/3
lOMoARcPSD| 61557118
Chủ đề 5: K. Marx đã nhận định “Mối quan hệ giữa lao động và tư bản là mối quan bị bóc lột và
đi bóc lột. Sự bóc lột của tư bản đối với lao động ngày càng được củng cố dưới nhiều hình thức
tinh vi ngay cả khi khối lượng công nhân bị bóc lột không thay đổi, chỉ có thời gian cường
độ của ngày lao động là tăng lên, thì tổng số tư bản đã thay đổi, tổng số tư bản được sử dụng đó
vẫn phải tăng lên, mặc dù chỉ là để sử dụng vẫn một khối lượng lao động như trong điều kiện bóc
lột cũ” (C.Mác Ph.Ăng-ghen (1995): Toàn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Nội,
t.25, tr.338)
Hãy giải thích quan điểm trên cho biết nội dung quan điểm phản ánh nhất con đường (phương
pháp) bóc lột giá trị thặng dư nào?
BÀI LÀM:
Từ nhận định trên, thể nói, K. Marx đã làm nổi bật các quan điểm sau: mối quan hệ bóc lột giữa
lao động bản; phương pháp bóc lột của bản được đề cập cụ thnhất phương pháp
giá trị thặng dư tuyệt đối. Bài tiểu luận sau sẽ giải thích cụ thquan điểm của K. Marx và làm sáng
tỏ hai vấn đề trên.
Trước tiên, Marx nhận định rằng mối quan hệ giữa lao động bản là mối quan hệ bóc lột. Sở
dĩ, K. Marx đi tới nhận định vậy là trong bối cảnh thế kỉ XIX, người lao động đã bị các nhà
bản áp bức, chèn ép, bị buộc phải lao động dưới điều kiện khắc nghiệt, không đảm bảo với thời
gian có thể lên tới 12 giờ/ngày. Sức, trí, lực mà nhân công, người lao động phải bỏ ra là rất lớn so
với thù lao được nhà bản trả thì lại quá rẻ mạt. thể nói, người lao động không được hưởng
trọn vẹn thành quả hay giá trị tương xứng với sức lao động họ bỏ ra mà không những vậy họ còn
bị bản chiếm đoạt để làm giàu, từ đây phát sinh giá trị thặng dư. K. Marx đã nhận thấy được
thực tế ấy và nhận định trong quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa nhà tư bản và lao động mang tính
bóc lột sâu sắc mà trong đó người chịu bóc lột là người lao động và người hưởng lợi là các nhà tư
bản. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, duy của K. Marx còn mang tính vượt trội so với các nhà
kinh tế cùng thời đại khi Marx hiểu được mối quan hệ ấy trên mặt kinh tế. Xét trên mặt kinh tế,
nhà tư bản đã tuân thủ quy luật giá trị và quy luật kinh tế khi sử dụng thù lao, tiền công với vai trò
như vật ngang giá để trả cho công nhân một lượng bằng giá trị hàng hóa sức lao động công
nhân đem lại sau khi đã thông qua các hình thức thỏa thuận, trao đổi, kết hợp đồng giữa hai
bên: người thuê người được thuê hay nhà bản người lao động. Nói tóm lại, từ thực tế mối
quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và người lao động, ta còn hiểu ra về bản chất giá trị thặng dư trong
kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp của hai giai cấp tư sản và công nhân mà trong đó, các nhà tư
bản làm giàu dựa trên cơ sở thuê mướn lao động của giai cấp công nhân” (trích sách giáo trình).
hai con đường sản xuất giá trị thặng dư là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
phương pháp “kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động
cần thiết không thay đổicòn phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối phương pháp
“rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài một cách ơng ng thời gian lao động thặng
dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.”
Từ định nghĩa trên, thể ràng nhận xét phương pháp K. Marx đang muốn nhấn mạnh
đây khi “thời gian và cường độ của ngày lao động là tăng lên” là con đường bóc lột giá trị thặng
lOMoARcPSD| 61557118
tuyệt đối. Con đường bóc lột giá trị thặng tuyệt đối được K. Marx coi tinh vi bởi lẽ nhà
tư bản vừa có thể tối ưu chi phí sản xuất mà vẫn góp phần gia tăng sản lượng, số lượng hàng hóa
được sản xuất để tối đa lợi nhuận. Khi số lượng người lao động được giữ nguyên không đổi, nhà
bản sẽ tiết kiệm được chi phí nhân công hay số tiền phải chi trả cho tiền công danh nghĩa cho
người lao động vẫn thể tạo ra giá trị thặng dư. Giá trị thặng ấy được lấy từ chính thời
gian lao động thặng của công nhân khi ngày lao động được kéo dài. Thời gian ngày lao động
được xác định là lớn hơn thời gian lao động cần thiết và nhỏ hơn 24 giờ bởi công nhân cũng cần
thời gian sinh hoạt (ăn, ngủ, nghỉ, giải trí) nên ngày lao động không thkéo dài bằng ngày tự
nhiên ta cũng cần đảm bảo cường độ lao động không vượt quá sức người. vậy: Thời gian
lao động tất yếu <= Ngày lao động < 24 giờ. Trong đó, thời gian lao động tất yếu là thời gian công
nhân phải bỏ ra đtạo ra lượng giá trị ngang với hàng hóa sức lao động của mình. Thời gian còn
lại trong ngày lao động thời gian lao động thặng trong khoảng thời gian lao động thặng
ấy, công nhân tạo ra thêm giá trị thặng cho hội. Để chứng minh phương pháp gia tăng giá
trị thặng dư tuyệt đối khiến bản gia tăng, ta có thể xem xét ví dụ sau với tổng khối lượng nhân
công giống nhau, tổng tư bản khả biến (số tiền mà nhà tư bản phải trả cho hàng hóa sức lao động)
mà nhà tư bản phải chịu là giống nhau:
Không áp dụng gia tăng giá trị thặng
dư tuyệt đối
Đã áp dụng gia tăng giá trị thặng
dư tuyệt đối
Ngày lao động
8 giờ
12 giờ
Thời gian lao động
tất yếu
4 giờ
4 giờ
Thời gian lao động
thặng dư
4 giờ
8 giờ
Tỷ suất giá trị thặng
100%
200%
Trong đó, tỷ suất giá trị thặng dư được tính bằng công thức:
m’ = Thời gian lao động tất yếu / Thời gian lao động thặng dư * 100%.
Tỷ suất giá trị thặng thể hiện trình độ khai thác sức lao động làm thuê của nhà bản đối với
nhân công, đó mức độ bóc lột của bản dựa trên thời gian lao động tất yếu (người lao động
hoạt động và nhận được giá trị tương đương với tiền công) và thời gian lao động thặng dư (người
lao động bị bóc lột đtạo ra giá trị thừa cho nhà bản). Nói cách khác, trong ngày làm việc
12 giờ, số tiền công công nhân nhận lại chỉ tương ứng với 4 giờ làm việc, giá trị còn lại sẽ về tay
nhà bản tạo thành giá trị thặng hay cứ mỗi giờ làm việc được trả công, người công nhân phải
lao động thêm 2 giờ không công để tạo giá trị thặng dư cho tư bản. Vì vậy, có thể nói việc kéo dài
ngày lao động tuyệt đối sẽ giúp gia tăng tổng bản thặng của nhà tư bản, góp phần làm giàu
và tối đa lợi nhuận của nhà tư bản.
lOMoARcPSD| 61557118
Dù vậy, việc sử dụng phương pháp gia tăng giá trị thặng dư, “tổng số tư bản được sử dụng đó vẫn
phải tăng lên, mặc dù chỉ để sử dụng vẫn một khối lượng lao động như trong điều kiện bóc lột
cũ”. Tổng số tư bản được sử dụng chính là phần tư bản được sử dụng trong quá trình sản xuất sản
phẩm, bao gồm bản khả biến (phần bản để trả tiền công cho công nhân) bản bất biến
(phần tư bản phải trả cho máy móc, trang, thiết bị,...). Sở dĩ để duy trì hay kéo dài ngày lao động,
nhà tư bản vẫn phải chi trả cho tư liệu sản xuất để đáp ứng cường độ công việc cao bằng việc duy
trì máy móc hoặc đầu tư vào hệ thống quản lý, giám sát để đảm bảo năng suất không đổi. Điều này
đã dẫn đến việc chi phí sản xuất gia tăng hay tổng tư bản sử dụng cao hơn dù số lượng công nhân
là không đổi, điều kiện lao động là không khác biệt.
Nói tóm lại, K. Marx đã nêu bật mối quan hệ bóc lột giữa nhà bản người lao động với hình
thức bóc lột đầy tinh vi và mạnh mẽ mà cụ thể là phương pháp gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối.
Marx khẳng định rằng dù số lượng nhân công không đổi, nhà tư bản vẫn đạt lợi nhuận chỉ từ việc
kéo dài ngày lao động của công nhân. Tđó, làm gia tăng mâu thuẫn giữa nhà tư bản và người lao
động, góp phần làm động lực thúc đẩy sự đấu tranh giai cấp quyết liệt trên toàn xã hội.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61557118
Chủ đề 5: K. Marx đã nhận định “Mối quan hệ giữa lao động và tư bản là mối quan bị bóc lột và
đi bóc lột. Sự bóc lột của tư bản đối với lao động ngày càng được củng cố dưới nhiều hình thức
tinh vi ngay cả khi khối lượng công nhân bị bóc lột không thay đổi, và chỉ có thời gian và cường
độ của ngày lao động là tăng lên, thì tổng số tư bản đã thay đổi, tổng số tư bản được sử dụng đó
vẫn phải tăng lên, mặc dù chỉ là để sử dụng vẫn một khối lượng lao động như trong điều kiện bóc
lột cũ”
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995): Toàn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.25, tr.338)
Hãy giải thích quan điểm trên và cho biết nội dung quan điểm phản ánh rõ nhất con đường (phương
pháp) bóc lột giá trị thặng dư nào? BÀI LÀM:
Từ nhận định trên, có thể nói, K. Marx đã làm nổi bật các quan điểm sau: mối quan hệ bóc lột giữa
lao động và tư bản; phương pháp bóc lột của tư bản mà được đề cập cụ thể nhất là phương pháp
giá trị thặng dư tuyệt đối. Bài tiểu luận sau sẽ giải thích cụ thể quan điểm của K. Marx và làm sáng tỏ hai vấn đề trên.
Trước tiên, Marx nhận định rằng mối quan hệ giữa lao động và tư bản là mối quan hệ bóc lột. Sở
dĩ, K. Marx đi tới nhận định vậy là vì trong bối cảnh thế kỉ XIX, người lao động đã bị các nhà tư
bản áp bức, chèn ép, bị buộc phải lao động dưới điều kiện khắc nghiệt, không đảm bảo với thời
gian có thể lên tới 12 giờ/ngày. Sức, trí, lực mà nhân công, người lao động phải bỏ ra là rất lớn so
với thù lao được nhà tư bản trả thì lại quá rẻ mạt. Có thể nói, người lao động không được hưởng
trọn vẹn thành quả hay giá trị tương xứng với sức lao động họ bỏ ra mà không những vậy họ còn
bị tư bản chiếm đoạt để làm giàu, từ đây phát sinh giá trị thặng dư. K. Marx đã nhận thấy được
thực tế ấy và nhận định trong quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa nhà tư bản và lao động mang tính
bóc lột sâu sắc mà trong đó người chịu bóc lột là người lao động và người hưởng lợi là các nhà tư
bản. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, tư duy của K. Marx còn mang tính vượt trội so với các nhà
kinh tế cùng thời đại khi Marx hiểu được mối quan hệ ấy trên mặt kinh tế. Xét trên mặt kinh tế,
nhà tư bản đã tuân thủ quy luật giá trị và quy luật kinh tế khi sử dụng thù lao, tiền công với vai trò
như vật ngang giá để trả cho công nhân một lượng bằng giá trị hàng hóa sức lao động mà công
nhân đem lại sau khi đã thông qua các hình thức thỏa thuận, trao đổi, ký kết hợp đồng giữa hai
bên: người thuê – người được thuê hay nhà tư bản – người lao động. Nói tóm lại, từ thực tế mối
quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và người lao động, ta còn hiểu ra về bản chất giá trị thặng dư trong
kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp của hai giai cấp tư sản và công nhân mà trong đó, “các nhà tư
bản làm giàu dựa trên cơ sở thuê mướn lao động của giai cấp công nhân” (trích sách giáo trình)
.
Có hai con đường sản xuất giá trị thặng dư là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
là phương pháp “kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động
cần thiết không thay đổi”
còn phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp
“rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng
dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.”

Từ định nghĩa trên, có thể rõ ràng nhận xét phương pháp mà K. Marx đang muốn nhấn mạnh ở
đây khi “thời gian và cường độ của ngày lao động là tăng lên” là con đường bóc lột giá trị thặng lOMoAR cPSD| 61557118
dư tuyệt đối. Con đường bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được K. Marx coi là tinh vi bởi lẽ nhà
tư bản vừa có thể tối ưu chi phí sản xuất mà vẫn góp phần gia tăng sản lượng, số lượng hàng hóa
được sản xuất để tối đa lợi nhuận. Khi số lượng người lao động được giữ nguyên không đổi, nhà
tư bản sẽ tiết kiệm được chi phí nhân công hay số tiền phải chi trả cho tiền công danh nghĩa cho
người lao động mà vẫn có thể tạo ra giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư ấy được lấy từ chính thời
gian lao động thặng dư của công nhân khi ngày lao động được kéo dài. Thời gian ngày lao động
được xác định là lớn hơn thời gian lao động cần thiết và nhỏ hơn 24 giờ bởi công nhân cũng cần
có thời gian sinh hoạt (ăn, ngủ, nghỉ, giải trí) nên ngày lao động không thể kéo dài bằng ngày tự
nhiên và ta cũng cần đảm bảo cường độ lao động không vượt quá sức người. Vì vậy: Thời gian
lao động tất yếu <= Ngày lao động < 24 giờ. Trong đó, thời gian lao động tất yếu là thời gian công
nhân phải bỏ ra để tạo ra lượng giá trị ngang với hàng hóa sức lao động của mình. Thời gian còn
lại trong ngày lao động là thời gian lao động thặng dư mà trong khoảng thời gian lao động thặng
dư ấy, công nhân tạo ra thêm giá trị thặng dư cho xã hội. Để chứng minh phương pháp gia tăng giá
trị thặng dư tuyệt đối khiến tư bản gia tăng, ta có thể xem xét ví dụ sau với tổng khối lượng nhân
công giống nhau, tổng tư bản khả biến (số tiền mà nhà tư bản phải trả cho hàng hóa sức lao động)
mà nhà tư bản phải chịu là giống nhau:
Không áp dụng gia tăng giá trị thặng Đã áp dụng gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối dư tuyệt đối Ngày lao động 8 giờ 12 giờ
Thời gian lao động 4 giờ 4 giờ tất yếu
Thời gian lao động 4 giờ 8 giờ thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng 100% 200% dư
Trong đó, tỷ suất giá trị thặng dư được tính bằng công thức:
m’ = Thời gian lao động tất yếu / Thời gian lao động thặng dư * 100%.
Tỷ suất giá trị thặng dư thể hiện trình độ khai thác sức lao động làm thuê của nhà tư bản đối với
nhân công, đó là mức độ bóc lột của tư bản dựa trên thời gian lao động tất yếu (người lao động
hoạt động và nhận được giá trị tương đương với tiền công) và thời gian lao động thặng dư (người
lao động bị bóc lột để tạo ra giá trị dư thừa cho nhà tư bản). Nói cách khác, trong ngày làm việc
12 giờ, số tiền công công nhân nhận lại chỉ tương ứng với 4 giờ làm việc, giá trị còn lại sẽ về tay
nhà tư bản tạo thành giá trị thặng dư hay cứ mỗi giờ làm việc được trả công, người công nhân phải
lao động thêm 2 giờ không công để tạo giá trị thặng dư cho tư bản. Vì vậy, có thể nói việc kéo dài
ngày lao động tuyệt đối sẽ giúp gia tăng tổng tư bản thặng dư của nhà tư bản, góp phần làm giàu
và tối đa lợi nhuận của nhà tư bản. lOMoAR cPSD| 61557118
Dù vậy, việc sử dụng phương pháp gia tăng giá trị thặng dư, “tổng số tư bản được sử dụng đó vẫn
phải tăng lên, mặc dù chỉ là để sử dụng vẫn một khối lượng lao động như trong điều kiện bóc lột
cũ”.
Tổng số tư bản được sử dụng chính là phần tư bản được sử dụng trong quá trình sản xuất sản
phẩm, bao gồm tư bản khả biến (phần tư bản để trả tiền công cho công nhân) và tư bản bất biến
(phần tư bản phải trả cho máy móc, trang, thiết bị,...). Sở dĩ để duy trì hay kéo dài ngày lao động,
nhà tư bản vẫn phải chi trả cho tư liệu sản xuất để đáp ứng cường độ công việc cao bằng việc duy
trì máy móc hoặc đầu tư vào hệ thống quản lý, giám sát để đảm bảo năng suất không đổi. Điều này
đã dẫn đến việc chi phí sản xuất gia tăng hay tổng tư bản sử dụng cao hơn dù số lượng công nhân
là không đổi, điều kiện lao động là không khác biệt.
Nói tóm lại, K. Marx đã nêu bật mối quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và người lao động với hình
thức bóc lột đầy tinh vi và mạnh mẽ mà cụ thể là phương pháp gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối.
Marx khẳng định rằng dù số lượng nhân công không đổi, nhà tư bản vẫn đạt lợi nhuận chỉ từ việc
kéo dài ngày lao động của công nhân. Từ đó, làm gia tăng mâu thuẫn giữa nhà tư bản và người lao
động, góp phần làm động lực thúc đẩy sự đấu tranh giai cấp quyết liệt trên toàn xã hội.