục tỷ đồng. Trong đó bao gồm chi phí mua trang thiết bị dạy
học trang bị phòng vi tính cho trường Mạch Kiếm Hùng; ủng hộ kinh phí cho hoạt
động của trường Tương Lai quận 5 quận 6 Ban Bảo trợ Hội chữ thập đỏ quận 5;
ủng hộ học bổng Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Đức Cảnh, Qúy Đôn. Hàng tháng
ủng hộ kinh phí cho hai phòng khám từ thiện của hội y học cổ truyền Q.5 Q.6….
Ngoài ra còn có hàng loạt các chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương khác.
thể nói Tuệ Thành Hội quán một chỗ dựa vật chất, tinh thần to lớn của người Hoa
Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chí Minh. Những đóng góp to lớn ấy luôn được mọi người
ủng hộ hết sức mang ơn đây một truyền thống tốt đẹp luôn được Đảng Nhà
nước ta hoan nghênh và ủng hộ.
3.3Các hoạt động kinh tế
Sự phát triển quy xây dựng phạm vi hoạt động của các hội quán người Hoa tại TP.
Hồ Chí Minh hiện nay đều theo một con đường chung từ nhỏ tới lớn, từ hẹp đến rộng,
tương ứng với quá trình tích lũy bản thương nghiệp của thương nhân người Hoa sự
phát triển lớn mạnh của cộng đồng người Hoa. Sau khi xây dựng hội quán, các thương
nhân cũng chủ động tạo ra nguồn kinh phí cho hoạt động thường xây nhà cho thuê
hay cho thuê mặt bằng, ngoài số tiền đèn ơng người trong bang hỷ cúng. “Để
điều kiện xây dựng miếu cũng như điều hành các việc thờ cúng, cần phải người nhiệt
tình, có tiền của, có uy tín. Vì vậy, hội quán được thành lập trong khuôn viên của miếu để
điều kiện đẩy mạnh hoạt động tín ngưỡng các hoạt động của hội quán như hội,
giáo dục, y tế, phát triển cộng đồng… Ngoài ra, để kinh phí cho mọi hoạt động nhằm
giúp cộng đồng tồn tại, phát triển, số tiền đáng kể được thu từ nguồn đóng góp cúng thần
35
)
lOMoARcPSD| 40799667
trong miếu”. Mọi nguồn lợi đóng góp từ cộng đồng chủ yếu là nhằm gửi đến thần linh để
tạ ơn, mong cầu sự giúp đỡ cho cộng đồng. Thông qua Ban quản của hội quán, việc điều
động tổ chức, sử dụng nguồn kinh phí ấy để phục vụ thiết thực trở lại một cách hợp
cho cộng đồng, cũng xuất phát từ chức năng của hội quán.
Một yếu tố khác cũng cần ghi nhận do hội quán gắn liền với sở tín ngưỡng, nên hội
quán còn một khoản thu không nhỏ khác thường được gọi “tiền nhang đèn”. Đó
khoản tiền thu được tviệc bán nhang, đèn, dầu… cho khách thập phương đến chiêm
bái, cúng kiếng tại sở tiền khách thập phương tự nguyện bỏ vào thùng “phước
thiện” cúng cho cơ sở thờ tự.
Đấu giá lồng đèn một số hội quán người Hoa không chỉ sinh hoạt văn hóa truyền
thống, được Ban quản trị hội quán tổ chức định kỳ hay khi cần quyên góp một số tiền lớn
để xây dựng một công trình phúc lợi công cộng nào đó, còn hoạt động tạo quỹ cho
hội quán. Đèn lồng được làm bởi các nghệ nhân, trưng bày tại hội quán vào dịp tết
Nguyên Đán tổ chức đấu giá thường vào dịp lễ hội Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng).
Chiếc đèn lồng được đấu giá hoàn toàn không giá trị sử dụng hay giá trị vật chất
yếu tố tinh thần. Mọi nguồn thu của hội quán lớn, nhỏ phải được sử dụng vào việc
công ích công khai, minh bạch, hàng tháng đều báo cáo thu chi ràng. Khi đã lớn
mạnh dưới danh nghĩa bang, hội quán đóng vai trò tích cực trong việc chăm lo cộng
đồng.
Nguồn tài chính của hội được tạo bởi tiền hương dầu của tánh đóng góp sự thiện
quyên góp tự nguyện của các nhân nhiệt tâm, mạnh thường quân, tiền cúng tế nhang
đèn chùa, nghĩa trang. Kế hoạch thu chi i chính của hội quán cũng nguyên tắc
riêng. Như vậy, qua những trình bày trên đã cho chúng ta thấy nguồn thu của hội quán
chủ yếu từ tiền bán nhang, đèn, dầu; tiền hương dầu của tánh đóng góp; tiền đóng góp
do tự nguyện của các nhà hảo tâm, mạnh thường quân các khoản thu khác. Những
nguồn thu này được chi một cách hợp lý và chặt chẽ. Đây cũng là nguồn được sử dụng
36
)
lOMoARcPSD| 40799667
vào nhiều mục đích chung và đặc biệt là cho các hoạt động văn hóa – xã hội của hội
quán.
37
)
lOMoARcPSD| 40799667
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu gốc Hoa Nam đã theo bước dân người Hoa đến Nam Bộ Việt
Nam từ các thế kỷ 17, 18, 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu phổ biến tại
Nam Bộ nói chung thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Tục thờ này cùng với các hoạt
động văn hóa nghệ thuật các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với đã sớm trở
thành một kênh gìn giữ, u truyền văn hóa truyền thống, cũng một kênh giáo dục đạo
đức, lối sống hiệu quả sâu sắc người Hoa. Với những tinh hoa của tín ngưỡng th
thiên hậu kết hợp cùng lối kiến trúc trang trí điêu khắc độc đáo đã tạo nên một Tuệ Thành
hội quán thu hút, đầy chất nghệ thuật giàu ý nghĩa đậm chất nhân văn. Trong mối
tương quan với văn hóa các tộc người Việt, Khmer Chăm trong vùng, tín ngưỡng
Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc của tộc
người Hoa một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Cùng với quá trình
dung hợp văn hóa đa tộc người trong suốt ba trăm năm qua, tín ngưỡng Thiên Hậu dần dà
hấp thụ các yếu tvăn hóa khác từ các cộng đồng Việt, Khmer, Chăm để làm giàu thêm
phong tục của mình, đồng thời biến tục thờ Thiên Hậu thành một biểu tương giao lưu văn
hóa sinh động tại Nam Bộ. Hiện tượng giao thoa văn hóa Hoa, việt, Khmer Chăm qua
tục thờ Thiên Hậu thể được xem một mẫu hình của sự chung sống chan hòa gắn
các tộc người nhằm hướng tới sự phát triển mang tính bền vững tại vùng đất Nam Bộ
Việt Nam.
38
)
lOMoARcPSD| 40799667
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành hội quán, 2000, Nxb. Trẻ
2. Báo cáo thực tập
3. https://siomiochan.wordpress.com/2016/02/14/ke-chuyen-cho-lon-3-1-tue-
thanh-hoi-quan/
4. http://www.quan5.hochiminhcity.gov.vn/gioithieu/lists/posts/post.aspx?
Source=/gioithieu&Category=Di+t%C3%ADch+v%C4%83n+ho
%C3%A1&ItemID=111&Mode=1
5. https://hochiminh.dulichvietnam.com.vn/diem-den/chua-ba-thien-hau/
6. https://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien-
hau-o-cho-lon-i32971.html
7. https://nghiencuulichsu.com/2016/06/23/lai-ban-ve-khai-niem-hoi-quan-
mieu-chua-cua-cong-dong-nguoi-hoa-tai-thanh-pho-ho-chi-minh/
8. http://svqy.org/2014/3-2014/frame/ChuaCoTaiSaigon.pdf
9. http://vanhoahoc.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/vanhoahoc/Ly
%20luan%20van%20hoa%20hoc/Nguyen%20Ngoc%20Tho-T%C3%8DN
%20NG%C6%AF%E1%BB%A0NG%20THI%C3%8AN%20H%E1%BA%ACU
%20T%E1%BA%A0I%20NAM%20B%E1%BB%98%20VI%E1%BB%86T
%20NAM%20-%20g%E1%BB%ADi%20anh%20S%C6%A1n.pdf
10. https://pdfs.semanticscholar.org/19cc/93a15cae9686a319fd2c8c3cb55683756c61.p df
11. http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/2016/02/le-hoi-chua-ba-thien-hau.html
12. https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/cholon-2
13. https://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien-
hau-o-cho-lon-i32971.html
39
)
lOMoARcPSD| 40799667
PHỤ LỤC
Hình 1.2a: Hội quán Tuệ Thành trong những năm 1865-1875
Nguồn: h琀琀ps://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien-
hau-o-cho-lon-i32971.html
Hình 1.2b: Cổng hội quán Tuệ thành năm 1895
Nguồn: h琀琀ps://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien-
hau-o-cho-lon-i32971.html
Hình 2.2.1: Khu tiền điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
40
)
lOMoARcPSD| 40799667
Hình 2.2.2: Khu thiên đỉnh (giếng trời)
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.2.3: Khu trung điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.2.4: Khu vực hương đình (nhà thắp nhang)
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
41
)
lOMoARcPSD| 40799667
Hình 2.2.5: Khu đại điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.3.1: họa tiết gốm nóc số 1
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.3.2: họa tiết gốm nóc số 3
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
42
)
lOMoARcPSD| 40799667
Hình 2.3.3: họa tiết gốm nóc số 5
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.4: Một số cổ vật quý
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.4.1: Hoành phi, liễn đối
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.4.2: Lư hương cổ
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
43
)
| 1/45

Preview text:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................ . 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn........................................................................................ 1
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 1
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................ 3
6. Bố cục đề tài................................................................................................................ ... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN........................................................... 4
1.1 Tổng quan về người Hoa Quảng Đông......................................................................... 4
1.2 Khái quát về hội quán Tuệ Thành................................................................................. 6
CHƯƠNG 2: NÉT ĐẶC TRƯNG Ở HỘI QUÁN TUỆ THÀNH.................................... 14
CỦA NGƯỜI HOA QUẢNG ĐÔNG............................................................................... 14
2.2.1 Khu tiền điện........................................................................................................... 16
2.2.2 Khu Thiên đỉnh (Giếng trời).................................................................................... 17
2.2.3 Khu trung điện......................................................................................................... 18
2.2.4 Khu vực Hương đình (Nhà thắp nhang).................................................................. 18
2.2.5 Khu đại điện............................................................................................................ 18
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH............................................... 32
3.1 Các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng........................................................................... 32
3.2 Các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục.................................................................... 33
3.3 Các hoạt động kinh tế................................................................................................. 35
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 38 ) lOMoAR cPSD| 40799667
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 39 ) lOMoAR cPSD| 40799667 MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình định cư sinh sống người Hoa đã thể hiện nét riêng vốn có của mình
trên nhiều lĩnh vực, từ đường nét kiến trúc độc đáo của các hội quán của từng nhóm
ngôn ngữ như nhóm Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Nét riêng biệt độc đáo ấy,
qua quá trình sống cộng cư với cộng đồng người Việt cũng cho thấy nhiều yếu tố giao
lưu văn hóa, thể hiện xu hướng hội nhập và quá trình Việt hóa đã và đang diễn ra tại
vùng đất Nam bộ Việt Nam nói chung và riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Do
đặc điểm về địa bàn cư trú xen kẽ lẫn Hoa – Việt diễn ra rất sớm, mối quan hệ giao
lưu văn hóa vẫn còn in đậm nét qua các Hội quán.
Chúng ta phải nhìn nhận một thực tế rằng tín ngưỡng tâm linh là chỗ dựa vững chắc
nhất cho những tâm hồn cần nơi nương tựa, họ cần một người che chở qua những
sóng gió của cuộc đời cũng như khi họ phải tha phương cầu thực ở một phương xa
xôi. Và sự trông đợi ấy được đáp lại bởi sự phù hộ của Thiên Hậu Thánh Mẫu và
nhiều vị nhân thần khác. Thiên Hậu Thánh Mẫu có một vị trí và vai trò rất quan trọng
trong lòng nhóm người Hoa Quảng Đông nói riêng và người Hoa ở mọi nơi nói
chung. Bà giống như người mẹ hiền che chở trong suốt cuộc đời của họ, mỗi lúc họ
gặp khó khăn Bà luôn bên cạnh ủng hộ và che chở. Đó chính là lý do nhóm tôi chọn
đề tài “ Miếu Thiên Hậu – Tuệ Thành Hôi quán của người Hoa Quảng Đông ở Thành
phố Hồ Chí Minh” để thực hiện bài tiểu luận của nhóm
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc tìm hiểu về miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán góp phần quan trọng trong
việc tìm hiểu lịch sử văn hóa địa phương nói chung, lịch sử văn hóa cộng đồng của
người Hoa ở thành phố Hồ chí Minh nói riêng. Và giúp ta tìm thấy được những đặc
trưng văn hóa của cộng đồng người Hoa trên vùng đất mới.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Tác giả Trần Hồng Liên trong Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ - tín ngưỡng và tôn
giáo, xuất bản năm 2005 khắc họa sinh động đời sống tinh thần mà cụ thể là tín
ngưỡng và tôn giáo của người Hoa ở Nam Bộ.
Tác giả Phan An trong “Người Hoa ở Nam Bộ” xuất bản năm 2005 tác giả đề cập đến
nhiều vấn đề như kinh tế, văn hóa, xã hội và nguồn nhân lực của người Hoa, các tổ
chức Bang và Hội của người Hoa.
Các nghiên cứu về cơ sở tín ngưỡng
Năm 2000, Ban quản trị Tuệ Thành hội quán do ông Lê Văn Cảnh (chủ biên) đã xuất
bản công trình “Miếu Thiên Hậu – Tuệ Thành Hội quán”. Đây là công trình phân tích
khá sâu về cơ sở tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa Quảng Đông,
bao gồm các vấn đề: lịch sử ngôi miếu, kiến trúc tổng quan, sơ đồ bài trí, các hoạt
động của hội quán và đặc biệt là những giới thiệu về quần thể tiểu tượng gốm trang trí trên các nóc miếu.
Luận văn cao học của Phan Thị Thu Thảo về Văn hóa hội quán của người Hoa tại
thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu về lịch sử phát triển, cấu trúc, chức
năng, thờ cúng, văn bia, kiến trúc… của các hội quán người Hoa tại TPHCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Tuệ Thành hội quán của người Hoa Quảng Đông
tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Tuệ Thành hội quán được tìm hiểu qua tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, đặc
điểm kiến trúc và hoạt động của miếu trong đời sống văn hóa của cộng đồng người Hoa tại TP.HCM. 2 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Về không gian, Tuệ Thành hội quán ở khu vực quận 5, TPHCM
Về thời gian, tìm hiểu tổ chức và hoạt động của miếu Tuệ Thành hội quán của người
Hoa Quảng Đông trong quá trình hình thành và phát triển của nó cho đến thời gian hiện nay tại TP.HCM.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bằng việc tổng hợp tài liệu, điền dã. Bài tiểu luận phần lớn
lấy nhiều từ nguồn tài liệu trên các website, bên cạnh đó cũng thu thập thêm nhiều
nguồn tài liệu học tập của các môn học khác.
6. Bố cục đề tài
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: NÉT ĐẶC TRƯNG HỘI QUÁN TUỆ THÀNH CỦA NGƯỜI QUẢNG ĐÔNG
Chương 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH 3 ) lOMoAR cPSD| 40799667
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Tổng quan về người Hoa Quảng Đông
1.1.1 Quá trình định cư và phân bố dân cư
Người Quảng Đông là những người có xuất thân ở tỉnh Quảng Đông thuộc miền nam
Trung Quốc ngày nay. Ở thành phố Hồ Chí Minh, dân số người Hoa là 414.045 người
(chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), đứng thứ hai sau người Việt, gồm năm
nhóm ngôn ngữ: Hẹ, Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Đông, trong người Hoa
Quảng Đông sống tập trung ở quận 5, quận 6 và quận 11.
Người Hoa Quảng Đông ở Quận 5 đến định cư tại thành phố Hồ Chí Minh vào cuối thế kỉ
XVII. Đây là nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên xin định cư được Chúa Nguyễn
Phúc Tần cho lập nghiệp ở Cù lao Phố và Đông Phố, (Gia Định) và một số địa điểm khác
ở Nam Bộ. Tới năm 1978, khu thương mại này bị quân Tây Sơn đàn áp do đã ủng hộ
Nguyễn Ánh nên họ đã chuyển đến khu vực Chợ Lớn ngày nay sinh sống, lập ra làng
Minh Hương và hình thành nên một phố chợ để tiếp tục hoạt động buôn bán.
Người Hoa Quảng Đông ở Quận 5 cư trú theo hai dạng: một là cư trú xen kẽ với người
Việt, hai là tập trung thành từng khu vực nhỏ, trong phạm vi một số khu phố, tổ dân phố,
thường là những nơi thuận lợi cho công việc làm ăn, buôn bán.1
1.1.2 Vài nét kinh tế - xã hội
Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế nhỏ hộ gia đình theo nguyên tắc cha truyền con nối, tiệm
mẹ đẻ tiệm con, kinh doanh theo chữ tín… Các ngành nghề cổ truyền, những tri thức về
sản xuất, kinh doanh của người Hoa đã mang vào Nam Bộ, Sài Gòn - Chợ Lớn. Những
người thợ thủ công tài hoa khi di cư vào nước ta đã chuyển tải các ngành sản xuất gốm
xứ, gạch ngói, dệt vải, dệt lụa, thuộc da, làm giấy, bút mực và nghề in, lúc đầu họ giữ bí
1 http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-
bo/1167-vu-le-van-hoa-nguoi-hoa-o-tp-ho-chi-minh.html 4 ) lOMoAR cPSD| 40799667
quyết nghề nghiệp, nhưng sau do yêu cầu của sản xuất, họ đã chuyển giao công nghệ.
Đến nay nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở TP. Hồ Chí Minh và vùng Nam Bộ đã trở
thành sản phẩm của sự giao thoa văn hóa Hoa - Việt. Ít người nhập cư có thể mang theo
gia đình. Phần đông họ lập gia đình tại chỗ bằng cách cưới một người vợ Việt Nam, vì sự
đa thê là được chấp nhận ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.2
1.1.3 Văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo
Về văn hóa, người Hoa và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng trong tập quán, tín
ngưỡng, các quy chuẩn khuôn khổ đạo đức, và trong nhân sinh quan xã hội nói chung. Do
đó, người Hoa hòa nhập rất dễ dàng vào xã hội người Việt. Điều này là rất khác nếu so
với các cộng đồng người Hoa ở những đất nước như Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan,
vốn có một nền văn hóa và tư tưởng khác hoàn toàn với văn hóa Trung Hoa.
Tín ngưỡng của người Hoa phong phú, đa dạng và cũng khá gần gũi với văn hóa Việt
Nam. Đặc biệt, các hình thức này được thể hiện rõ nét ở người Hoa Quảng Đông. Người
Hoa tin có linh hồn, con người sau khi chết đi sẽ bị hình phạt hay khen thưởng tuỳ vào
hành động, công đức của mình đang có trong kiếp hiện tại. Vì vậy, người Hoa đã tích cực
thờ phụng nhiều thần linh trú ngụ thuộc nhiều cảnh giới khác nhau để cầu mong được
nhiều sự hỗ trợ. Người Hoa thực hành tín ngưỡng nhưng là một dạng tín ngưỡng có pha
tạp cả những yếu tố của tam giáo đồng nguyên (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo). Có thể
xét các hình thức hội nhập này thông qua tín ngưỡng của người Hoa dưới nhiều góc độ:
trong đời sống cộng đồng và trong gia đình.
Quá trình cộng cư nhiều thế kỷ qua giữa người Việt và người Hoa đã hình thành trong tín
ngưỡng của người Hoa nhiều hình thức giao lưu văn hoá, thể hiện quá trình hội nhập của
cộng đồng người Hoa vào cộng đồng Việt. Có thể thấy những biểu hiện này qua nhiều
hình thức: kiến trúc, trang trí, nghi thức cúng lễ, các thần linh được thờ tự, qua lễ vật
dâng cúng, qua lễ hội… Do điều kiện sinh sống của người Hoa ở vùng đất mới, nên ý
2 http://www.sugia.vn/portfolio/detail/815/hoi-nhap-va-giao-luu-van-hoa-
cua-nguoi-hoa-o-viet-nam-tren-linh-vuc-tin-nguong-ton-giao.html 5 ) lOMoAR cPSD| 40799667
thức cộng đồng luôn luôn được đề cao, được củng cố. Tinh thần cố kết cộng đồng: gia
đình, họ tộc, đồng hương, đồng nghiệp đặc biệt được quan tâm giữ gìn như một giá trị
thiêng. Lòng biết ơn, tinh thần nghĩa hiệp đùm bọc lẫn nhau và ý chí quyết lập nghiệp là
những giá trị được cộng đồng người Hoa hết sức nâng niu, trân trọng. Chính nhờ các giá
trị văn hóa, ý thức cộng đồng đã giúp cho người Hoa tồn tại như một nhóm xã hội đặc
thù, vừa hoà nhập với các cộng đồng khác, vừa giữ được những đặc điểm riêng có tính
ưu trội của mình. Về văn hóa tinh thần, người Hoa đến vùng Nam Bộ và Sài Gòn - Chợ
Lớn mang theo một nền văn hóa đã phát triển phong phú, đa dạng và đặc sắc.
Trước hết là văn hóa tín ngưỡng, tâm linh với việc thờ cúng rất nhiều nhân thần và nhiên
thần, hai hệ thống thần linh đã ăn sâu vào tâm thức của họ. Về nhân thần có những thánh
nhân được tôn thờ và truyền tụng trong đời sống tinh thần của cộng đồng như Quan
Công, Bao Công, Bổn Đầu Công, Bà Thiên Hậu, Quan Âm Bồ Tát… Về nhiên thần cũng
có rất nhiều biểu tượng thiêng liêng được tôn thờ như Ngọc Hoàng - Thượng Đế, Thổ
Công - Táo Quân, Thần Tài, Phật Di Lặc… Các công trình kiến trúc tôn giáo, tâm linh uy
nghi được dựng lên:hội quán Tuệ Thành (Hội quán Tuệ Thành), Chùa Ông (Hội quán
Nghĩa An), Nhị Phủ Miếu (Chùa Ông Bổn), Quỳnh Phủ Hội quán, Hội quán Sùng Chính
và Chùa Quan Âm (Hội quán Ôn Lăng). Cùng với các nghi lễ trong những ngày tết:
Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Thanh Minh, Hàn Thực, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Thượng
Nguyên… làm cho đời sống tâm linh của người Hoa vừa thiêng liêng vừa huyền ảo
nhưng vẫn gắn với đời sống nhân sinh của con người. Có người cho rằng: Thông qua hệ
thống tín ngưỡng, tâm linh và các tục lệ, lễ thức nhân cách và tâm lý người Hoa được
hình thành, góp phần củng cố các quan hệ gia đình, ý thức cộng đồng hướng tới những
ước vọng về một cuộc sống an sinh, bền vững. Văn hóa nghệ thuật của người Hoa cũng
hết sức phong phú với các loại hình dân ca, dân vũ và các loại nhạc cụ đặc sắc. Dân ca có
các làn điệu hát Quảng, hát Tiều, dân vũ có múa lân - sư - rồng và dàn nhạc có nhạc
Xã… làm tăng thêm tính đa dạng văn hóa Nam Bộ và Sài Gòn - Chợ Lớn.
1.2 Khái quát về hội quán Tuệ Thành 6 ) lOMoAR cPSD| 40799667
1.2.1 Quan niệm về nơi thờ tự
Địa điểm thờ phụng hay nơi thờ phụng là công trình, địa điểm hay không gian, nơi một
nhóm người (một giáo đoàn hoặc nhóm tín đồ, giáo dân) đến để thực hiện các hoạt động,
nghi thức tôn giáo (cầu nguyện, tôn kính, ca tụng...) hoặc tín ngưỡng (cúng tế, thờ
phụng...). Các dạng và chức năng của các công trình thờ phụng, cúng tế đã được phát
triển và biến chuyển trong một thời gian dài theo sự thay đổi trong tôn giáo và kiểu kiến
trúc. Nơi thờ phụng của những tôn giáo khác nhau thường có những tên gọi riêng. Thí dụ
chùa là tên dành cho nơi thờ của Phật giáo, đền thường chỉ nơi thờ thần hoặc danh nhân
đã quá cố, phủ là nơi thờ các vị chúa trong Đạo Mẫu, nhà thờ hay thánh đường chỉ nơi
thờ phụng của một số tôn giáo như Kitô giáo.
1.2.2 Các khái niệm “hội quán”, “miếu”, “chùa”
Một số hội quán của người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh như chùa Bà (chỉ hội quán
Tuệ Thành của nhóm người Hoa gốc Quảng Đông), chùa Ông (chỉ hội quán Nghĩa An
của nhóm người Hoa gốc Triều Châu), chùa Ông Bổn (chỉ hội quán Nhị Phủ của nhóm
người Hoa gốc Phúc Kiến), chùa Bà Hải Nam (chỉ hội quán Hải Nam hay Quỳnh Phủ hội
quán của nhóm người Hoa gốc Hải Nam). Nhà nghiên cứu Phan Thị Yến Tuyết đã có
những nhận định rất chính xác: “Trong dân gian có thói quen gọi vắn tắt hội quán của các
cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ là chùa, miễu, bất kể là giao lưu văn hóa gì thì vô hình
trung cũng quy hội quán vào phạm trù cơ sở tôn giáo – tín ngưỡng, dễ dẫn tới cách hiểu
sai lệch về tính chất và chức năng chủ yếu của hội quán…”
Theo Từ điển Hán ngữ hiện đại thì từ miếu được giải thích: (1) nơi cúng tổ tiên và các vị
thần, (2) nơi cúng các vị thần phật hoặc các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử. Nếu chùa là
cơ sở tôn giáo thì miếu lại là cơ sở tín ngưỡng, mang đậm tính dân gian. Vì là cơ sở tín
ngưỡng dân gian mà do đó, trong miếu thường thờ thì đối tượng thờ cúng chính rất đa
dạng, có thể là một vị nhân thần (là một nhân vật lịch sử, một nhân vật truyền thuyết)
hoặc là một người vô danh (Cô, cậu, bà, …) nhưng có tác động đến yếu tố tâm linh của
người dân bản địa nên được phụng thờ. Như vậy, người Hoa xem miếu như là một nơi 7 ) lOMoAR cPSD| 40799667
thờ tự các thần, tổ tiên và các đối tượng khác trong lịch sử đại diện tiêu biểu cho những
giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội. Miếu là một thành phần trong số các cơ sở thờ tự như
chùa, đền, đình của cơ sở tín ngưỡng người Việt. Còn đối với người Hoa, miếu được xem
như là thành tố chính chiếm hơn 50% các cơ sở tín ngưỡng khác trong các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa.
Hội quán được lập nên bởi những thương nhân và là tổ chức đoàn thể chính thức của họ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Hội quán là “Nhà của một đoàn thể để làm nơi hội họp và các
hội viên gặp nhau” hoặc là “Nơi dành cho các hiệp hội theo ngôn ngữ hay theo xuất xứ”.
Nếu chùa và miếu là những cơ sở mang đậm màu sắc tôn giáo, tín ngưỡng thì hội quán lại
mang những sắc thái của một tổ chức xã hội thu nhỏ và chỉ có ở cộng đồng người Hoa.
Một bên là tổ chức tôn giáo, phục vụ nhu cầu tâm linh. Một bên là tổ chức xã hội thu nhỏ.
Về lịch sử những người thuộc nhà Minh vì không chịu khuất phục trước người Mãn
Thanh nên đã di dân khỏi Trung Quốc và tìm ngày “phản Thanh phục Minh”. Ra đi trong
tình hình xã hội rối ren như vậy cho đến khi tìm được một vùng đất mới. Và nhu cầu tập
trung đồng hương lại là một nhu cầu vô cùng bức bách của cộng đồng người Hoa. Do đó,
có thể xem những hội quán của người Hoa ở Việt Nam chính là sản phẩm của một quá
trình lịch sử. Sự ra đời của Hội quán chứng tỏ số lượng cư dân Hoa đã khá đông đảo và
có tiềm lực kinh tế mạnh, bởi Hội quán chỉ hình thành với đầy đủ ý nghĩa khi hội đủ 3
yếu tố: (1) phải có lượng dân định cư người Hoa đáng kể, (2) phải có một số nhân vật
then chốt nhiệt tình đảm nhận công việc tổ chức xây dựng Hội quán, phải dựa trên nền
tảng kinh tế đã khá phát triển của cộng đồng cư dân này. Dưới danh nghĩa Hội quán đóng
vai trò tích cực trong hoạt động chăm lo cho thành viên. Đặc biệt với ba nội dung quan
trọng: giáo dục, y tế và vấn đề hậu sự cho người quá cố.
Trên địa bàn TP.HCM, hội quán thường đặt bên trong các cơ sở tín ngưỡng cộng đồng,
nên lâu ngày hai nơi này tưởng chừng như hợp nhất với nhau làm một. Trong đó, hội
quán thường được gọi chung là “miếu” đây là cách gọi thông thường để chỉ cơ sở tín
ngưỡng cộng đồng người Hoa, hay ngược lại có khi miếu cũng được gọi là hội quán.
Thực ra thì hội quán và miếu tọa lạc gần nhau nhưng các hoạt động của hai cơ sở này gần
như độc lập. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo và xây dựng mới, hội quán dần dần được 8 ) lOMoAR cPSD| 40799667
đưa vào bên trong và trở thành nơi gắn với cơ sở tín ngưỡng. Ban quản trị hội quán đồng
thời cũng là ban quản trị miếu. Chỉ cần một gian nhà nhỏ đặt nơi thuận tiện như trường
học, cơ sở tin ngưỡng cộng đồng… là có thể thực hiện chức năng như một hội quán. Sự
kết hợp giữa hội quán – miếu thỏa mãn nhiều nhu cầu văn hóa khác nhau của di dân người Hoa.
1.2.3 Lịch sử và nguồn gốc và tên gọi
Chùa Bà Thiên Hậu (theo cách gọi của người Việt) còn được gọi là chùa Bà Chợ Lớn, tên
chữ Hán là Thiên Hậu miếu, người Hoa gọi là Phò Miếu (tức miếu Đức Bà). Theo tấm
bia đá treo ở chùa bà Thiên Hậu, Thiên Hậu Thánh Mẫu vốn là người Phước Kiến (Trung
Quốc) trên 1000 năm về trước. Bà rất thông minh, gan dạ, hiền lành và có khả năng đặc
biệt dự đoán được sự thay đổi của khí hậu, biết bệnh, khử tà và bơi lặn, do đó rất được
nười dân trong vùng biển yêu thương, khâm phục. Sau khi bà mất thì bà con đã lập miếu
để thờ bà và bà được người Hoa xem như một vị thần biển. Bà được sinh ra vào đời vua
Tống Kiến Long (tại vị từ năm 960-976). Khi mới chào đời, bà đã tỏa hào quang và
hương thơm ngát. Khi lớn, bà có thể cỡi chiếu ra biển, cỡi mây đi khắp nơi. Đến khi bà
đã qua đời, thỉnh thoảng người đi biển vẫn thấy bà bay lượn trên biển để cứu người bị nạn.
Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển gặp nạn, người ta đều gọi vái đến bà. Năm 1110, nhà
Tống sắc phong cho bà là Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngoài ra, bà còn được người Quảng
Đông gọi là A Phò, có nghĩa là Đức Bà. Đó là lý do vì sao chùa bà Thiên Hậu còn có tên
gọi là Phò Miếu. Do bên cạnh chùa có Tuệ Thành Hội quán là nơi quy tụ của nhóm
người Hoa Quảng Đông, nên chùa còn được gọi Tuệ Thành Hội quán.
Theo tác giả Lê Văn Cảnh (2000) cho biết Tuệ Thành Hội Quán (710 Nguyễn Trãi,
phường 11, quận 5) có lịch sử lâu đời, nổi tiếng của người Hoa tại thành phố, nhất là từ
sau ngày cải cách và mở cửa, đã trở thành một điểm tham quan của du khách trong và
ngoài nước, người thập phương đến dâng hương, cúng lễ rất nhộn nhịp, mỗi ngày ước
chừng đón hàng trăm du khách nước ngoài đến tham quan. Do quá lâu đời và không có 9 ) lOMoAR cPSD| 40799667
tài liệu ghi chép cụ thể nên không thể biết chính xác Hội quán đã xây dựng vào năm nào.
Căn cứ theo tài liệu đã ghi trên bia đá được biết vào năm 1800, Hội quán đã có một đợt
trùng tu lớn, sau đó vào các năm 1825, 1842, 1882, 1890, 1996 cũng đã có những đợt
trùng tu lớn hoặc nhỏ, và nghe những người lớn tuổi kể lại vào đầu triều đại Mãn Thanh
(đầu năm 1760), đã có rất nhiều thương buôn đi tàu sang Việt Nam buôn bán làm ăn, do
đi tàu sóng to gió lớn, nên trên tàu đều thờ Thánh Mẫu để phù hộ. Lúc bấy giờ, tàu bè đi
biển phải trông theo hướng gió, thường thì đi lúc mùa gió Bắc và về lúc mùa gió Nam, do
đó luôn phải ở lại Việt Nam vài ba tháng mỗi năm, nhiều người trong số thương buôn đã
đề nghị hùn tiền xây Miếu để thờ Bà và xây dựng Hội Quán để làm nơi dừng chân của
họ. Sau này vì bên Trung Quốc thời cuộc không ổn định, nên nhiều thương gia đã không
về nước và ở lại Việt Nam an cư lập nghiệp.
Quá trình hình thành, xây dựng đã thể hiện rất rõ nét quá trình lao động và hội nhập vào
xã hội Việt Nam, người Hoa gốc phủ Quảng Châu từ ngày xưa đến vùng đất Sài Gòn
này, đồng thời cũng đã góp sức vào sự hình thành và xây dựng một thành phố 300 tuổi.
Tuy trải qua nhiều năm tháng, nhưng Hội quán Tuệ Thành vẫn giữ được nét đặc trưng cũ,
phong cách kiến trúc cổ xưa độc đáo của người Hoa, nhiều hiện vật, nhiều đường nét
chạm trỗ, điêu khắc rất có giá trị về lịch sử và mỹ thuật, những hiện vật và kiến trúc này
đã thu hút được sự chú ý chiêm ngưỡng của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Sử
dụng tiền hương hỏa để chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và phúc lợi xã hội là nét đẹp
truyền thống của các Hội quán Hoa.
Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán (còn gọi là Chùa Bà và Miếu Má Tổ) nằm ngay trung
tâm Chợ Lớn- khu vực người Hoa của TPHCM, là ngôi miếu khá lâu đời, có giá trị lịch sử
văn hóa và nghệ thuật cao. “Tuệ Thành HỘi Quán” là tên nguyên thủy của chủ thể khối kiến
trúc này. Trong tất cả các bia, liễn và hoành phi trong miếu không hề có một tên nào khác
ngoài tên này của Miếu cho thấy, Thánh Mẫu Thiên Hậu chẳng qua là vị thần chủ yếu đặt
trong Hội quán này thôi. Tên “Tuệ Thành Hội Quán” chỉ rõ đây là nơi tụ họp của những
người đến từ phủ Quảng Châu tỉnh Quảng Đông và đây là tên gọi xa xưa về trụ sở làm việc
của một tổ chức quần chúng đồng hương hay đồng nghiệp. Quá trình 10 ) lOMoAR cPSD| 40799667
xây dựng Tuệ Thành Hội Quán thể hiện rõ tâm huyết, kỳ vọng và ước mơ của tiên hiền
của người Quảng Đông là “an cư, lạc nghiệp, hội nhập đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, cùng xây dựng một thế giới duy tân, văn minh và phồn thịnh, một cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho con cháu đời đời kiếp kiếp.
Vị trí thuận lợi và quan trọng này đã tạo điều kiện cho người dân dễ dàng đến cúng bái,
tổ chức lễ vía bà, diễu hành quanh các khu vực thị tứ. Từ đó ngôi miếu này càng khang
trang hơn, bề thế hơn và cho đến hôm nay, có thể nói là hội quán cổ nhất và đẹp nhất của
người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh.Người Hoa đến cúng vía Bà, đâu chỉ
có ngày vía 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Mọi vui buồn xảy ra trong cuộc sống, người
hoa đều đến nhờ sự hỗ trợ của Bà giúp thêm niềm tin vào cuộc sống, mong gia đình “Ngũ
phúc lâm môn”, mong sản xuất kinh doanh luôn được “Mã đáo thành công”…
Bên cạnh một số ngôi miếu thờ Bà ở nhiều nơi quanh khu vực, miếu bà Thiên Hậu Tuệ
Thành hội quán dường như vẫn được người Hoa Quảng Đông coi như là ngôi miếu chính,
thu hút các du khách thanh niên nam nữ khắp nơi về đây hội tụ để cùng chung nhau làm
việc phước thiện. Ngày vía bà cũng là ngày hội đấu thầu đèn lồng. Trong ánh sáng lung
linh và không khí nô nức của ngày hội ấy, hàng trăm chiếc lồng đèn được người Hoa
thỉnh dâng cúng bà, trước là để tỏ lòng thành kính, sau là có dịp làm phước thiện. Số tiền
hàng trăm triệu đồng hàng năm và lúc cao điểm lên con số bạc tỷ được dùng vào việc
công ích cho cộng đồng. Đến tham dự lễ hội, người Hoa nào cũng thấy như được gần gũi
nhau hơn. Trong cái sân rộng, nhiều tuồng tích cổ xưa lại được nhắc đến, giúp cho lớp trẻ
hiểu được truyền thống của cộng đồng mình và pho tượng Bà lại được mang ra ngự lãm,
dường như để chứng kiến và cổ vũ thêm cho đoàn hát thâu đêm suốt sáng hàng mấy ngày liền.
Gần 300 năm có mặt tại địa bàn cổ xưa, phồn thịnh, Hội Quán Tuệ Thành đã tạo nhiều
điều kiện giúp đỡ, cố kết cộng đồng: bệnh viện, trường học, nghĩa trang… luôn được hội
quán quan tâm, ngày càng làm cho những người Hoa gốc Tuệ Thành an tâm vui sống.
Với lịch sử lâu đời, từng chứng kiến bao biến động của các triều đại. Di tích có giá trị về 11 ) lOMoAR cPSD| 40799667
lịch sử và nghệ thuật ấy đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào ngày 7-1-1993,
càng làm tôn vinh vai trò và vị trí của hội quán Tuệ Thành ở khu vực Sài gòn xưa và nay,
điều này mở ra một trang lịch sử huy hoàng nhất của Hội Quán, trở thành di tích nhà
nước có nghiwx là liệt vòa kho báo của đất nước và dân tộc, là vĩnh tồn, bất hủ, bất khả
xâm phạm. Ban Quản trị và cộng đồng người Hoa sẽ cùng với các cơ quan chức năng
quyết tâm gìn giữ, bảo quản, trùng tu và phát huy tác dụng tốt di tích để cho những
đường nét nghệ thuật truyền thống sẽ còn hiện diện trong lòng các thế hệ trẻ .Ngày nay,
hội quán Tuệ Thành là hội quán cổ đẹp đẽ, một điểm tham quan không thể thiếu của du
khách trong và ngoài nước khi đến viếng trung tâm Sài gòn (xưa) – Chợ Lớn (nay) của thành phố Hồ Chí Minh.
Do quá lâu đời và không có tài liệu ghi chép cụ thể nên không thể biết Hội Quán được
xây từ khi nào và căn cứ theo tài liệu ghi trên bia đá trong Miếu, được biết vào năm 1800
miếu đã có một đượt trùng tu lớn sau đó vào các năm 1825,1842,1882,1890.1996.Công
việc tu sửa, tôn tạo hội quán Tuệ Thành là việc làm cơ bản thường xuyên của các Ban
quản trị Tuệ Thành Hội quán. Năm 1988, hưởng ứng cuộc vận động chỉnh trang đô thị,
Ban quản trị đã phát động các giới thiện tín đóng góp tiền bạc để tôn tạo, tu sửa lại hồ
phóng sinh, trồng thêm hoa để tăng vẻ đẹp.
Năm 1992, Ban quản trị thông qua phương án trùng tu hội quán Tuệ Thành, đồng thời
tiến hành thủ tục xin phép trùng tu. Năm 1995 khởi công, nâng thêm một tầng lầu ở hai
bên nhà phụ để tăng diện tích sử dụng và dùng vật liệu mới gia cố hai bên điện thờ để
tăng độ bền vững trăm năm, công trình này đã hoàn thành vào cuối năm 1997 với tổng
chi phí hơn hai tỷ tám trăm chín mươi ba triệu đồng. Năm 1997, chấp hành chủ trương
phóng đường, một lần nữa Ban quản trị phải tu sửa hồ phóng sinh theo hướng thu hẹp lại.
Khi hội quán Tuệ Thành được công nhận là khu Di tích lịch sử văn hóa, việc sửa chữa
phải làm đúng theo Pháp lệnh về bảo vệ Di tích. Do vậy, công trình tu sửa Khu chánh
điện đã được giao cho Công ty Tu bổ Di tích Trung ương tiến hành khảo sát, thiết kế. Sau
khi được Bộ Văn Hóa Thông Tin phê duyệt đề án thiết kế và Văn phòng Kiến trúc sư 12 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Trưởng TP cho phép tu sửa, ngày 20/11/1998, Ban quản trị đã tổ chức lễ khởi công, công
trình này giao cho Công ty Tu bổ di tích Trung ương thi công dự kiến sẽ hoàn thành vào
năm 2000 với tổng kinh phí dự trù là một tỷ tám trăm triệu đồng, được chi trả từ trong
quỹ của Hội quán Tuệ Thành (Lê Văn Cảnh, 2000, tr.88). 13 ) lOMoAR cPSD| 40799667
CHƯƠNG 2: NÉT ĐẶC TRƯNG Ở HỘI QUÁN TUỆ THÀNH
CỦA NGƯỜI HOA QUẢNG ĐÔNG
2.1 Nguồn gốc, quá trình phát triển và truyền bá đến Việt Nam của tín ngưỡng Thiên Hậu
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Thơ (2011) tín ngưỡng Ma Tổ - Thiên Hậu (Mazu – Tianhou)
hình thành tại đảo Mi Châu, Phổ Điền, Phúc Kiến (Meizhou, Putian, Fujian) vào thời
Tống ở Trung Quốc. Bà tên thật là Lâm Mặc ( 林默 Lin Mo) thường được gọi là Lâm
Mặc Nương (林默娘 Lin Moniang), sinh ngày 23 tháng 3 năm 960, là một nữ shaman nổi
tiếng. Bà vốn là người Đản Dân (Tangka, còn gọi là Long nhân (龙人 người Rồng), Giao
nhân (鲛人) – một nhánh hậu duệ người Mân Việt (闽越 Minyue) cổ chuyên sống bằng
nghề cá và trao đổi hàng hóa trên sông, biển. Các sách địa phương có ghi chép bà Lâm
Mặc rất thông minh, tháo vát, giúp dân vượt hoạn nạn và dạy dân cách sống văn minh,
thoát bệnh tật. Một ngày nọ bà ngủ trưa, thấy cha và anh trai gặp bão biển, bà dùng năng
lực đặc biệt cứu được anh trai. Trong khi đang cố gắng cứu cha thì bà bị mẹ lay dậy nên
không cứu được cha. Về sau bà thường dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp
dân, bao gồm dạy dân dùng rau rong biển cứu đói, cầu mưa, treo chiếu làm buồm, hàng
phục hai thần Thuận Phong Nhĩ và Lí Thiên Nhãn, giải trừ thủy tai – quái phong, thu
phục nhị quái, chữa bệnh cứu dân, nhận bùa dưới giếng, thăng thiên ở đảo Mi Châu v.v..
Bà qua đời ngày 9 tháng 9 năm 987 ở tuổi 28. Người đời tin rằng bà là con gái Ngọc
Hoàng, ban đầu dân ở đảo Mi Châu dựng miếu thờ bà, gọi là miếu Ma Tổ. Tương truyền
bà thường hiển linh cứu giúp người đi biển nên dân gian ví bà là vị hải thần.Đến năm
1086, nhà Nam Tống chính thức cổ xúy cho tín ngưỡng này, nhờ vậy phạm vi ảnh hưởng
càng ngày càng mở rộng. Đến thời Nguyên, Ma Tổ được phong làm Thiên phi ( 天妃,
năm 1354), từ đó tín ngưỡng Ma Tổ phát triển lên vùng hạ lưu Dương Tử, bán đảo Sơn
Đông. Từ thời Minh trở về sau do nhu cầu giao thương hàng hải với khu vực Đông Nam
Á, tín ngưỡng này truyền bá xuống Lĩnh Nam, Đài Loan và Đông Nam Á. Đời Thanh 14 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Khang Hy 1682 , bà được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu. Tên gọi đặc khu hành chính
Macau được cho là bắt nguồn từ danh từ “Ma Các” (妈阁 = miếu Ma Tổ). Cuốn Ma Tổ
Cung Tập Thành (妈祖宫集成) ghi chép tại Trung Quốc có hơn 450 huyện, thị, thành
phố cóhội quán Tuệ Thành. Người Mân Nam (nam Phúc Kiến) và Hải Nam thích gọi bà
là Đại Mẫu hoặc Ma Tổ (妈祖Mazu), người Quảng Đông gọi là Đức Bà hay Thiên Hậu.
Tục thờ Thiên Hậu cơ bản vẫn là tín ngưỡng dân gian, mang đầy đủ các đặc trưng truyền
thống của dòng văn hóa dân gian phương Nam gần gũi, giản dị. Ở một phương diện nào
đó, người Nam Trung Hoa dùng tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với các tín ngưỡng thờ Mẫu
khác) làm đối trọng với kiểu văn hóa quan phương “nam tôn nữ ti” phương Bắc. Điều đó
có nghĩa là, tín ngưỡng Thiên Hậu thấm đẫm các đặc trưng văn hóa phương Nam, đặc
biệt và văn hóa Mân Nam – nơi sản sinh ra nó.
Người Trung Quốc và Đài Loan thờ Thiên Hậu, coi bà là thủy-hải thần, là nữ thần hộ
mệnh; nữ thần sinh sôi, nữ thần khai sơn v.v., thi thoảng đồng nhất với Quan âm trong
Phật giáo, Tây vương Thánh mẫu trong Đạo giáo, với Lâm Thủy phu nhân, Kim Hoa phu
nhân trong tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Hoa Nam. Tín ngưỡng Thiên Hậu du nhập vào Nam
Bộ Việt Nam theo dòng di dân người Hoa vào thời Minh – Thanh, đặc biệt là cuối Minh
– đầu Thanh. Đợt 1 vào khoảng thập niên 1660, có khoảng 7000 người Hoa Nam do
Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (người Quảng Đông) dẫn đầu vào định cư tại
Đồng Nai, Đề Ngạn (Chợ Lớn) và Mỹ Tho. Đợt thứ 2 do Mạc Cửu dẫn đầu khai phá đất
Hà Tiên, sau phát triển dần xuống bán đảo Cà Mau. Từ cuối thể kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ
20, nhiều dòng di dân người Hoa người tiếp tục đến vùng Nam Bộ, đặc biệt vào cuối thế
kỷ 19, Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, các hiệp ước Pháp – Thanh năm 1885 và 1886
đã mở ra nhiều cơ hội để người Hoa di dân đến Việt Nam. Từ đó trở đi, đồng bào người
Hoa đã chung sống chan hòa cùng các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer và Chăm,
cùng tạo dựng văn hóa Nam Bộ. Hiện tại toàn Nam Bộ có khoảng 800.000 người dân tộc
Hoa (2009), phân thành 5 nhóm hệ dân Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam
và Khách Gia (còn gọi là Hẹ). Người Quảng Đông tập trung chủ yếu ở Tp. Hồ Chí Minh,
Đông Nam Bộ và một số thành phố, thị xã lớn ở Tây Nam Bộ; người Triều Châu cư trú 15 ) lOMoAR cPSD| 40799667
nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau (Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau); người Phúc Kiến và người
Hải Nam sinh sống rải rác khắp vùng miền; người Khách Gia định cư rải rác ở Biên Hòa
và khu vực hai bên sông Tiền, sông Hậu, nhiều nhất là Long Xuyên. Ban đầu cả 5 hệ dân
cùng phối hợp nhau dựng các Thất phủ cổ miếu (Cù lao Phố, Tp. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho,
Vĩnh Long v.v.) chủ yếu thờ Thiên Hậu, Quan Công, nhưng sau từng nhóm tách riêng tự
xây cất các miếu cho riêng mình.
Trên đường đi biển, họ thường cầu nguyện Bà hiển linh hỗ trợ. Khi định cư được bình an
tại vùng Nam Bộ, di dân lập miếu trang trọng thờ Bà, ngưỡng vọng và thờ tự Bà với tấm
lòng biết ơn đã giúp đỡ họ đượcthuận buồm xuôi gió. Theo dòng di dân đến khắp nơi ở
Nam Bộ,hội quán Tuệ Thành cũng được dựng lên. Về sau, người Hoa còn thờ Bà thêm
chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh .
Chính vì thế rải rác ở các thị tứ, thị trấn, thành phố tại vùng đất Nam Bộ đều cóhội quán
Tuệ Thành với nhiều tên gọi Chùa Bà, Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hayhội quán
Tuệ Thành. Vùng Bạc Liêu, Cà Mau còn gọi Thiên Hậu là Mã Châu ( 妈祖 Mazu), do
vậyhội quán Tuệ Thành còn gọi là Chùa Bà Mã Châu (妈祖婆). Vùng Sóc Trăng cũng
gọi là Ma Tổ, phong cách tác tượng thờ mang nét ảnh hưởng từ Macau và Đài Loan, Ma
Tổ gương mặt đen với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai.3 2.2
Đặc điểm kiến trúc
2.2.1 Khu tiền điện
Hội quán được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 7-1-1993. Nóc
được trang trí hoa văn hình hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và
Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908). Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim
thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Hội
quán còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".Chùa Bà Thiên
Hậu có lối kiến trúc tam quan cách điệu với cửa vào ở chính giữa và hai hành lang, tạo sự
3 http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-
truong-xa-hoi/2322-nguyen-ngoc-tho-tin-nguong-thien-hau-tai-nam-bo-viet-nam.html 16 ) lOMoAR cPSD| 40799667
thông thoáng để mọi người dễ dàng di chuyển trong những ngày đông người đến viếng.
Đây là tổ hợp bốn ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ “khẩu” hoặc
chữ “quốc”. Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và đại điện.
Trước khi bước vào Tiền điện thì ấn tượng tượng nhất là cổng chính của Miếu đơn giản
nhưng trang nghiêm, trên là tranh tường “Trúc lâm thất hiền”, giữa là phù điêu “thuyền
Bát Nhã”, dưới là Củng Môn, trên có dòng chữ “Khổng Tử giáng sinh năm thứ 2460 Kỷ
Dậu Trùng Kiến (1909), hai góc sân có cặp sư tử đá
Tiền điện là hai trang thờ hai bên cổng vào: Phúc Đức Chánh thần nằm bên phải và Môn
Quan Vương Tả nằm bên trái. Hai bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và
các bức tranh lớn vẽ cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước. Chùa đã được công nhận là
Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1993 của Bộ Văn Hóa. Bên trái là
dựng một số bia ký ghi các lần trùng tu vào năm 1859, 1970,1990,2005… Bên phải là
hiện vật “Lệnh của Tư lệnh liên quân pháp – Y pha Nho: cấm binh sĩ phá hoại Hội quán” năm 1860.
Hồ phóng sinh có thể cùng xây trong năm 1980 khi trùng tu Hội Quán, năm 1995 Thành
phố chỉnh trang lại, yêu cầu mở rộng đường Nguyễn Trãi nơi hội quán tọa lạc , do đó hồ
phóng sinh phải lùi vào 7m. Trên tường có trang trí cụm phù điêu “Cửu Long Bích”
tượng nổi ở giữ (1908) và hầu hết các trang trí khác đều là mới xây sau này.
2.2.2 Khu Thiên đỉnh (Giếng trời)
Khu vực giữa các tòa nhà là Thiên tỉnh (giếng trời) tạo không gian thoáng đãng, đón nhận
ánh sáng tự nhiên. Theo hướng tay phải chúng ta có thể thấy trên nóc, diềm mái, hiên, vách
tường có nhóm tượng gốm có niên đại năm Quang tự thứ 34 – Mậu Thân (1908) do nghệ
nhân Trung Quốc dùng vật liệu tại chỗ và sản xuất từ lò gốm Bửu Nguyên trên đất Sài Gòn
xưa. Các tượng, phù điêu này được tạo tác dựa theo các điển tích cổ Trung Quốc như Tam
Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc… và được bố trí hài hòa với các hình tượng khác như “tứ
linh” (long, lân, quy, phụng), “lưỡng long tranh châu”, “bái tổ vinh quy”… 17 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Các bia ký về lập xe chữa cháy năm Quang Tự thứ 24 – Mậu Tuất (1898), về việc trùng
tu Hội quán năm Đạo Quang thứ 10 – Canh Dần (1830); về việc mua đất khắc ghi niên
đại Việt Nam từ năm thứ 9 đến 13 thời vua Tự Đức. 2.2.3 Khu trung điện
Bước vào khu trung điện ta có thể thấy tấm biển gỗ to ghi 4 chữ Hàm Hoằng Quang Đại
bằng chữ cổ có niên đại thứ 5 Gia Khánh, đời Thanh (1800) nhân dịp trùng tu Hội quán.
Đây là hiện vật cổ xưa nhất cũng là căn cứ để tính toán về lịch sử của Hội quán. Miếu có
lịch sử 256 năm là dựa theo hiện vật trên cộng với khoảng cách thời gian trung bình của
những lần trùng tu ghi trên bia ký” (từ 1800 tính lùi 40 năm thành 1760). Cơ ngơi mà
hiện giờ chúng ta có thể thấy là lần trùng tu gần đây nhất được khởi công từ năm 1995 và
hoàn thành vào năm 2003. Phía dưới là bộ ngũ sự làm bằng hợp kim chì có niên đại
Quang Tự thứ 12 – (1886) được đúc tại trấn Phật Sơn, Quảng Châu tỉnh Quảng Đông. Và
đây còn được xem là bộ Ngũ sự lớn nhất Đông Nam Á.
2.2.4 Khu vực Hương đình (Nhà thắp nhang)
Nơi đây có đặt 5 lư hương có niên đại đời vua Quang Tự: từ Bính Tý (1876) đến Đinh
Dậu (1897) đều trên 100 năm. Bên trên là khu vực treo nhang vòng khá độc đáo và lạ
mắt. Trước đây nhang có đường kính từ 1m – 1m2, sau khi thực hiện chỉ thị của Trung
ương và được bà con nhiệt liệt hưởng ứng nay các khoanh nhang này được thu nhỏ lại chỉ
còn 35 cm. Trong đợt trùng tu gần nhất, những cây xà gồ dưới mái ngói và 4 cây cột gỗ
bên ngoài là gỗ lim, loại gỗ quý hiếm sản xuất tại phía Bắc trong đợt trùng tu vừa qua gần
như đã thay đổi toàn bộ xà gồ bằng gỗ lim. 2.2.5 Khu đại điện
Về gian thờ giữa thờ Thiên Hậu Nương Nương là vị thần thờ chính trong miếu, có 3 pho
tượng bằng gỗ thờ qua các thời kỳ trùng tu mở rộng miếu. Gian thờ bên phải thờ Long Mẫu
Nương Nương. Gian thờ bên trái thờ Kim Hoa Nương Nương. Ngày hội lớn của Hội quán là
ngày vía Bà (ngày 23 tháng 3 âm lịch) và đêm giao thừa (Tết cổ truyền), bà con 18 ) lOMoAR cPSD| 40799667
về đây rất đông vui. Ngoài việc cúng bái, mọi người đều vui vẻ và tự nguyện đóng góp
tiền hương dầu, cùng nhau gây quỹ làm việc thiện. Trong khu tiền điện còn được trưng
bày Đại Hồng chung ghi niên đại năm thứ 60 vua Càn long, đời Thanh (1795). Hai bên
đại điện còn được thờ thêm hai vị Quan Công (thờ bên phải), Thần Tài (thờ bên trái).
Bên trong đại điện có 2 đại đồng chung phía trên chung có ghi dòng chữ “Phong điều vũ
thuận”, “Quốc thái dân an”, “ Càn Long lục thập niên tuế thứ Ất Dậu quý xuân cát đán”
(1795), “Chúng thương của Tuệ Thành Hội Quán đồng kiến”. 2.3
Quần thể tiểu tượng trên nóc Hội quán
Chính diện của Miếu Thiên Hậu Tuệ Thành Hội Quán có 5 tòa nhà, trên nóc 3 tòa nhà: số
1 (mặt trước và mặt sau), số 3 (mặt trước và mặt sau), số 5 (mặt trước và mặt sau) có
trang trí 6 quần thể biểu tượng (16mx2mx0.4m) nóc và 4 quần thể tiểu tượng mái đầymàu
sắc dân tộc, rất rực rỡ và sinh động, có niên đại 1908 khi trùng tu lớn Hội Quán. Trải qua
biết bao thử thách nắng mưa, gió, bão mà ngày nay vẫn còn, đủ thấy người Hoa đã dùng
những vật liệu thiết bị kỹ nghệ tối tân nhất thời ấy.
Qua quá trình tạo dựng địa chất khá phức tạp diễn ra hàng triệu năm, Thành phố Hồ Chí
Minh với diện tích 226.000 ha, trong đó có khoảng 500 ha trữ lượng các loại đất sét và
cao lanh, đây chính là nguồn tài nguyên quý giá, là nguyên liệu chính làm ra các sản
phẩm gốm. Tập trung ở khu vực: Chợ Lớn, Củ Chi, Thủ Đức, quận 9, các loại đất sét làm
gốm ở đây có nhiều ưu điểm và khai thác dễ dàng. Đồng thời, nằm trong khu vực có khí
hậu nhiệt đới ẩm ướt, là yếu tố quan trọng trong việc phát triển rừng, cung cấp nhiên liệu
cho các lò gốm hoạt động. Với hệ thống song ngòi chằng chịt tổng cộng trên 9.120 km,
giao thông vận tải ở Sài Gòn – Gia Định thật sự rất thuận tiện cho việc phát triển nghề gốm.
Nét nổi bật của gốm người Hoa gốc Quảng Đông là cách sử dụng nước men có nhiều
màu sắc trên sản phẩm, cụ thể các màu như: lam, xanh lục, vàng, đen, nâu và trắng. Màu
lam và xanh lục là hai màu chủ yếu và có độ sáng bóng. Màu xanh lam là màu xanh 19 ) lOMoAR cPSD| 40799667
coban; màu xanh lục là hỗn hợp bột đồng thau và bột phenspat (feldspath); màu vàng
được chế tạo từ thổ hoàng (ocre jaune); màu đen từ oxyt chì và màu đỏ từ hépatit. Hoa
văn trên các sản phẩm gốm của người Hoa Quảng Đông thường cách điệu, đẹp, trang nhã
và loại hình sản phẩm cũng rất đa dạng. Bên cạnh đồ gia dụng, các loại chậu hoa, voi,
đôn với loại to thường dùng để ngồi, loại nhỏ thường dùng để trang trí nội thất… đặc biệt
họ còn chuyên sản xuất các loại tượng, quần thể tiểu tượng trang trí. Đó là các tượng Ông
Nhật, Bà Nguyệt, Phúc – Lộc – Thọ, Long – Ly – Quy – Phụng, cá hóa long, Lưỡng long
tranh châu…, các quần thể tiểu tượng trag trí ở các hội quán của người Hoa Quảng Đông
với kiểu dáng rất đa dạng chứng tỏ sự vượt trội thiên về trang trí, mỹ thuật của các lò
Quảng. Sản phẩm của gốm người Hoa Quảng Đông còn được xác định qua di tích khảo
cổ học ở khu vực lò gốm cổ Hưng Lợi. Sản phẩm gốm chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại
sành không men hoặc có men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ
yếu là siêu, ơ (nồi có tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy
siêu, nắp hay đáy hộp có in nổi ba chữ Hán trong khung hình bầu dục “Hưng Lợi diêu”
(lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn có các kiểu khạp, hủ, chậu, vịm, chậu bông. Đặc biệt trong
lò xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) có kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men
nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng
của gốm cổ Sài Gòn. Các loại sản phẩm gia dụng trên tuy đơn giản về kiểu dáng nhưng
có nhiều kích thước, theo thời gian sớm muộn mà có những khác biệt ở một vài chi tiết.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các lò gốm người Hoa Quảng Đông dần chuyển về Biên
Hòa, Lái Thiêu… là những nơi có trữ lượng đất nguyên liệu dồi dào hơn, rồi từ đó hình
thành nên các dòng sản phẩm gốm mới. Có thể nói những thành tựu của gốm Biên Hòa từ
sau 1925 là kết quả tổng hợp của việc kế thừa truyền thống của các lò gốm của người Hoa
gốc Quảng Đông ở Sài Gòn – Gia Định và việc tiếp thu những thành tựu của gốm Limoge do
bà Balik giảng dạy và thể nghiệm ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Kết quả của sự giao lưu này
đã sản sinh ra gốm sành xốp men màu Biên Hòa “với vẻ đẹp đặc trưng trầm mặc và cổ kính
đã một thời nổi tiếng trên thế giới". Sau 1975, nhiều loại gốm của người Hoa Quảng Đông
phục vụ cho “công nghệ miếu vũ” và các quần thể tiểu tượng 20 ) lOMoAR cPSD| 40799667
trang trí trên mái, nóc các công trình tín ngưỡng hầu như không còn, có chăng chỉ vài sản
phẩm đơn lẻ của người đặt hàng.
Chính diện của Tuệ Thành Hội Quán có 5 tòa nhà, trên nóc 3 tòa nhà: số 1 (mặt trước và
mặt sau), số 3 (mặt trước và mặt sau), số 5 (mặt trước và sau) có trang trí 6 quần thể tiểu
tượng (16m x 2m x 0,4m) nóc và 4 quần thể tiểu tượng mái đầy màu sắc dân tộc, rất rực
rỡ và sinh động, có niên đại năm 1908 khi trùng tu lớn Hội quán. Trải qua biết bao thử
thách nắng mưa gió bão mà nay vẫn còn, đủ thấy tiền nhân đã dùng những vật liệu thiết
bị kỹ nghệ tối tân nhất thời ấy.
2.3.1 Họa tiết gốm nóc số 1
Giống nhau ở cả hai mặt trước sau, họa tiết gốm trang trí ở tầng trên của nóc số 1 là đồ án
“lưỡng long tranh châu”, cụ thể: trên đỉnh trung tâm là một chiếc đài, bên trong bổ ô hình
khánh chạm nổi một con nai trong tư thế nằm, đầu ngẩng lên quay ngoắt về phía sau,
cạnh cây tùng, hai bên là dãy trang trí lá hóa dơi, bên trên là tượng dơi ngậm chữ Thọ,
một vòng trang trí dây hoa lá tạo thành hình ngọn lửa bao quanh viên ngọc lớn màu nâu.
Hai bên đối xứng với nhau là hình lưỡng long men xanh đồng nằm trải dài uốn lượn trong
mây, cũng hướng lên chầu viên ngọc. Kế tiếp, ở hai đầu của dãy trang trí là cặp tượng “Cá hóa long”.
Trang trí tầng dưới mặt trước: hình thầy trò đường tăng, ba tiêu động, thiết phiến cung
Trang trí tầng dưới mặt sau: trung tâm là quần thể tiểu tượng miêu tả cảnh sinh hoạt của
một đại gia đình giàu có, bề thế, trên vòm cửa ở phần cuối của phân cảnh này có chữ
“Đông Viên”: vườn phía Đông và tuốt trên phần đầu phân cảnh, trên vòm cửa có chữ
“Tây tương”: nhà phía Tây. Quần thể tiểu tượng bên phải diễn tả cảnh hai võ tướng cùng
quân sĩ, vị tướng trẻ, trên cờ có chữ “Vũ An Quân – Bạch” và phía trên: vị tướng già râu
bạc, trên cờ có chữ “ Vũ Lăng Quân – Liêm”, trên khung viền trang trí bên dưới có hàng
chữ: ‘Trinh tường”. Kế là ô trang trí dây hoa lá, trên có chữ Thọ, bên trong chạm nổi chữ
“Bửu Nguyên diêu tạo”. Phía trái, bên cạnh ô trang trí tương tự như trên, bên trong có 21 ) lOMoAR cPSD| 40799667
chữ “Mậu Thân niên lập”. Phân cảnh quần thể tiểu tượng kế bên miêu tả cảnh hai võ
tướng để râu dài năm chòm cùng quân sĩ, trên vách núi phía sau có chữ “Nhân thủ dụ” và
“Diệt Ngạn sơn”, đối diện, bên vị tướng trẻ có chữ “Cửu Gia than”. Hai đầu phải và trái
của nóc tượng “Thổi tiêu dẫn phụng” (Nguyễn Thị Thu Trúc, 2007, tr.54)
2.3.2 Họa tiết gốm nóc số 3
Chi tiết góc trái và góc phải của họa tiết nóc 3 là hình “ Hòa hợp nhị tiên”
Trang trí tầng dưới mặt trước: cảnh các quan văn võ được phân thành từng nhóm nhỏ,
nhóm ôn tồn trò chuyện, nhóm hoa chân múa ty, nhóm mặt mũi tươi cười nhưng khoát
tay không nhận khi người dưới dâng kim ngân, nhóm thì mỹ nhân yểu điệu, xiêm áo
thướt tha bên cạnh võ tướng, trên lầu: công tử, văn nhân,tiểu đồng, ngọc nữ, người ngắm,
kẻ nhìn, lại có người đang thổi sáo. Tiếp theo về bên trái là ô trang trí bình hoa, đỉnh
trầm, khung viền bổ ô hình tròn và hình khánh chạm nổi hoa trên nền dây hoa lá, bên trên
hoa văn chạm nổi hình cuốn thư trong có chữ “Lân thố ngọc thư”. Bên cạnh là quần thể
tiểu tượng miêu tả cảnh một vị tướng mặc giáp phục trên lưng ngựa ô, phía sau: lính cầm
cờ có chữ “Yên”, đối diện: một vị tướng cưỡi trên lưng bạch mã đang lao từ trên cao
xuống, bên dưới có một vị quan quỳ gối ra chiều hoảng hốt. Sau lưng cảnh cây cối, núi
non hiểm trở. Kế tiếp là ô trang trí chạm nổi chữ “Đồng Hòa diêu tạo” trên nền trổ thủng
hoa văn hình tổ ong, khung viền trang trí hoa mẫu đơn, đối xứng hai bên hoa chạm nổi
công, chim, dê, nai, hạc xen kẽ hoa lá. Trên đỉnh trang trí một con bướm lớn. Bên phải
quần thể trang trí trung tâm là ô trang trí bình hoa bên cạnh đĩa đựng các loại trái cây
gồm phật thủ, đào, lựu trên kệ hoa văn chữ Hồi, khung viền bổ ô chạm nổi hoa trên nền
hoa văn dây lá, bên trên trang trí cuốn thư có chữ “Lân thố ngọc thư”. Hai đầu phải và
trái của nóc là tượng “Hòa Hợp nhị tiên” gồm một vị mặc trường bào nhiều lớp, lớp trong
màu trắng, lớp ngoài màu xanh đồng, vạt trên áo đắp chéo bên ngực phải, lưng thắt dây
lụa tết nhuyễn, quần ống nhỏ màu xanh lam, đang ngồi, hai tay ôm chiếc hộp. Kế bên,
một vị mặc trường bào hai lớp, trong màu trắng, ngoài màu xanh lam, lưng thắt dây lụa
tết nhuyễn có đầu dây màu trắng, quần ống rộng màu trắng, trong tư thế đứng, tay trái 22 ) lOMoAR cPSD| 40799667
cầm bông lúa giơ cao, tay phải ôm đồng tiền vàng, chân trái gác trên mình một con cóc
lớn ba chân, xung quanh trên cao là mặt trời và mây ngũ sắc.
Trang trí tầng dưới mặt sau: quần thể tiểu tượng trung tâm diễn tả các quan văn, quan võ
và các phu nhân (thường đứng bên trong lan can) trong các tư thế: người dợm chân, hùng
hổ bước đi, kẻ ngăn lại ra chiều dặn dò, người ung dung vuốt râu, kẻ khoan thai một tay
nâng đỡ vành đai, người lắng nghe, kẻ chỉ trỏ như báo hiệu điều gì… trên cờ do người
lính cầm ở cuối phân cảnh có chữ “Đại nguyên soái – họ Lưu”, ở đầu phân cảnh có chữ
“Đông Bình”. Bên phải quần thể tiểu tượng là ô trang trí bình hoa mẫu đơn, men trắng,
bên cạnh dĩa ba chân đựng phật thủ, khung viền bổ ô chạm nổi hoa trên nền hoa văn dây
hoa lá, trên có cuốn thư trong chạm nổi chữ “Lân thố ngọc thư”. Kế bên là quần thể tiểu
tượng diễn tả cảnh đang giao chiến giữa hai vị tướng, một vị trên cờ có chữ “Định Quốc
Công – Hàn” ngồi trên ngựa ô, phía dưới có một quân sĩ tay cầm tấm khiên hình tròn.
Phía trước, một vị có tên “Hoàng Hoa Sơn – Khương” cưỡi trên lưng bạch mã, bạch mã
như trong tư thế sẵn sàng phóng đi. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm vẫn là ô trang
trí có chữ “Lân thố ngọc thư” nhưng bên trong trang trí bình hoa và đỉnh trầm men tím.
Bên cạnh là quần thể tiểu tượng diễn tả một vị tướng cưỡi bạch mã chạy, lính cầm cờ
phía trước có chữ “Tây Lương – Mã”, phía sau một vị tướng cưỡi xích thố chạy theo, lính
cầm cờ phía sau có chữ “Yên Nhân – Trương”, phía sau cảnh rừng núi hiểm trở. Ô trang
trí kế tiếp có chữ “Quang Tự Mậu Thân” trên nền hoa văn trổ thủng hình tổ ong, khung
bên ngoài trang trí mẫu đơn, bướm, chim, bốn góc là bốn vật trong bát bửu:bầu rượu,
quạt vả, cặp sênh, gỗ đào. Trên chạm nổi hình một con bướm. Hai đầu phải và trái của
nóc là tượng “Hòa hợp nhị tiên”.
2.3.3 Họa tiết gốm nóc số 5
Tạo hình con giống của làng gốm sứ nổi tiếng nhất Hoa Nam ở huyện Thạch Văn tỉnh
Quảng Đông Trung Quốc theo cốt truyện cổ điển trong “Tam Quốc”, “Tây Du Ký”,
“Thủy Hử”, “Hồng Lâu Mộng” với các điển cố thầy trò đượng tăng. Gốm nóc phía trái:
bên phải là hình biểu tượng “Tam Hiệp Sĩ” có dòng chữ “Thiên Cung Tứ Phúc”, “Tử Khí 23 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Đông Khởi”, “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Đề Ngạn Lò Gốm giai”, ở giữa là phù điêu điển
cố “Thôi Tiêu Dẫn Phượng”, và dòng chữ “Khổng Tử đản sinh 2459 chu niên, Trần Hoa Sinh vẽ”.
Trang trí tầng dưới mặt trước: chính diện quần thể tiểu tượng trung tâm, ngồi giữa là một
vị vương, xung quanh quần thần và bá quan văn võ hai bên, trên vòm cửa cung điện trang
trí một con đại bàng sải rộng cánh, hai bên là hai con sư tử, phía trên lầu ở cột bên trái
của cung điện có chữ “Đế tử tụng thi thư”, đối xứng cột phải có hàng chữ “Cung nga điệu
nhã nhạc”. Trên một vòm cửa bên phải có hai chữ “Long bàn” trên một vòm cửa bên trái
có hai chữ “Hổ cứ”. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm là ô trang trí dơi ngậm chữ
Thọ, bên dưới có tượng nai và dơi ngậm vòng đầu hướng về nhau, giữa có hai đồng tiền
vàng. Khung viển trang trí hoa dây lá, dơi ngậm vòng, phía trên đỉnh có tượng “lưỡng
long tranh châu”. Ô kế tiếp diễn tả một vị vương râu bạc trắng mặc trường bào màu vàng
ngồi trên mình bạch mã, tay cầm quạt giơ cao trên đầu, động tác như khích lệ, bên cạnh
là vị tướng mặc võ phục hướng nhìn về một người áo chỉ khoác một bên vai, dáng như
đang thuần một con thú, xung quanh có lính, cận thần và người chăn dê bên hai con dê
chạy túa ra sau ngoái cổ nhìn. Ô kế tiếp, đối xứng nhau chạm nổi một cành mẫu đơn, trên
có chim phượng uốn mình trong thế rất đẹp mắt, phía dưới có dơi cánh giang rộng. Bên
trong bổ ô hình chữ nhật có chữ “Bửu nguyên diêu tạo”. Bên dưới có hoa văn hình chữ
Thọ, trên đỉnh hình bướm sải rộng cánh màu nâu. Bên phải quần thể tiểu tượng trung
tâm, ô trang trí tương tự như bên trái: dơi ngậm chữ Thọ, bên dưới có tượng nai và dơi
ngậm vòng đầu hướng về nhau, giữa có hai đồng tiền vàng. Khung viền trang trí hoa lá
dây, dơi ngậm vòng, phía trên đỉnh có tượng “lưỡng long tranh châu”. Tuy nhiên, ô trang
trí bên phải, vị trí của nai và dơi đổi chỗ cho nhau. Khung quần thể kế tiếp diễn tả cảnh
Tào Tháo đầu đội mão đen, áo trường bào màu xanh đồng có đai đang cưỡi trên lưng
bạch mã phóng nước đại, bên cạnh có lính cầm lọng, các quân sĩ theo sau vừa chạy vừa
ngoái lại nhìn. Phía sau Trương Phi râu hàm én, áo phanh ngực bụng chạy theo lên cầu,
tướng sĩ và con bạch mã theo sau. 24 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Xung quanh cây cối um tùm, dưới cầu có chữ “Trường bản kiều”. Kế tiếp là khung trang
trí hoa lá dây bên trong có chữ “Mậu Thân niên lập”. Bên phải và trái dãy trang trí có
tượng một vị thần đầu đội mão, bên trong mặc trường bào tay ôm màu trắng, bên ngoài
mặc áo khoác màu tím, dưới vạt có viền nẹp vàng, tua tím cưỡi trên lưng long mã, tượng
bên phải tay cầm bình hoa men trắng có chữ “Hoa khai phú quý”, tượng bên trái tay cầm
bình hoa có chữ “Trúc báo bình an”.
Trang trí tầng dưới mặt sau: quần thể trung tâm diễn tả cảnh sáu nước tụ họp, với các võ
tướng, kẻ hầu người hạ cùng các phu nhân, trên cờ của mỗi nước có chữ, tuần tự là
“Hàn”, “Yên”, “Nguy”, “Triệu”, “Sở”, “Tề”. Chính giữa, trên vòm của có motip trang trí
“song phụng triều dương”, bên dưới có hai vị, một mặc trường bào màu xanh, một mặc
trường bào màu trắng đang vái chào nhau, hai bên có cung nữ cầm lọng. Đối xứng hai
bên phải, trái là ô trang trí chạm nổi “trúc – tước” bên trái, “mai – điểu” bên phải, bên
trên là tiểu tượng “lân hí cầu”, bên dưới hoa văn:hoa văn chữ Thọ. Ô trang trí bên trong
tạo hình một con đại bàng đứng trên một gộc cây, bên dưới là sóng nước. Kế tiếp là quần
thể tiểu tượng diễn tả cảnh “Thầy trò Đường Tăng” với Đường Tam Tạng cưỡi trên lưng
bạch mã, đi bên cạnh là Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không, theo sau là Sa Ngộ Tĩnh vai vác
bảo trượng. Nhóm bên cạnh là Đại Lực Ngưu Ma Vương cưỡi trên con thú mắt vàng kỵ
nước, tay trái giơ cao quạt ba tiêu, bên cạnh là Thiết Phiến công chúa và Ngọc Diện công
chúa, phía sau là người hầu cận ở trần, bốn mắt, đầu có sừng. Trên vách đá phía sau có
chữ “Ba Tiêu Động”. Ô kế tiếp có chữ “Bửu Nguyên diêu tạo”, xung quanh trang trí hoa
lá dây. Bên trái quần thể tiểu tượng trung tâm là quần thể trang trí diễn tả cảnh hai vị
tướng cưỡi trên hai con thú, một người trẻ hơn tay cầm bình hồ lô, và người già hơn tay
cầm cây kiếm ngắn, người hầu cận phía sau cầm cờ có chữ “Lộc Mục Đại Vương”, trên
vách đá có chữ “:Ngân Khanh Động” và cờ đuôi nheo có chữ “Mạnh” .Ô kế tiếp bên
trong có chữ “Mậu Thân niên lập”, khung viền trang trí hoa lá dây. Bên phải và trái dây
trang trí có tượng một vị thần đầu đội mão, bên trong mặc trường bào tay ôm màu trắng
viền nẹp xanh lam, bên ngoài khoác áo màu tím, dưới vạt có viền nẹp màu vàng và xanh
đồng, cưỡi trên lưng long mã (Nguyễn Thị Thu Trúc,2007, tr.58) 25 ) lOMoAR cPSD| 40799667 2.4
Một số cổ vật quí
Theo thống kê chưa đầy đủ, bản quán hiện có gần 400 đồ cổ: tượng thần 7, tượng đá 6,
bia đá 9, biển và hoành phi 10, câu đối 23, phù điêu “Thuyền Bát Nhã” 2, tranh nổi
41, họa tiết gốm nóc mái 10, tranh chữ vẽ 20, tranh tường 34, chuông lớn 1, chuông
đồng nhỏ 2, tranh chạm gỗ 24, đỉnh doòng lớn 1,…
2.4.1 Hoành phi, liễn đối
Hoành phi được định nghĩa: “Hoành phi là những tấm biển gỗ có hình thức trình bày theo
chiều ngang treo trên cao bên ngoài các gian thờ tại đình, chùa, miếu…thường trên đó
khắc từ 3 đến 4 chữ đại tự”. Hoành phi (橫扉) nghĩa là bảng nằm ngang với hoành là
ngang, phi là phô bày. Hoành phi là bức thư họa (tranh chữ), được dùng rộng rãi trong
dân gian (đình, đền, nhà thờ họ, nhà ở…). Bức hoành phi được treo cao nhất tại không
gian thờ cúng hơi nghiêng về phía trước để người nhìn dễ quan sát và tạo sự cân đối.
Việc treo một, hai hoặc ba bức hoành phi tại không gian thờ là tùy thuộc vào từng gia
đình và khu vực thờ cúng.
Nội dung thường là những chữ Hán (không dùng chữ Nôm) viết trên hoành phi (大字 đại
tự) thường theo 3 kiểu cơ bản là chữ chân 真, chữ thảo 草, chữ triện 篆. Nội dung có
khi bày tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên và những người có công với đất
nước, thông thường chỉ có từ ba đến bốn chữ như: 万古英灵 “Vạn cổ anh linh” (muôn
thuở linh thiêng), 留福留摁 Lưu phúc lưu ân (Lưu giữ mãi ơn đức), 護國庇民 Hộ quốc
tí dân (bảo vệ nước che chở dân); có khi mang ý nghĩa chúc tụng như 僧财进禄 “Tăng
tài tiến lộc” (được hưởng nhiều tài lộc), 福禄寿成 “Phúc lộc thọ thành” (được cả phúc,
lộc, thọ), 家门康泰 Gia môn khang thái (Cửa nhà rạng rỡ yên vui).
MIếu có 4 bức hoành phi và 18 câu liễn và hoành phi, liễn đối chủ yếu được làm vào
những năm 1910 niên hiệu Tuyên Thống triều Thanh, Trung Quốc và một số cặp l Tạihội
quán Tuệ Thành các bức hoành phi, những cặp liễn đối được làm giai đoạn những năm
1908 đến 1910 gắn với niên hiệu Tuyên Thống và một số cặp liễn được tạo tác giai đoạn 26 ) lOMoAR cPSD| 40799667
sau này gắn với thời Trung Hoa Dân Quốc. Các cặp liễn tạihội quán Tuệ Thành với các đồ án
hoa văn rồng mây sóng nước như là để nhắc nhở về một quá trình vượt biển gian nan. Số
lượng hoành phi treo tạihội quán Tuệ Thành không nhiều, có lẽ vì lối kết cấu kiến trúc không
gian thờ tự của miếu thích hợp cho việc treo liễn đối hơn là hoành phi, gian Trung điện thì
quá dài, vì thế mà gian Trung điện hẹp về chiều ngang mà chiều cao thì có, nên ở các hàng
cột thích hợp cho việc treo các cặp liễn.Tạihội quán Tuệ Thành hiện có 18 cặp liễn đối và
được treo ở các gian thờ sau: Hiện cửa trước có 2 cặp liễn, hàng cột 1 có 1 cặp, hàng cột 2 có
1 cặp, ở hàng cột thứ 8 mặt trong có 1 cặp, mặt ngoài 1 cặp, vách tường 1 cặp, hàng cột thứ 9
mặt ngoài 1 cặp, mặt trong 1 cặp, hàng cột thứ 10, cột thứ 13, cột thứ 14, cột thứ 15, cột thứ
16, cột thứ 17, cột thứ 18, đều treo 1 cặp và 1 cặp ở vách tường nơi đại điện. Dưới đây là 1
vài bức hoành phi và cặp liễn tôi đưa ra phân tích.
Bức hoành phi và cặp liễn ở trung điện
Phiên âm: Hàm hoành quang đại.
Gia Khánh ngũ niên Qúy xuân cốc đán, Phúc Kiến chúng thương đẳng trùng kiến lập.
Dịch nghĩa:Hàm ơn to lớn của Thiên Hậu.
Các nhà buôn Phúc Kiến cúng hoành phi nhân dịp trùng tuhội quán Tuệ Thành vào ngày
lành tháng 3 năm thứ 5 (1800) niên hiệu Gia Khánh (Triều Thanh, Trung Quốc). Đặc điểm:
Chạm nổi chữ Hán, xung quanh chạm lưỡng long tranh châu, song phụng, bên dưới chân
giá đỡ cho bức hoành là 2 con dơi lớn. Đến nay bức hoành phi vẫn còn treo tại Trung
điện củahội quán Tuệ Thành, có lẽ do thời gian nên nền của bức hoành phi cũng phai
màu dần. Hoành phi được làm tháng 3 năm 1800.
Cặp liễn đối ở hàng cột thứ 2 tại Trung điện Phiên âm: 27 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Hoàn vũ mông ân, nhất biện tâm hương ân báo đức;
Từ vân khải thụy,ngũ châu phàm ảnh khánh an lan.
Tuế thứ Canh Tuất quý xuân cốc đán. Mộc ân Công Nghĩa Đường chúng tín kính.
Tuệ Thành hội quán trùng tân cung phụng. Dịch nghĩa:
Khắp chốn mang ơn, một nén hương lòng mong được báo đền công đức;
Mây lành che chở, mọi cánh buồm khắp năm châu mừng được sóng êm. Đặc điểm:
Các thương nhân Công Nghĩa Đường cúng liễn đối vào ngày lành tháng 3 năm Canh
Tuất (1910), nhân dịp trùng tu hội quán Tuệ Thành
Cặp liễn rời, treo ở cột, chạm nổi chữ Hán, nền bức liễn chạm nổi các đường vân,
mây, kiếm, sáo, thư sách.
Cặp liễn được làm vào năm Canh Tuất (1910)
Cặp liễn đối ở hàng cột thứ 8 (mặt trong): cặp liễn này do một cửa hàng thịt ở Sài Gòn
kính tặng với ý nghĩa là ca tụng công đức của Thiên Hậu. Phiên âm:
Thánh trạch nhược giang hà, châu tiếp sở thông giai vũ lộ;
Dân sanh đồng huyết khí, thê hàng tuy viễn diệc tùng du.
Tuyên Thống nhị niên tuế thứ Canh Tuất quý xuân chi nguyệt, Tây Cống nhục hàng Hiệp Hòa Đường kính tống. Dịch nghĩa:
Thánh đức như biển sông, thuyền bè đi về thông suốt đều nhờ ơn mưa móc; 28 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Dân chúng cùng dòng máu, thuyền buôn đi xa nhưng vẫn thấy hình bóng quê nhà. Đặc điểm:
Các ông Hiệp, Hòa, Đường của cửa hàng thịt ở Sài Gòn cúng liễn đối vào tháng 3 năm
Canh Tuất (1910), năm thứ 2 niên hiệu Tuyên Thống (Triều Thanh, Trung Quốc)
Cặp liễn rời, treo ở cột, chạm nổi chữ Hán, nền chạm nổi rồng, mây.
Cặp liễn được làm vào tháng 3 năm Canh Tuất (1910) (Nguyễn Phúc Ánh, 2008, tr.66).4 2.4.2 Lư hương cổ
Lư hương là dụng cụ dùng để đốt nhang, được tạo thành từ kim loại hoặc gốm sứ, tùy
theo từng giai đoạn lịch sử mà hình dáng có sự thay đổi, thường là hình tròn, trên miêng
có đôi ta, thường có 3 chân, được gọi là “lư hương đỉnh”, sau này người ta gọi chung là
“lư hương” cho cả loại 3 chân hay đế bằng, văn hóa lư hương được cho là bắt nguồn từ
thời Thương – Chu” . Khi nghiên cứu các vấn đề văn hóa truyền thống Trung Quốc,
những nhà nghiên cứu Trung Quốc còn quen gọi một văn hóa đó là “văn hóa lư hương”
(Trung Quốc hương lô văn hóa) hay "văn hóa hương trầm”, gọi đây là văn hóa vì nó
không chỉ là việc đốt hương và việc dùng các hiện vật để đốt thứ hương mà có liên quan
đến niềm tin, tín ngưỡng của con người. Sự xuất hiện của lư hương đem lại cho con
người một đời sống tinh thần phong phú hơn, qua thời gian, suốt chiều dài lịch sử nó đã
đem lại những ảnh hưởng văn hóa sâu sắc.
Kiểu dáng của các lư hương cổ trong các miếu của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
rất phong phú. Tùy thuộc vào các tiêu chí như nguồn gốc, xuất xứ, niên đại, chất liệu…
đã quy định kiểu dáng lư hương tương ứng. Theo đó, cơ bản có thể chia kiểu dáng lư
theo phong cách lư Trung Quốc và lư Việt Nam. Lư Trung Quốc có thể chia ra lư thời
Minh và lư thời Thanh Lư Việt Nam có hai loại tiêu biểu là lư hương hợp kim đồng thế
kỷ XIX – XX và lư hương gốm Sài Gòn thế kỷ XIX. 4 Báo cáo thực tập 29 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Lư hương cũng như các loại hình cổ vật khác trong miếu Hoa ngoài chức năng dùng để
thờ cúng và là hiện vật trung gian để con người giao tiếp với thần linh. Nó còn có chức
năng trang trí cho miếu. Lư hương trong bộ ngũ sựhội quán Tuệ Thành – hội quán Tuệ
Thành được trang trí bằng bộ tranh gỗ “bát tiên” thể hiện các vị tiên trong những tư thế
thoát tục, thảnh thơi, tay cầm những bảo bối của mình. “Bát tiên” được cho là thần canh
gác cho tám hướng nên việc tái hiện họ đem lại điều tốt về phong thủy. Người Hoa tin
rằng họ mang lại sự trường thọ, tài lộc, sức khỏe cho con cháu. Còn về đề tài cảnh sinh
hoạt dân gian như đề tài “tam đa” gồm ba vị Phúc – Lộc – Thọ ở lư hươnghội quán Tuệ
Thành – hội quán Tuệ Thành được sử dụng trên các lư hương để cầu những điều tốt đẹp
cho các ngôi miếu và cho bà con tín hữu. Các đề tài trang trí về các nhân vật lịch sử và
nhân vật tôn giáo tín ngưỡng như “bát tiên”, “tam đa” có chức năng truyền tải niềm tin
tín ngưỡng, đề cao đạo lý nhân sinh và tính giáo dục đối với con người. Về đề tài trang trí
con vật dân dã điển hình là có hình ảnh con dơi. Con dơi tiếng Hán có âm gần với chữ
“phúc” nên được coi là biểu tượng của hạnh phúc và sung túc. Lư hương trong bộ ngũ
sựhội quán Tuệ Thành – hội quán Tuệ Thành có 8 con dơi xòe cánh xếp cạnh nhau. Đế
chân nến cũng là 8 con dơi xòe cánh. Các loại cá cũng được sử dụng trang trí khá phổ
biến trên lư hương. Con cá tiếng Hán đọc là “ngư” đồng âm với chữ “dư” chỉ sự dư giả,
giàu có. Cá gắn với truyền thuyết “ngư hóa long” (cá hóa rồng” biểu hiện cho sự thành
đạt, giàu sang, xã hội phồn vinh. Đề tài “ngư hý thủy” (cá gặp thời) được thể hiện trên
mảng tranh gỗ ở lư hương của hội quán Tuệ Thành – hội quán Tuệ Thành. Ngoài ra bộ
ngũ sự còn thể hiện các loại cua, cá bằng tranh gỗ tạo vẻ đẹp khá gần gũi và vui mắt.
Ngoài ra tranh tường cũng là điểm đặc sắc khi đến Hội Quán. “Thương Sơn Tứ Hạo” cuối
đời nhà Trần có ông Đông Viên Công, Giác Lý Tiên, Khởi Lý Quý, Hạ Huỳnh Công, là 4 tên
lừng danh cao nhân nhã sĩ tuổi tác gần nhau ngoài 80, lánh ẩn thời loạn thuộc núi Thương
Sơn thuộc tỉnh Thiểm Tây, vì ai nấy tóc bạc hết đầu nên thiên hạ gọi họ bằng “Thương Sơn
Tứ Hạo”, khi Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ thôn tính thiên hạ, ngỏ ý mời họ ra ngoài làm
quan triều đình nhưng bất toại, kế đó Lưu Bang có ý muốn truất phế thái tử “Dinh” định lập
Triệu Vương Như Ý nên dùng kế Trương Lương mang quà biếu hậu tặng 30 ) lOMoAR cPSD| 40799667
lễ thỉnh họ ra đời phụ trợ khi thái tử Lưu Dinh dẫn họ nhập cung bái kiến Vua Lưu Bang,
nhà vua nói “ nay Thái tư nhà ta được Tứ Hạo lãnh nhân nâng đỡ giúp việc không khác gì
con chim lông cánh trổ đầy được cao bay rồi”, rốt cuộc không phế truất Thái Tử. 31 ) lOMoAR cPSD| 40799667
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA HỘI QUÁN TUỆ THÀNH
3.1 Các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng
Theo tác giả Phan Thị Thu Thảo (2006) mỗi hội quán đều có miếu thờ một vị thần linh
theo tín ngưỡng của người Hoa hay lịch sử di dân của họ. Mỗi miếu đều thờ một vị thần
chính và một số các vị thần linh phối tự khác. Đặc điểm nổi bật trong văn hóa Hoa là thờ
cúng, tín ngưỡng. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu qua định cư tại Việt Nam và khi đã có
nơi ăn chốn ở, họ nghĩ ngay tới việc xây dựng các đền thờ, miếu, chùa chiền, hội quán để
đáp ứng nhu cầu về tín ngưỡng của mình. Tùy theo nội dung tín ngưỡng mà hằng năm có
những ngày lễ hội lớn nhỏ; và tùy theo tính chất của các ngày lễ tế, người ta sắm sửa các
lễ vật dâng cúng khác nhau, thành tâm thắp hương khấn nguyện, làm việc thiện. Đến với
hội quán vào những dịp lễ hội, người Việt cũng có thể tham gia hoặc xem người Hoa biểu
diễn văn nghệ, múa rồng, múa lân… vì đây còn là những trung tâm văn hóa, giáo dục, là
nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa nghệ thuật của người Hoa.
Tín ngưỡng – tôn giáo là môi trường chủ yếu để định hướng nhân cách và tâm lý cộng
đồng của người Hoa. Chính vì thế tín ngưỡng và tôn giáo có vai trò rất cần thiết và là một
nhu cầu không thể thiếu của phần đông người Hoa tại TP.HCM. Theo tác giả Phan An
trong Chùa Hoa –một nét văn hóa đặc sắc của TP.HCM thì “Chùa Hoa được phân bố rải
rác trên nhiều quận, huyện, của Thành phố, nhưng phần nhiều tập trung trên địa bàn quận
5, quận 1. Chùa Hoa gắn bó nhiều mặt với đời sống của người Hoa ở Thành phố cũng
như lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố từ lúc đầu”. Nhìn chung, hội quán –
miếu Hoa là nơi đồng bào Hoa thể hiện niềm tin và lòng biết ơn của mình đến Trời, Phật,
thần linh, những anh hùng nghĩa sĩ đã theo độ trì, phù hộ cho họ. Tuy nhiên, tín ngưỡng
của họ nghiêng hẳn về thờ phụng thánh nhân hơn là thần linh. Trong các hội quán – miếu
Hoa, người Hoa đặc biệt thờ cúng những thánh nhân được thờ phổ biến là Bà Thiên Hậu,
Quan Công, Ông Bổn, Bao Công… 32 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Trong hệ thống tín ngưỡng của người Hoa tại các hội quán, mỗi vị thần tượng trưng cho
một ý nghĩa riêng. Chẳng hạn, tín ngưỡng Quan Công là nhằm định hướng nhân cách cho
cá nhân và cộng đồng theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo: nhân, lễ, nghĩa, trí tín. Và
tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu, một nhân thần được người dân vùng biển phía Nam Trung
Hoa tôn xưng là thần biển. Với Bà Thiên Hậu, trước hết người Hoa muốn ghi tạc công
lao của một thánh nhân đã hết lòng cưu mang che chở cho họ vượt biển đến những vùng
đất mới một cách an toàn, sau là mong muốn bồi dưỡng nhân cách cho cộng đồng, đặc
biệt là là phụ nữ Hoa, có được tình yêu thương giúp đỡ những người trong cơn hoạn nạn,
hiếu thảo với các bậc sinh thành, mẫu mực trong tình anh em, đồng loại. “Đa số người
Hoa định cư ở hải ngoại là những người đã vượt qua nguy hiểm trong quá trình di dân,
nên họ đề cao vị thánh mẫu đã phò trợ, giúp họ vượt qua được hiểm nguy. Người Hoa thờ
Bà Thiên Hậu nhằm nói lên tính nhân nghĩa của cộng đồng, biết báo đáp ân sâu mà mình
mang nặng. Hội quán người Hoa không chỉ là của người Hoa, mà còn là nơi thờ cúng
thiêng liêng cho tất cả những ai có niềm tin vào tín ngưỡng – tôn giáo. Cho dù họ thuộc
nhóm ngôn ngữ nào, là người Hoa, người Việt hay là người nước ngoài, đều có thể đến
hội quán cúng bái, cầu xin, làm cho các hoạt động của hội quán thêm phần sinh khí,
mang các giá trị biểu trưng thuộc về đời sống tâm linh rất điển hình.
Tín ngưỡng Kim Hoa nương nương của người Hoa ở quận 5 và tục thờ Bà Mụ của người
Việt vùng Nam Bộ có một số điểm tương đồng và khác biệt cơ bản. Người Việt và người
Hoa gọi Kim Hoa Nương Nương với nhiều tên gọi khác nhau nhưng Bà vẫn là vị nữ thần
đại diện cho tín ngưỡng cầu tự và phù hộ cho trẻ khỏe mạnh, thông minh, học giỏi và
ngoan ngoãn. Người Hoa còn gửi con cho Bà nuôi đến năm đứa trẻ 18 tuổi mới làm lễ
trưởng thành, xem như đứa trẻ đã trưởng thành và cần phải tự lập trong cuộc sống. Trong
khi đó, người Việt làm lễ Nhương căn cho trẻ khi đứa trẻ đủ 12 tuổi để tạ ơn Mười Hai
Bà Mụ đã nuôi nấng, dạy bảo cho trẻ trong suốt 12 năm qua. Người Việt và người Hoa
đều đến chùa, miếu để cầu tự và cầu xin Kim Hoa Nương Nương khi có nhu cầu (Phan
Thị Thu Thảo, 2006, tr.86).
3.2Các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục 33 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Có thể nói Thiên Hậu Thánh Mẫu là nữ thần được người Hoa gốc Quảng Đông sùng bái
và thờ cúng nhiều nhất. Đối với họ, Bà luôn hiện hữu trong tâm thức, luôn lắng nghe họ
và giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Người Hoa đến vía Bà đâu chỉ có
ngày 23 tháng 3 hàng năm mà họ có thể đến đây hàng ngày. Mọi vui buồn xảy ra trong
cuộc sống thường nhật họ đều đến nhờ sự hỗ trợ của Bà, giúp thêm niềm tin vào cuộc
sống, mong gia đạo “Ngũ phúc lâm môn”, mong sản xuất kinh doanh luôn được “Mã đáo thành công”…
Bên cạnh một số ngôi miếu thờ Bà ở nhiều nơi quanh khu vực thì miếu Bà Thiên Hậu –
Tuệ Thành Hội quán vẫn luôn được người Hoa Quảng Đông xem là ngôi miếu chính thu
hút nhiều du khách về đây hội tụ để cùng chung nhau làm việc phúc thiện. Ngày vía Bà
cũng là ngày hội đấu thầu đèn lồng. Trong ánh sáng lung kinh và trong không khí nô nức
của ngày hội. Hàng trăm chiếc đèn lồng được người Hoa thỉnh dâng cúng Bà, trước là tỏ
lòng thành kính, sau là có dịp để làm phước thiện. Số tiền thu được hàng năm khoảng
hàng trăm triệu đồng có khi cao điểm lên đến hàng tỷ. Tất cả đều được dùng trong công
tác từ thiện xã hội. Đến tham dự lễ hội, người Hoa nào cũng cảm thấy như được gần gũi
nhau hơn. Trong sân rộng nhiều tuồng tích cổ xưa được nhắc đến giúp cho lớp trẻ hiểu
được truyền thống của cộng đồng và pho tượng Bà được mang ra ngự lãm dường như để
chứng kiến và cổ vũ thêm sức mạnh cho mọi người. Trải qua hơn mấy trăm năm có mặt
và đóng góp tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngôi miếu cùng với Tuệ Thành Hội quán đã tạo
điều kiện giúp đõ nhau, cố kết cộng đồng, xây dựng những cơ sở vật chất: bệnh viện,
trường học, nghĩa trang… luôn được Hội quán quan tâm giúp cho bà con người Hoa an
tâm vui sống. Ngày nay, hội quán Tuệ Thành – Tuệ Thành Hội quán là một di tích cổ,
đẹp, một điểm tham quan không thể thiếu của du khách trong và ngoài nước khi đến
viếng thăm Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài những giá trị tinh thần màhội quán Tuệ Thành mang đến mà còn có những giúp đỡ
về vật chất đáng kể đối với bà con người Hoa. Nếu bạn là người Hoa Quảng Đông lưu lạc
đến đây không có nơi nương tựa, bạn hãy đến Tuệ Thành Hội quán họ sẽ giúp bạn. Ban
quản trị sẽ sắp xếp chỗ ăn ở cho bạn trong Hội quán trong ba tháng, và trong thời gian đó, 34 ) lOMoAR cPSD| 40799667
họ sẽ giúp bạn tìm kiếm một việc làm và chỗ ở ổn định. Những sự giúp đỡ mang tính quy
mô lớn hơn được thực hiện trong các công tác từ thiện xã hội. Công tác từ thiện, phúc lợi
xã hội, hỗ trợ hoạt động văn hóa giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là
việc làm thường xuyên của Hội quán xuyên suốt hơn 200 năm nay. Phát huy truyền thống
tốt đẹp đó, hơn 20 năm nay Ban quản trị đã tích cực đóng góp vào các hoạt động xả hội
nêu trên với số tiền gần chục tỷ đồng. Trong đó bao gồm chi phí mua trang thiết bị dạy
học và trang bị phòng vi tính cho trường Mạch Kiếm Hùng; ủng hộ kinh phí cho hoạt
động của trường Tương Lai quận 5 và quận 6 và Ban Bảo trợ Hội chữ thập đỏ quận 5;
ủng hộ học bổng Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Qúy Đôn. Hàng tháng
ủng hộ kinh phí cho hai phòng khám từ thiện của hội y học cổ truyền Q.5 và Q.6….
Ngoài ra còn có hàng loạt các chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương khác.
Có thể nói Tuệ Thành Hội quán là một chỗ dựa vật chất, tinh thần to lớn của người Hoa
Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chí Minh. Những đóng góp to lớn ấy luôn được mọi người
ủng hộ và hết sức mang ơn và đây là một truyền thống tốt đẹp luôn được Đảng và Nhà
nước ta hoan nghênh và ủng hộ.
3.3Các hoạt động kinh tế
Sự phát triển quy mô xây dựng và phạm vi hoạt động của các hội quán người Hoa tại TP.
Hồ Chí Minh hiện nay đều theo một con đường chung từ nhỏ tới lớn, từ hẹp đến rộng,
tương ứng với quá trình tích lũy tư bản thương nghiệp của thương nhân người Hoa và sự
phát triển lớn mạnh của cộng đồng người Hoa. Sau khi xây dựng hội quán, các thương
nhân cũng chủ động tạo ra nguồn kinh phí cho nó hoạt động thường là xây nhà cho thuê
hay cho thuê mặt bằng, ngoài số tiền đèn hương mà người trong bang hỷ cúng. “Để có
điều kiện xây dựng miếu cũng như điều hành các việc thờ cúng, cần phải có người nhiệt
tình, có tiền của, có uy tín. Vì vậy, hội quán được thành lập trong khuôn viên của miếu để
có điều kiện đẩy mạnh hoạt động tín ngưỡng và các hoạt động của hội quán như xã hội,
giáo dục, y tế, phát triển cộng đồng… Ngoài ra, để có kinh phí cho mọi hoạt động nhằm
giúp cộng đồng tồn tại, phát triển, số tiền đáng kể được thu từ nguồn đóng góp cúng thần 35 ) lOMoAR cPSD| 40799667
trong miếu”. Mọi nguồn lợi đóng góp từ cộng đồng chủ yếu là nhằm gửi đến thần linh để
tạ ơn, mong cầu sự giúp đỡ cho cộng đồng. Thông qua Ban quản của hội quán, việc điều
động tổ chức, sử dụng nguồn kinh phí ấy để phục vụ thiết thực trở lại một cách hợp lý
cho cộng đồng, cũng xuất phát từ chức năng của hội quán.
Một yếu tố khác cũng cần ghi nhận là do hội quán gắn liền với cơ sở tín ngưỡng, nên hội
quán còn có một khoản thu không nhỏ khác thường được gọi là “tiền nhang đèn”. Đó là
khoản tiền thu được từ việc bán nhang, đèn, dầu… cho khách thập phương đến chiêm
bái, cúng kiếng tại cơ sở và tiền khách thập phương tự nguyện bỏ vào thùng “phước
thiện” cúng cho cơ sở thờ tự.
Đấu giá lồng đèn ở một số hội quán người Hoa không chỉ là sinh hoạt văn hóa truyền
thống, được Ban quản trị hội quán tổ chức định kỳ hay khi cần quyên góp một số tiền lớn
để xây dựng một công trình phúc lợi công cộng nào đó, mà còn là hoạt động tạo quỹ cho
hội quán. Đèn lồng được làm bởi các nghệ nhân, trưng bày tại hội quán vào dịp tết
Nguyên Đán và tổ chức đấu giá thường vào dịp lễ hội Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng).
Chiếc đèn lồng được đấu giá hoàn toàn không ở giá trị sử dụng hay giá trị vật chất mà là
yếu tố tinh thần. Mọi nguồn thu của hội quán dù lớn, dù nhỏ phải được sử dụng vào việc
công ích và công khai, minh bạch, hàng tháng đều báo cáo thu chi rõ ràng. Khi đã lớn
mạnh dưới danh nghĩa bang, hội quán đóng vai trò tích cực trong việc chăm lo cộng đồng.
Nguồn tài chính của hội được tạo bởi tiền hương dầu của bá tánh đóng góp và sự thiện
quyên góp tự nguyện của các nhân sĩ nhiệt tâm, mạnh thường quân, tiền cúng tế nhang
đèn ở chùa, nghĩa trang. Kế hoạch thu chi tài chính của hội quán cũng có nguyên tắc
riêng. Như vậy, qua những trình bày trên đã cho chúng ta thấy rõ nguồn thu của hội quán
chủ yếu từ tiền bán nhang, đèn, dầu; tiền hương dầu của bá tánh đóng góp; tiền đóng góp
là do tự nguyện của các nhà hảo tâm, mạnh thường quân và các khoản thu khác. Những
nguồn thu này được chi một cách hợp lý và chặt chẽ. Đây cũng là nguồn được sử dụng 36 ) lOMoAR cPSD| 40799667
vào nhiều mục đích chung và đặc biệt là cho các hoạt động văn hóa – xã hội của hội quán. 37 ) lOMoAR cPSD| 40799667 KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu gốc Hoa Nam đã theo bước dân người Hoa đến Nam Bộ Việt
Nam từ các thế kỷ 17, 18, 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu phổ biến tại
Nam Bộ nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Tục thờ này cùng với các hoạt
động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở
thành một kênh gìn giữ, lưu truyền văn hóa truyền thống, cũng là một kênh giáo dục đạo
đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc người Hoa. Với những tinh hoa của tín ngưỡng thờ
thiên hậu kết hợp cùng lối kiến trúc trang trí điêu khắc độc đáo đã tạo nên một Tuệ Thành
hội quán thu hút, đầy chất nghệ thuật giàu ý nghĩa và đậm chất nhân văn. Trong mối
tương quan với văn hóa các tộc người Việt, Khmer và Chăm trong vùng, tín ngưỡng
Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc của tộc
người Hoa – một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Cùng với quá trình
dung hợp văn hóa đa tộc người trong suốt ba trăm năm qua, tín ngưỡng Thiên Hậu dần dà
hấp thụ các yếu tố văn hóa khác từ các cộng đồng Việt, Khmer, Chăm để làm giàu thêm
phong tục của mình, đồng thời biến tục thờ Thiên Hậu thành một biểu tương giao lưu văn
hóa sinh động tại Nam Bộ. Hiện tượng giao thoa văn hóa Hoa, việt, Khmer và Chăm qua
tục thờ Thiên Hậu có thể được xem là một mẫu hình của sự chung sống chan hòa và gắn
bó các tộc người nhằm hướng tới sự phát triển mang tính bền vững tại vùng đất Nam Bộ Việt Nam. 38 ) lOMoAR cPSD| 40799667 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành hội quán, 2000, Nxb. Trẻ 2. Báo cáo thực tập
3. https://siomiochan.wordpress.com/2016/02/14/ke-chuyen-cho-lon-3-1-tue- thanh-hoi-quan/
4. http://www.quan5.hochiminhcity.gov.vn/gioithieu/lists/posts/post.aspx?
Source=/gioithieu&Category=Di+t%C3%ADch+v%C4%83n+ho
%C3%A1&ItemID=111&Mode=1
5. https://hochiminh.dulichvietnam.com.vn/diem-den/chua-ba-thien-hau/
6. https://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien- hau-o-cho-lon-i32971.html
7. https://nghiencuulichsu.com/2016/06/23/lai-ban-ve-khai-niem-hoi-quan-
mieu-chua-cua-cong-dong-nguoi-hoa-tai-thanh-pho-ho-chi-minh/
8. http://svqy.org/2014/3-2014/frame/ChuaCoTaiSaigon.pdf
9. http://vanhoahoc.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/vanhoahoc/Ly
%20luan%20van%20hoa%20hoc/Nguyen%20Ngoc%20Tho-T%C3%8DN
%20NG%C6%AF%E1%BB%A0NG%20THI%C3%8AN%20H%E1%BA%ACU
%20T%E1%BA%A0I%20NAM%20B%E1%BB%98%20VI%E1%BB%86T
%20NAM%20-%20g%E1%BB%ADi%20anh%20S%C6%A1n.pdf
10. https://pdfs.semanticscholar.org/19cc/93a15cae9686a319fd2c8c3cb55683756c61.p df
11. http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/2016/02/le-hoi-chua-ba-thien-hau.html
12. https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/cholon-2
13. https://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien- hau-o-cho-lon-i32971.html 39 ) lOMoAR cPSD| 40799667 PHỤ LỤC
Hình 1.2a: Hội quán Tuệ Thành trong những năm 1865-1875
Nguồn: h琀琀ps://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien- hau-o-cho-lon-i32971.html
Hình 1.2b: Cổng hội quán Tuệ thành năm 1895
Nguồn: h琀琀ps://phatgiao.org.vn/dam-chim-trong-loat-anh-tram-tuoi-cua-chua-ba-thien- hau-o-cho-lon-i32971.html
Hình 2.2.1: Khu tiền điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019 40 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Hình 2.2.2: Khu thiên đỉnh (giếng trời)
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.2.3: Khu trung điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.2.4: Khu vực hương đình (nhà thắp nhang)
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019 41 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Hình 2.2.5: Khu đại điện
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.3.1: họa tiết gốm nóc số 1
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.3.2: họa tiết gốm nóc số 3
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019 42 ) lOMoAR cPSD| 40799667
Hình 2.3.3: họa tiết gốm nóc số 5
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.4: Một số cổ vật quý
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019
Hình 2.4.1: Hoành phi, liễn đối
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019 Hình 2.4.2: Lư hương cổ
Nguồn: ảnh chụp ngày 10/04/2019 43 )