Kể về bà tổ của nghề may
Lên lớp 5, em được học về thêu và cắt may. Hoạt động này khiến em cảm thấy rất
thú vị. Nên khi về nhà, em đã tìm hiểu thêm về nó. Và một trong những điều thú vị
mà em tìm hiểu được chính là câu chuyện về bà tổ của nghề may nước ta, bà
Nguyễn Thị Sen.
Theo em tìm hiểu, Bà Nguyễn Thị Sen sinh ra và lớn lên ở làng Trạch Xá, xã Hòa
Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây. Khi lớn lên bà là một người con gái xinh đẹp,
nết na, đảm đang, giỏi giang việc trồng dâu, dệt vải, may mặc, thêu thùa.
Khi Vua Đinh Tiên Hoàng về trấn Sơn Tây để tìm kiếm các bậc hiền tài giúp nước,
lúc đến làng Trạch Xá đã cảm mến và kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Sen. Nhà vua
phong bà làm Tứ Phi Hoàng Hậu.
Tại cung vua, bà là người đứng đầu Bộ May trang phục Hoàng triều. Với trí thông
minh, sự khéo léo và sáng tạo, bà đã cùng các cung phi tạo nên các loại quần áo
của vua, quan, hoàng tử, công chúa. Bộ trang phục nào cũng vừa trang trọng vừa
tiện lợi. Đặc biệt đã đào tạo được đội ngũ người may, người thêu thùa đông đảo.
Bà dạy cho các cung nữ từng đường kim, mũi chỉ, phát triển nghề may trong cung
vua.
Vào năm 979 Vua Đinh Tiên Hoàng bị gian thần sát hại. Thất vọng trước cảnh
triều đình rơi vào chiến loạn. Bà đã đưa các con từ giã hoàng cung trở về làng
Trạch Xá. Tại đây, bà đã mang nghề may trong cung truyền dạy cho dân làng và t
đó nghề may đã phát triển đời này nối tiếp đời sau, đến nay đã được hơn ngàn năm.
Bà mất vào ngày 12 tháng Chạp. Để con cháu muôn đời biết về công đức gây dựng
nghề may của bà, người dân làng Trạch Xá đã lập đền thờ suy tôn bà là Đức Thánh
Tổ nghề may và tổ chức lễ hội giỗ tổ vào ngày 12 tháng Chạp âm lịch hàng năm.
Kể về nữ anh hùng Bà Triệu
Khi nói đến những nữ tướng dũng mãnh, tài hoa thời phong kiến, người ta thường
nhắc ngay đến Hai Bà Trưng. Những đối với em, nữ tướng mà em ngưỡng mộ nhất
chính là Bà Triệu - Triệu Thị Trinh.
Bà Triệu Thị Trinh còn được gọi là Triệu Trinh Nương, sinh ngày 02 tháng 10 năm
226 tại miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà đã tỏ ra là người mạnh mẽ, thông minh, tài sắc khác
thường. Đến tuổi trưởng thành bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ trai tráng,
tập hợp quân sĩ dấy binh khởi nghĩa ở đất Quan Yên, được dân chúng khắp vùng
nô nức tham gia. Từ miền đất Quan Yên, Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Chu
tiến về ngàn Nưa, sau đó vượt sông Mã ra Bồ Điền. Sau đó, nghĩa quân nhanh
chóng thu phục được các thành, ấp ở quận Cửu Chân và một số vùng của quận
Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng như vũ bão và làm “ Chấn động Giao Châu”
lúc bấy giờ.
Năm 248, Ngô Triều phải phái Lục Dận đem theo tám nghìn quân tinh nhuệ để đàn
áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Do lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ
sức chống lại một đạo quân lớn hơn mình gấp bội. Nên trong một trận huyết chiến
với quân thù, trước thế mạnh và mưu kế hiểm độc, đê hèn của giặc, bà Triệu đã
tuẫn tiết ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248 khi bà chỉ mới 22
tuổi.
Bà Triệu là một nữ anh hùng thực sự của đất nước ta với sự dũng cảm, can trường
của mình. Noi gương bà, em sẽ cố gắng học tập thật giỏi, để khi lớn lên góp sức
mình xây dựng đất nước vững mạnh hơn.
Kể về nữ anh hùng Trưng Trắc - Trưng Nhị
Bài văn mẫu 1
Thuở xưa, nước ta bị quân Hán đô hộ. Chúng rất tàn ác, hà hiếp nhân dân ta và ra
sức vơ vét của cải.
Bấy giờ ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi: chị là Trưng Trắc và em là
Trưng Nhị. Cả hai bà đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Trưng Trắc
có chồng là Thi Sách. Thi Sách là Lạc tướng cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng
giặc là Tô Định làm thứ sử Giao Châu thời ấy biết được bèn lập mưu giết chết Thi
Sách. Nợ nước, thù nhà, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Quân của hai bà đi đến
đâu, giặc tan đến đó. Với đoàn quân khởi nghĩa hừng hực khí thế chiến đấu và
chiến thắng, Hai Bà tiến về giải phóng thành Luy Lâu. Tướng giặc Tô Định tháo
chạy về nước. Hai Bà lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Năm 43, quân giặc cử Mã Viện, đại tướng lão luyện đốc quân đàn áp cuộc khởi
nghĩa. Hai Bà lãnh đạo quân ta chiên đấu anh dũng nhưng vì thế giặc quá mạnh,
yếu thế, Hai Bà nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Dân ta lại chìm trong vòng
áp bức của giặc phương Bắc. Dù vậy, tấm gương oanh liệt của Hai Bà Trưng vẫn
ngời sáng nghìn thu.
Bài văn mẫu 2
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam chúng ta có rất nhiều
vị anh hùng dũng cảm đã đứng lên để bảo vệ non sông bờ cõi của nước ta. Trong
những vị anh hùng kiên cường dũng cảm đó em luôn cảm thấy yêu mến và ngưỡng
mộ hai vị nữ anh hùng Hai Bà Trưng. Hai Bà là một trong những nữ tướng ít ỏi
trong lịch sử nước ta khiến kẻ thù phải khiếp sợ hồn bay mất vía.
Sau khi làm chủ vùng đất Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc của nước ta hiện nay, bà
Trưng Trắc lên làm vua và lấy hiệu là Trưng Vương. Bà đã nối tiếp truyền thống
hào hùng của thời Vua Hùng để lại bảo vệ bờ cõi lãnh thổ của quê hương mình.
Nhưng, sau đó không lâu quân xâm lược đã quay trở lại mục đích thôn tính nước ta
một lần nữa. Lúc này Hai Bà Trưng kiên quyết chống trả bằng ý chí quật cường,
nhưng do quân địch quá đông và mạnh mẽ nên Hai Bà Trưng đã thất bại và tử trận
tại Hát giang song tinh thần chiến đấu quật cường của hai bà luôn còn sống mãi với
non sông đất nước Việt Nam chúng ta.
Dù cuộc chiến đấu của Hai Bà Trưng bị thất bại nhưng nó đã làm nên ý nghĩa vô
cùng to lớn, tên tuổi của hai bà đã được lưu danh sử sách về hai vị nữ lãnh tướng
đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Dù là thân phận nữ nhi sống trong thời kỳ trọng
nam khinh nữ nhiều điều lễ giáo ràng buộc, nhưng Hai Bà Trưng đã thể hiện ý chí
của mình không chịu thua kém các đấng nam nhi, khi giặc tới nhà thì đàn bà cũng
phải đánh.
Các con cháu thế hệ hôm nay luôn khắc cốt ghi tâm về công lao to lớn mà Hai Bà
Trưng để lại. Những người phụ nữ Việt Nam dù thời nào cũng luôn quật cường
anh dũng là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.
Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Định
Bài văn mẫu 1
Một nữ anh hùng của nước ta mà em luôn luôn kính nể và tự hào chính là nữ tướng
Nguyễn Thị Định.
Bà là một nữ anh hùng đến từ vùng đất Bến Tre. Từ năm 16 tuổi, bà đã bắt đầu
tham gia hoạt động cách mạng. Bà hoạt động sôi nổi ở nhiều nhiệm vụ, như đảm
nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và vận động quần chúng đấu tranh. Hai
năm sau, bà vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Năm 1940 bà và chồng
không may bị giặc bắt được. Chồng bà không may bị chúng đem đi xử bắn. Còn bà
thì bị đem đi biệt giam. Tuy nhiên, điều đó không hề làm hao mòn đi ý chí chiến
đấu trong bà. Khi được trả tự do, bà lại tiếp tục hoạt động cách mạng với các
nhiệm vụ nguy hiểm hơn nữa. Bà bí mật tham gia vận chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc
vào Nam bằng con đường biển, từ đó mở ra con đường huyền thoại Hồ Chí Minh
trên biển. Sau đó, bà còn tham gia khởi xướng phong trào Đồng Khởi, mở đầu cho
cuộc đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang rộng khắp miền Nam. Ngoài ra,
bà còn tham gia nhiều hoạt động quan trọng khác, góp sức mình vào sự nghiệp
thống nhất đất nước, Vì vậy, bà vinh dự trở thành nữ tướng duy nhất ở thế kỉ XX
của nước ta.
Bà Nguyễn Thị Định chính là một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và sự can
trường, dũng cảm cho thế hệ phụ nữ mai sau của nước ta noi theo.
Bài văn mẫu 2
Bác Hồ đã từng nói rằng: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Thật vậy, trong suốt
những năm tháng khói lửa, nhân dân ta không phân biệt già trẻ, gái trai, ai ai cũng
tham gia góp sức chống giặc. Trong đó, những người phụ nữ cũng chiến đấu vô
cùng anh dũng. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến bà Nguyễn Thị Định
- nữ tướng duy nhất ở thế kỉ XX của nước ta.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh năm 1920, là con út trong gia đình có 10 người
con ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà thường được người dân
Bến Tre gọi bằng cái tên thân mật là “cô Ba Định”. Khi tròn 16 tuổi, bà bắt đầu
tham gia cách mạng, đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và vận động
quần chúng đấu tranh. Hai năm sau khi tham gia cách mạng, bà vinh dự được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà kết hôn với
ông Nguyễn Văn Bích, Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Năm 1940, cả hai vợ chồng bà
bị giặc Pháp bắt giữ, ông Bích bị đày ra Côn Đảo và sau đó bị giết hại, còn bà bị
biệt giam tại nhà tù Bà Rá, nay thuộc tỉnh Bình Phước. Đến tận năm 1943, bà mới
được trả tự do và trở về quê hương.
Sau khi trở về, bà lại tiếp tục kiên cường, anh dũng tham gia vào các hoạt động
cách mạng. Tháng 4 năm 1946, bà được cử ra Bắc báo cáo với Bác Hồ về tình hình
chiến trường Nam Bộ. Sau đó, bà được Đảng tin tưởng, giao nhiệm vụ bí mật vận
chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam bằng con đường biển, từ đó mở ra con
đường huyền thoại: đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ năm 1954 đến năm 1959, bà
được chỉ định làm Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm
ráo riết tìm bắt. Năm 1960, bà được bầu làm Phó Bí thư và sau đó là Bí thư Tỉnh
ủy Bến Tre để cùng với những người yêu nước khởi xướng phong trào Đồng Khởi,
mở đầu cho cuộc đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang rộng khắp miền
Nam. Giai đoạn 1965 - 1974, bà được bầu là Phó Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ
trang quân giải phóng miền Nam. Tháng 4 - 1974, bà được phong quân hàm Thiếu
tướng, trở thành nữ tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định đã sống một cuộc đời trọn vẹn với non sông, đất nước.
Cuộc đời dù trải qua nhiều mất mát đau thương nhưng bà đã vượt qua tất cả, luôn
sống trọn vẹn nghĩa tình với đồng đội, với nhân dân, hy sinh mọi hạnh phúc riêng
tư để lo toan cho hạnh phúc của mọi người.
Kể về nữ anh hùng Võ Thị Thắm
Trong những năm tháng chiến tranh, học sinh, sinh viên cũng là một lực lượng vô
cùng đông đảo, nhiệt tình tham gia đấu tranh để giành lại độc lập cho tổ quốc.
Trong đó, không thể không nhắc đến sinh viên Võ Thị Thắm.
Chị sinh ra và lớn lên từ tỉnh - Long An, vùng đất nổi tiếng trung dũng, kiên
cường, toàn dân đánh giặc. Từ nhỏ, chị đã nhiệt tình tham gia vào các hoạt động
cứu nước. Năm 9 tuổi chị đã đi đưa thư liên lạc, mang cơm cho các chiến sĩ cách
mạng đang được bố mẹ mình che chở, nuôi giấu trong hầm bí mật. Năm 16 tuổi chị
là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An. Đến khi 17
tuổi chị được điều về Sài Gòn hoạt động bí mật trong Phong trào Thanh niên –
Sinh viên – Học sinh rồi đến Phong trào Công nhân, lực lượng vũ trang trong lòng
đô thị.
Trong chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968, trong khi thực hiện nhiệm vụ thì
chị không may bị giặc bắt. Chị bị giam giữ ròng rã suốt sáu năm, bị tra tấn, đày đọa
dã man. Nhưng tinh thần yêu nước của chị vẫn không hề khuất phục. Mãi đến khi
Hiệp định Paris được kí kết, thì chị và các đồng chí khác mới được thả về.
Sau này, khi hòa bình lập lại, chị lại tiếp tục tham gia xây dựng, đóng góp cho đất
nước. Chị được phân công công tác ở Thành đoàn, Hội Liên hiệp phụ nữ Thành
phố Hồ Chí Minh, sau đó được giao nhiệm vụ giữ chức Phó Chủ tịch thường trực
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Một thời gian sau, chị được được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và khóa IX. Đóng vai trò là Đại biểu Quốc
hội các khóa IX, X và XI, nhận nhiệm vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, Chủ
tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba đến khi nghỉ hưu.
Chị Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng thực sự cả ở thời chiến và thời bình.
Nhũng đóng góp của chị là vô cùng to lớn đối với dân tộc.
Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Chiên
Nước Việt Nam ta là một đất nước của rất nhiều những anh hùng, trong đó, những
nữ anh hùng cũng rất nhiều và xuất sắc. Trong đó, người mà em ấn tượng nhất là
bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong
phong trào du kích ở vùng tạm chiếm, những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp bà vừa là người phụ nữ duy nhất được giữ chức vụ bí thư, vừa là chỉ
huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, bà giật mìn tiêu diệt một tiểu đội địch
đi tuần tra trên đường 39. Sau này, trong một lần hoạt động, bà không may bị giặc
bắt được. Chúng đã tra tấn bà dã man, đến chết đi sống lại nhiều lần, nhưng bà vẫn
nhất quyết không chịu khai. Thế là cuối cùng giặc buộc phải thả bà ra. Sau khi
được thả, bà trở về quê. Tại đây, bà lại được chi bộ bố trí nhiệm vụ trong đội du
kích. Ngoài việc luyện tập canh gác chống giặc quấy rối và tấn công địch, bà còn
lãnh đạo chị em khai hoang, cấy lúa, chăn nuôi gà để có lượng thực và bàn lấy tiền
mua sắm vũ khí.
Năm 1951, bằng tay không, bà đã dùng mưu bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ,
thu được bảy khẩu súng. Sau đó bà lại dùng mưu bắt tên sĩ quan Pháp chỉ huy
trong một trận càn quét của chúng ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến
sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, bà được Hồ Chủ Tịch tặng một khẩu súng ngắn,
được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huân chương Quân công hạng
Ba và chị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một vị nữ anh hùng kính trọng. Khiến cho em và rất nhiều
người ngưỡng mộ. Em sẽ noi gương bà, học tập, rèn luyện hết sức mình để cống
hiến cho tổ quốc.
Kể về nữ anh hùng Võ Thị Sáu
Bài văn mẫu 1
Tuổi thơ em luôn tràn ngập những câu chuyện của bà. Đó là thế giới của những
nhân vật cổ tích, của những người anh hung dũng cảm hy sinh về đất nước. Trong
đó, em luôn nhớ câu chuyện về người nữ anh hùng Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một miền quê với truyền thống
yêu nước. Từ nhỏ chị Sáu đã chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào.
Bởi vậy 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến
khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ liên lạc, tiếp tế. Chị đã lập nhiều chiến tích vang dội, diệt trừ tên ác ôn và nhiều
lần phát hiện gian tế.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm
Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ
động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị đã ném lựu đạn về phía khán đài, uy
hiếp giải tán mít tinh và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau chiến công này, chị
Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian,
bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng. Thế nhưng không may mắn một lần nhận
nhiệm vụ ném lựu đạn chi đã bị giặc bắt. CHị bị tra tấn dã man nhưng không hề
khai báo điều gì. Bọn địch đã kết án tử hình cho chị và chuyển chị ra nhà tù Côn
Đảo.
Trên đường ra chiến trường, chị không hề sợ hãi, ngắt một bông hoa ven đường và
tặng cho người lính hành hình chị. Trước cái chết, chị kiên quyết không quỳ
xuống, từ chối bịt mắt, đối diện với cái chết của mình rất bình tĩnh. Điều ân hận
nhất của chị là chưa diệt hết được bọn thức dân Pháp. Trước khi chết, Chị Sáu bắt
đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng
“Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn
năm!”. Chị đã ngã xuống nhưng chắc chắn tấm gương của chị vẫn còn sáng mãi.
Chị Võ Thị Sáu chính là bức tượng đài tuyệt đẹp của tinh thần dũng cảm, bất
khuất, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Em thấy mình cần cố gắng học thật giỏi để xây
dựng đất nước, để cho công lao của những con người đi trước không uổng phí.
Bài văn mẫu 2
Đất nước Việt Nam trải qua bốn nghìn năm dựng và giữ nước, có biết bao tấm
gương đã anh dũng hi sinh vì độc lập cho dân tộc. Trong các tấm gương về nữ anh
hùng, người khiến em khâm phục và ngưỡng mộ nhất là chị Võ Thị Sáu - người
con gái miền đất đỏ với tinh thần không hề nao núng trước kẻ thù.
Chị Sáu là nữ anh hùng, sinh năm 1933 ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Sinh ra và
lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến cảnh thực dân
Pháp giết chóc đồng bào, chị đã không ngần ngại cùng các anh trai tham gia cách
mạng. Năm 14 tuổi, người con gái dũng cảm đã theo anh gia nhập Việt Minh, trốn
lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều
trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị
thương nhiều lính Pháp.
Tháng 2/1950, chị dẫn đầu một tổ, dùng lựu đạn tập kích diệt hai tên ác ôn Cả
Suốt, Cả Đay. Không may chị bị sa vào tay địch. Bị bắt giam, chị Sáu tiếp tục làm
liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù đấu tranh đòi cải thiện
cuộc sống nhà tù. Chúng dùng mọi cực hình tra tấn, nhưng không khai thác được
gì, liền đưa chị về giam ở khám Chí Hòa, Sài Gòn để tiếp tục khai thác và sau đó
mở phiên tòa, tuyên án tử hình chị. Tại phiên tòa, tuy mới 17 tuổi, nhưng chị Võ
Thị Sáu đã hiên ngang tỏ rõ khí phách anh hùng của một thiếu nữ Việt Nam làm
cho lũ quan tòa và đồng bọn đều phải nể sợ.
Ngày 23/1/1952, chúng thi hành bản án, bắn chết chị ở ngoài hòn đảo xa đất liền
này sau hai ngày chúng đưa chị ra đây. Biết sắp bị hành hình, suốt đêm 22, chị đã
gửi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng: Lên đàng,
Tiến quân ca, Cùng nhau đi hùng binh... Bốn giờ sáng, viên cố đạo liền lên tiếng:
"Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?". Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và
mặt tên chánh án, trả lời: "Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp
nước và lũ tay sai bán nước".
Ra đến pháp trường, tên chánh án hỏi chị: "Còn yêu cầu gì trước khi chết?". Chị
nói: "Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu
đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các
người!". Khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức
ngưng hát và hét lên: "Đả đảo thực dân Pháp!". "Việt Nam độc lập muôn năm!".
"Hồ Chủ tịch muôn năm!".
Tinh thần bất khuất, dũng cảm của chị Võ Thị Sáu đã truyền cảm hứng cho biết
bao thế hệ thanh niên Việt Nam, tiếp tục viết nên lịch sử đấu tranh hào hùng của
dân tộc. Cảm phục trước tấm gương người nữ anh hùng, chúng em tự hứa sẽ cố
gắng học tập thật tốt hơn nữa để xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và tươi
đẹp hơn, xứng đáng với sự hi sinh anh dũng của các thế hệ đi trước.
Bài văn mẫu 3
Khi nói về những tấm gương hi sinh trong chiến tranh khốc liệt, không ai trong
chúng ta không biết đến chị Võ Thị Sáu - một cô gái ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ.
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại tỉnh Bà Rịa. Chị được nhân dân yêu thương, gọi
là “ Người con gái đất đỏ”. Khi giặc Pháp tràn vào quê hương, Võ Thị Sáu mới 12
tuổi nhưng đã vô cùng dũng cảm, dám ném lựu đạn giết chết ba tên chỉ huy Pháp.
Đặc biệt chị rất nổi tiếng về khả năng tình báo, biệt động và giao liên. Tuy nhiên,
trong một lần làm nhiệm vụ, chị ám sát hụt tên Việt gian Đốc phủ Tòng. Thế là chị
Võ Thị Sáu bị Pháp bắt vào năm 15 tuổi. Ở trong tù, chị vẫn tiếp tục hoạt động,
cống hiến cho cách mạng. Tháng 12 năm 1952, Pháp đem chị ra Côn Đảo giam ở
nhà lao “Đá trắng”. Khi giặc xử bắn chị, chúng đưa một cố đạo đến rửa tội, chị
mắng: “Tao là người yêu nước, tao không có tội, chỉ chúng mày là quân cướp nước
tao, giết dân tao mới là kẻ có tội.” Trước khi từ giã cõi đời, chị hô vang: “Việt
Nam muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”. Chị Võ Thị Sáu hi sinh khi chưa đầy 17
tuổi - khi còn quá trẻ. Sau này, khi hòa bình lập lại, vào năm 1993, Nhà nước đã
truy tặng chị danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Huân chương chiến công
hạng Nhất.
Mỗi khi nhớ đến hình ảnh kiên cường, bất khuất của chị Võ Thị Sáu, em lại càng
quý trọng nền hòa bình hôm nay. Em sẽ cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt để góp
sức mình phát triển đất nước giàu mạnh hơn.
Bài văn mẫu 4
Võ Thị Sáu - một người con gái sinh ra ở vùng Đất Đỏ thuộc vùng Long Đất, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu của nước Việt Nam ta ngày nay. Chị sinh năm 1933, là người
con gái vô cùng thông minh, mưu trí, có tinh thần yêu nước và dũng cảm. Dù tuổi
đời còn rất nhỏ nhưng chị đã tham gia làm liên lạc viên cho đoàn quân cách mạng
của chúng ta và lập được rất nhiều chiến công hiển hách đáng khen thưởng.
Năm 1948, chị được cấp trên giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó chính là
phải đánh phá một buổi lễ mít tinh nhằm kỷ niệm ngày chào mừng Quốc khánh của
thực dân Pháp để gây nhiễu loạn và phá hoại âm mưu của kẻ thù. Tại buổi lễ mít
tinh đó chị Võ Thị Sáu đã tung lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành
Trường - một lãnh đạo cấp cao của bè lũ tay sai cho thực dân Pháp để giải tán đám
đông. Chính chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu của chúng ta lập thêm
nhiều chiến công khác oanh liệt hơn.
Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao cho nhiệm vụ tiêu diệt
kẻ gian tế, nên tháng 2 năm 1950 trong khi đi làm nhiệm vụ chị đã bị kẻ thù bắt
giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta vô cùng dã man,
bắt chị khai ra những đồng đội của mình. Nhưng chị anh dũng kiên quyết không
khai chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn tàn bạo như dùng dùi điện cho điện giật
vào người chị, hay dùng dùi nung lửa nóng khoan lên người chị… Nhưng mọi hình
thức tra tấn dã man thời trung cổ đó càng làm chị thêm căm hận kẻ thù chị kiên
quyết không hé răng nửa lời.
Cuối cùng không làm được gì chị Võ Thị Sáu chúng buộc lòng đày chị ra Côn Đảo
là nơi chuyên giam giữ và đày đọa những người tù chính trị của nước ta, là nấm
mồ chôn thân của rất nhiều người anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam ta.
Tới ngày 23/1/1952, chị Võ Thị Sáu anh hùng của chúng ta bị mang ra pháp trường
xử tử khi tuổi đời chỉ tròn mười chín tuổi. Cho tới sau này khi đất nước chúng ta
hoàn toàn sạch bóng kẻ thù năm 1993 chị Võ Thị Sáu được phong danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ vô cùng trẻ tuổi
của ta được vinh danh thiên cổ.
Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng
vì những gì chị đã hy sinh cho quê hương, tổ quốc để chúng em hôm nay được
hưởng cuộc sống thái bình.
Bài văn mẫu 5
Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như suối như người Việt nam
Đất nước Việt Nam trải qua hơn 4000 năm lịch sử với biết bao biến cố, thăng trầm,
chịu rất nhiều cuộc xâm lăng của các nước lớn. Nhân dân ta tuy hiền lành tay cuốc,
tay cày nhưng khi có kẻ thù giày xéo quê hương, lòng yêu nước lại trỗi dậy “ kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước”.
Trong làn sóng yêu nước ấy sinh ra biết bao vị anh hùng. Một trong những vị anh
hùng làm em cảm phục là chị Võ Thị Sáu
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933, tại xã Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Vũng Tàu-
Côn Đảo. Tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi rồi nhanh chóng trở thành nữ chiến
sĩ trinh sát nổi tiếng gan dạ của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1950, chị
Sáu bị địch bắt trong lúc đang tham gia trận đánh tiêu diệt tề ở chợ quê gần nhà
mình. Hơn 1 năm bị giam cầm trong khám Chí Hòa, "nếm" đủ thứ đòn roi và đủ
"mùi" tra tấn..., nhưng chị Võ Thị Sáu vẫn nêu cao tấm gương dũng cảm vươn lên,
không khuất phục kẻ thù.
Bài văn mẫu 6
Chị Võ Thị Sáu là một nữ anh hùng mà em vô cùng yêu mến và ngưỡng mộ.
Chị ấy là một người con gái trẻ tuổi, nhỏ bé như bao cô gái bình thường khác.
Nhưng ẩn bên trong dáng hình ấy, là một trái tim dũng cảm và mạnh mẽ vô cùng.
Mới 14 tuổi, chị đã trở thành một chiến sĩ trinh sát thuộc Đội Công an xung phong
Đất Đỏ. Ai cũng biết đến và ngưỡng mộ sự gan dạ của chị. Suốt thời gian hoạt
động, chị nhiều lần tham gia các nhiệm vụ khó và nguy hiểm, nhưng vẫn hoàn
thành xuất sắc. Nhưng một lần nọ, khi đang thực hiện nhiệm vụ thì chị không may
bị giặc bắt được. Chúng giam cầm, tra tấn và dụ dỗ chị bằng nhiều cách, nhưng
không thể nào lung lay được ý chí của chị Sáu. Cuối cùng, chúng đã quyết định xử
bắn chị. Lúc ấy, chị còn chưa đủ 18 tuổi. Dù vậy, khi ra pháp trường, chị vẫn hiên
ngang bước đi, không một chút gì là sợ hãi cả. Sự ra đi của chị để lại cho nhân dân
ta nỗi xót xa và thương tiếc vô cùng. Nhưng chính chị Võ Thị Sáu cũng trở thành
một ngọn cờ giương cao cho tình yêu nước và sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của
tổ quốc.
Em thật tự hào biết bao khi đất nước ta có một nữ anh hùng tuyệt vời như chị Sáu.
Kể về nữ anh hùng Hai Bà Trưng
Bài văn mẫu 1
Hai Bà Trưng – hai vị nữ anh hùng
“Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.”
Là con dân đất Việt, chắc hẳn chúng ta đều đã từng nghe danh tiếng của Bà Trưng
được nhắc đến trong câu thơ. Hai Bà Trưng là hai nữ anh hùng bất khuất, gan dạ
trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của đất nước ta.
Em đã được học câu chuyện về Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, người chị
tên là Trưng Trắc, người em tên là Trưng Nhị. Hai bà quê ở huyện Mê Linh, từ nhỏ
đã nổi tiếng là hai người con gái tài giỏi. Cha hai bà mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai
chị em đều giỏi võ nghệ.
Thuở ấy, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Chúng đàn áp dân lành hết sức tàn bạo. Chúng
thẳng tay chém giết dân ta, cướp hết ruộng đất của dân. Nhân dân ta mang lòng oán
hận ngút trời, chỉ chờ dịp để vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Chồng bà Trưng
Trắc là Thi Sách cũng mang trong mình chí hướng giành lại non sông. Tướng giặc
là Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách.
Nhận được tin không lành, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội
kẻ thù. Hai Bà Trưng mặc giáp phục lộng lẫy, bước lên vành voi đầy uy nghi.
Đoàn quân hùng hồn lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn
tràn theo bóng voi ẩn hiện của hai bà. Đi đến đâu, tiếng trống đồng của quân ta dội
vàng đất trời tới đó. Cuối cùng, thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới đoàn quân
khởi nghĩa. Tướng giặc sợ hãi, ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân
thù.
Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử đất
nước ta. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, dân ta đã lập đền thờ Hai Bà Trưng. Hằng
năm, cứ độ xuân về, vùng Mê Linh lại rộn ràng tiếng chiêng, tiếng trống đón hội.
Hai bà quả thực là những vị nữ tướng dũng cảm, anh hùng, đáng cảm phục.
Bài văn mẫu 2
Trong lịch sử nước ta, đã rất nhiều lần nhân dân ta đứng lên, đoàn kết chống quân
xâm lược. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng - hai vị nữ
tướng đầu tiên của nước ta.
Theo sách sử, thì Hai Bà Trưng là dòng dõi của người đứng đầu cai quản vùng đất
Mê Linh vào thời Hùng Vương, gồm hai chị em là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc
bấy giờ, giặc phương Bắc cai trị nước ta với chính sách tàn bạo khiến lòng dân vô
cùng căm phẫn. Vào mùa xuân năm 40, Thi Sách - chồng của Trưng Trắc bị Tô
Định (một tên Thái Thú người Hán) giết hại. Sự kiện này như một mồi lửa, làm
bùng lên lòng căm hận quân đô hộ, và khát vọng độc lập tự chủ trong lòng Hai Bà
Trưng. Vậy nên, vào một sáng mùa xuân năm ấy tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã
làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Trong tiếng trống đồng trầm hùng, âm vang lời thề của Hai
Bà trước giờ xuất binh:
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng,
Ba kêu oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.
Bà Trưng Trắc đã cùng em gái của mình là Trưng Nhị đứng đầu cuộc khởi nghĩa.
Bà Trưng Trắc thu hút được sự tin tưởng của nhân dân bởi sự can đảm, hùng dũng
của mình. Cuộc khởi nghĩa này đã liên kết được sức mạnh toàn dân, trong đó có
đông đảo phụ nữ, như các nữ tướng: Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiều Hoa…
Sau đó, lan dần ra toàn quốc, gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đất Việt Nam
ngày nay) rồi đến cả Hợp Phố (phía nam Quảng Đông - Trung Quốc ngày nay).
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi và
được tôn làm vua, đứng đầu đất nước. Nền độc lập quý giá ấy được duy trì trong
thời gian ba năm (từ năm 40 đến năm 43). Đến năm 41, nhà Hán sai Phục Ba tướng
quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tái xâm lược, Hai Bà Trưng đã dũng cảm
đương đầu cùng quân giặc. Tổ chức kháng chiến với những trận đánh lớn từ Tây
Vu, Lãng Bạc đến Cẩm Khê. Cuối cùng đã hy sinh anh dũng tại dòng Hát giang
vào ngày 6 tháng 2 năm 43, để lại tấm gương oanh liệt nghìn thu.
Hai bà chính là tấm gương sáng rọi về tinh thần yêu nước và chiến đấu chống giặc
anh dũng cho con cháu đời sau.
Bài văn mẫu 3
Năm 34 sau tây lịch, nhà Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một người tham lam tàn bạo. Dân chúng vô cùng oán hận, Lạc hầu, Lạc
tướng cũng căm hờn. Còn Lạc tướng huyện Châu Diên là Thi Sách, mưu tính việc
chống quân Tàu. Tô Định hay được bèn giết Thi Sách đi. Vợ Thi Sách là Trưng
Trắc nổi lên đánh Tô Định để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước.
Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh, nay thuộc tỉnh Phúc Yên. Khi bà cùng
em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa thì các Lạc tướng và dân chúng hưởng ứng rất
đông. Chẳng bao lâu, quân Hai Bà Trưng tràn đi khắp nơi, chiếm được 65 thành trì.
Tô Định chống cự không lại trốn chạy về Tàu. Hai Bà lên ngôi vua, đóng đô ở Mê
Linh (năm 40 sau tây lịch). Dân chúng vui mừng độc lập.
Trưng Nữ Vương trị vì được hơn một năm thì nhà Đông Hán sai danh tướng là Mã
Viện đem binh sang đánh. Quân của Mã Viện là quân thiện chiến, quân ta thì mới
nhóm lên, nhưng nhờ sự dũng cảm, quân ta thắng được mấy trận đầu. Quân giặc
phải rút về đóng ở vùng Lãng Bạc (tức gần Hồ Tây ở Hà Nội bấy giờ). Sau đó, Mã
Viện được thêm viện binh, dùng mưu lừa quân ta kéo lên mạn thượng du rồi đánh
úp. Hai Bà thua trận nên rút quân về giữ Mê Linh.
Mùa thu năm 43, Mã Viện đem binh vây đánh thành Mê Linh. Quân ít, thế cùng.
Hai Bà phải bỏ chạy. Mã Viện xua quân đuổi theo. Hai Bà nhảy xuống sông Hát
(chỗ sông Đáy đổ ra sông Hồng Hà) trầm mình để khỏi sa vào tay giặc.
Hai Bà Trưng làm vua không được bao lâu nhưng là hai vị anh thư cứu quốc đầu
tiên của nước ta nên được hậu thế sùng bái đời đời.
Hiện nay, ở làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và làng Đồng
Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà, hàng năm, đến ngày mồng sáu tháng hai âm
lịch là ngày hội để nhớ ơn hai vị nữ tướng.
Bài văn mẫu 4
Lịch sử nước ta có biết bao nhiêu cuộc đấu tranh để giữ nước và đòi lại độc lập chủ
quyền. Chính vì vậy nước ta có rất nhiều vị anh hùng chống ngoại xâm cứu nước
lỗi lạc mà xuất thân của họ từ chính những người dân bình thường. Hai Bà Trưng
cũng vậy. Hai Bà Trưng ghi danh vào trang sử hào hùng với cuộc chiến chống ách
đô hộ nhà Đông Hán (40-43) tại quê nhà Bắc Ninh của hai bà. Chồng của bà Trưng
Trắc bị thái thú Tô Định giết hại một cách dã man, bà quyết định nổi binh cùng em
gái là Trưng Nhị tại thành Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh. Trước khi xuất binh,
hai bà đã đọc vang lời thề:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này
Trong cuộc khởi nghĩa của hai bà, có rất nhiều nữ tướng tham gia và họ cùng nhau
lập những chiến công khiến cho quân giặc khiếp hồn, thái thú Tô Định phải bỏ
chạy về nước. Sau khi làm chủ đất Mê Linh, Trưng Trắc lên làm vua lấy hiệu là
Trưng Vương, hoàn thành sứ mệnh nối nghiệp họ Hùng. Năm 43, quân giặc tiến
quân xâm lược, Hai Bà Trưng kiên cường chống trả, song quân địch quá đông và
mạnh, Hai Bà thua trận và đã tự tử tại sông Hát. Tuy thất bại nhưng cuộc khởi
nghĩa của hai nữ tướng đã góp phần không nhỏ vào việc chống giặc ngoại xâm.
Hai bà mãi là những vị tướng tài của dân tộc, cả dân tộc không quên công lao to
lớn ấy của hai bà.
Bài văn mẫu 5
Có một nữ anh hùng mà tôi luôn ngưỡng mộ, đó chính là Hai Bà Trưng. Tôi tìm
hiểu thêm về cuộc đời của bà qua những thông tin trên báo chí, internet. Qua đó,
tôi càng xúc động và khâm phục trước hành động dũng cảm mà họ đã làm để trở
thành những anh hùng dân tộc. Để tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện này nhé!
Hai Bà Trưng sống trong thời kỳ đất nước bị xâm lược và chiến tranh không
ngừng. Họ thấy bất bình trước tình trạng bị áp bức của nhân dân, vì thế đã rèn
luyện võ nghệ và chờ đợi ngày giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả đã bắt đầu khi
quan giặc Thi Sách giết chồng của bà Trưng Trắc. Hai bà quyết định nổi dậy khởi
nghĩa chống lại kẻ thù ngoại xâm.
Hai Bà Trưng trở nên mạnh mẽ và thông thạo chiến lược. Đội quân của họ ngày
càng đông hơn, chiến thắng người địch và khiến kẻ thù kinh hãi. Nhưng cuối cùng,
quân thù bắt đầu đến với binh viện trợ, dồn áp lực lên quân ta. Hai Bà Trưng đã
chiến thắng, nhưng không kéo dài được lâu.
Tình thế khó khăn khiến hai bà bị dồn vào vách núi và quyết định tự vẫn để không
rơi vào tay kẻ thù. Tinh thần kiên cường của hai bà vẫn khiến tôi cảm phục đến
ngày hôm nay. Hai Bà Trưng cũng là minh chứng rõ nét và hùng hồn về những
người phụ nữ Việt Nam dù thời nào cũng luôn quật cường, anh dũng, chẳng thua
kém bất cứ đấng nam nhi nào.
Bài văn mẫu 6
Nữ anh hùng mà em luôn rất ngưỡng mộ chính là Hai Bà Trưng. Vì vậy, em đã tìm
được nhiều sách, tranh để được biết thêm nhiều về hai bà.
Sống trong bối cảnh đất nước chìm trong chiến loạn, hai bà vô cùng bất bình trước
cảnh nhân dân bị áp bức. Vì vậy, ra sức tập luyện võ nghệ chờ ngày đứng dậy. Ngờ
đâu, quan giặc lại dám giết chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sách, khiên lòng uất
hận dồn nén đến tận cùng. Thế là hai bà quyết định dấy binh khởi nghĩa chống giặc
ngoại xâm. Nhờ sự mạnh mẽ và tinh thông thao lược của mình, đội quân của Hai
Bà Trưng ngày càng đông hơn, đánh đâu thắng đó, khiến kẻ địch kinh hồn bạt vía.
Cuối cùng, Hai Bà dành chiến thắng trước kẻ địch, bước lên ngai vua cai trị nước
ta. Tuy nhiên, ít lâu sau, quân thù đem binh viện trợ, dồn áp quân ta. Hai bà chiến
bại, bị dồn vào vách núi. Trong tình thế đó, hai bà quyết định tự vẫn, chứ quyết
không để rơi vào tay giặc. Tinh thần ấy của hai bà khiến em vô cùng nể phục.
Tuy thời gian cai trị không lâu, nhưng Hai Bà Trưng vẫn là hai người anh hùng vĩ
đại vô cùng. Đánh dấu sự bắt đầu của những năm tháng quyết chiến của nhân dân
ta với biết bao cuộc khởi nghĩa giành độc lập.
Kể về nữ anh hùng Bùi Thị Xuân
Trong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi
Thị Xuân là nhân vật đặc biệt. Bà không chỉ được người đời biết đến là một nữ
tướng giỏi mà còn là người gắn liền với giai thoại thuần phục voi trắng.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân (?-1802) quê thôn Xuân Hòa, tổng Phú Phong, huyện Tuy
Viễn (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Từ
khi còn trẻ, bà đã nổi tiếng xinh đẹp, khéo tay, viết chữ đẹp, giỏi kiếm thuật, bắn
cung, cưỡi ngựa và đặc biệt là kỳ tài luyện voi đánh trận.
Tương truyền, trước khi gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, nhờ tài cao chí lớn, bà mua
được hai con voi ngà tại vùng Tây Sơn và thuần phục nó. Sau khi đã tập luyện
thuần thục, bà thường cưỡi voi đi săn tại các khu Đồng Sim, Đồng Trăng, Thuận
Ninh.
Một hôm, đang cưỡi voi đi săn ở Đồng Sim, bà nghe tiếng voi kêu thét đau thương.
Tới nơi, Bùi Thị Xuân thấy con voi trắng ngà dài đến hai thước đang bị con trăn to
quấn chặt bốn chân. Tiếng voi thét yếu dần lẫn trong tiếng thác nước ầm ầm. Lập
tức, Bùi Thị Xuân bắn ngay mũi tên vào mắt con trăn. Đau quá, trăn bỏ mồi quăng
mình tấn công bà.
Bà phóng ngay ngọn lao vào miệng đang há của trăn. Ngọn lao xuyên thấu đầu và
ghim chặt trăn vào gốc cây. Quá đau, con trăn quấn chặt thân cây siết mạnh. Cây
đổ, trăn duỗi mình chết. Con voi trắng đứng lên rồi quỳ gối gục đầu trước bà. Bà
vỗ lên đầu nó rồi nói một cách thân ái: “Bạch tượng, từ đây chúng ta sẽ trở thành
bạn thân nhé!”. Con voi trắng đưa vòi cạ vào vai Bùi Thị Xuân rồi đứng dậy vươn
vòi thét lên mấy hồi.
Từ phía xa, tiếng chân chạy rầm rập, cây rừng xào xạc, rồi một đàn voi xuất hiện
xung quanh bạch tượng. Sau tiếng thét dài của bạch tượng, đoàn voi đồng loạt quỳ
xuống, vòi như hành lễ bái kiến Bùi Thị Xuân. Đàn voi theo bà về làng. Bà thường
đem trên 10 con voi ra tập trận tại gò Xuân Hòa nên nhân dân địa phương còn gọi
là gò Tập Voi.
Sau khi Tây Sơn khởi nghĩa, các sắc dân miền núi đem tặng nhiều thớt voi nữa,
đàn voi có trên trăm con. Quản tượng đa số là nữ binh, chỉ có một vài nam binh
điều khiển khi tập luyện. Khi điều khiển, bà dùng ngọn cờ đỏ có cán dài. Khi bà
chưa ra thao trường, voi đi lại lộn xộn. Lúc nữ tướng xuất hiện, con voi đầu đàn
vội chạy lại đứng nghiêm chỉnh trước mặt, chân trước co lên.
Bà nhảy lên, chân điểm nhẹ trên đầu gối voi rồi tung mình vút lên lưng con vật.
Được vỗ nhẹ hai cái trên đầu, con voi đầu đàn rống lên một tiếng dài. Cả đàn răm
rắp chạy đến xếp hàng ngay ngắn trước mặt voi đầu đàn. Bà dùng cờ phất ngang,
dọc, trước sau để điều khiển đàn voi tiến tới, rẽ sang phải, sang trái, tới, lui, nhịp
nhàng đều đặn.
Khi tập voi đánh trận, ban đầu, bà tập từng thớt một. Mỗi thớt có một nữ quản
tượng, khi thuần thục rồi mới tập thành đoàn. Khi đó, nữ quản tượng nào đi kèm
voi nấy. Hàng ngũ chỉnh tề rồi, các nữ quản tượng mình mặc áo quần gọn gàng,
đầu chít khăn đỏ, theo lệnh phất cờ đồng một lượt nhảy vút lên mình voi.
Cờ hiệu được tung lên, khi nam, khi bắc, lúc tả, lúc hữu. Cờ hiệu phất cao, buổi
diễn tập chấm dứt, đoàn voi lại xếp hàng ngay ngắn và nữ quản tượng nhảy xuống
cũng lẹ làng, nhịp nhàng với những nụ cười xinh tươi đắc ý. Sau khi phong trào
nông dân Tây Sơn bùng nổ năm 1771, Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang
Diệu nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công
cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn.
Qua câu chuyện trên, ta càng cảm thấy khâm phục hơn nữa người phụ nữ tài sắc
vẹn toàn Bùi Thị Xuân. Từ phụ nữ bình thường, bà trở thành một danh tướng được
kính trọng, được người đời luôn luôn ghi nhớ và trầm trồ khen ngợi.
Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
Bài làm tham khảo mẫu 1
Lịch sử nước ta có biết bao nhiêu cuộc vị anh hùng chống ngoại xâm cứu nước lỗi
lạc mà xuất thân từ những người dân bình thường. Nguyễn Thị Minh Khai cũng
vậy.
Lớn lên chứng kiến cảnh lầm than của quê hương, năm 16 tuổi bà đã tham gia hoạt
động cách mạng. Trong đấu tranh bà rất kiên cường, nhanh trí khiến bọn giặc Pháp
nhiều phen hoảng sợ và tìm mọi cách hãm hại bà. Năm 1940, Nguyễn Thị Minh
Khai bị bắt, giặc tra tấn bà hết sức dã man nhưng sau mỗi trận đòn tra tấn đó
Nguyễn Thị Minh Khai đã dùng máu của mình viết nên những câu thơ nêu cao khí
tiết của người chiến sĩ cộng sản. Biết không thể khuất phục được bà chúng đã đem
ra xử bắn.
Em rất tự hào được học dưới mái trường mang tên người anh hùng Nguyễn Thị
Minh Khai.
Bài làm tham khảo mẫu 2
Trong những năm tháng chiến đấu chống Pháp ác liệt, rất nhiều người con Việt
Nam đã quên mình chiến đấu để giải phóng tổ quốc. Trong đó, không thể không
nhắc đến đội quân tóc dài - những người phụ nữ trong cuộc chiến. Và tiêu biểu là
bà Nguyễn Thị Minh Khai - người nữ chiến sĩ Cộng Sản đầu tiên.
Bà Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tỉnh Nghệ An. Bố bà
người Hà Nội, còn mẹ là người Hà Tĩnh. Năm 1919, bà bắt đầu học chữ Quốc ngữ
rồi vào trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An). Đến năm 1927, bà tham
gia hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Tân Việt
Cách mạng Đảng, giữ vai trò là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ.
Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn
luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư
ký cho Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế
Cộng sản.
Nhưng không may, trong một lần hoạt động vào năm 1931, bà bị bắt tại Hương
Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934, bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc
tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại
Moskva cùng với Lê Hồng Phong. Sau đó bà thành hôn với Lê Hồng Phong và học
tại trường Đại học Phương Đông. Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị
của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy
Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại đây, bà là một trong những người lãnh đạo cao trào cách
mạng 1936 - 1939 ở Sài Gòn. Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc.
Năm 1940, bà bị bắt ngay sau phiên họp của xứ ủy Nam kỳ về phổ biến chủ trương
khởi nghĩa và bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên
ngoài và vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử
bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn ngày 26 tháng 8 năm 1941. Trước khi bị xử tử, bà
không hề nao núng hay sợ hãi, mà đã khẳng khái lên án tội ác thực dân Pháp và
to: "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!".
Bà Nguyễn Thị Minh Khai là một tấm gương lớn về tinh thần yêu nước. Bà là một
nữ anh hùng của đất nước ta. Nhờ có bà và vô vàn những chiến sĩ khác, mà chúng
ta mới được hưởng cuộc sống thái bình, độc lập như ngày hôm nay.
Kể về nữ anh hùng Lê Chân
Ngày nay, du khách gần xa đến tham quan thành phố Hải Phòng, sẽ được chiêm
ngưỡng bức tượng nữ tướng Lê Chân đặt tại dải vườn hoa Trung tâm nội đô.
Tượng bằng đồng cao 6m vô cùng tráng lệ, kì vĩ. Thanh bảo kiếm bên mình, Lê
Chân uy nghiêm hướng về biển Đông với cặp mắt sáng ngời đầy uy dũng.
Sử sách còn ghi rõ: Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức
nổi tiếng khắp vùng. Bà quê ở làng An Biên (tục gọi là làng vẻn) thuộc phủ Kinh
Môn, nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Năm 16 tuổi, Lê Chân nổi tiếng tài sắc, giỏi võ nghệ, có chí lớn phi thường. Thái
thú Giao Chỉ lúc ấy là một tên cực kì thâm tàn, bạo ngược. Không ép được bà làm
tì thiếp, hắn đã khép ông Lê Đạo vào tội phản nghịch đem giết đi! Lê Chân phải
trốn về vùng ven biển An Dương nung nấu mối thù nhà nợ nước, quyết không đội
trời chung với giặc Hán xâm lược.
Lê Chân chiêu mộ trai tráng, di dân lập ấp. Một vùng duyên hải dọc ngang trấn giữ
được đặt tên là An Biên, đúng như tên quê cha đất tổ của bà. Nghề nông tang, nghề
chài lưới đánh cá, đóng thuyền ngày một phát triển. Lương thảo được tích trữ, cung
tên giáo mác được tập rèn, chỉ mấy năm sau, Lê Chân đã có hàng nghìn dũng sĩ
chờ đợi thời cơ, mưu đồ đại sự.
Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, cùng với bao anh hùng nữ kiệt khắp nơi nổi
dậy hưởng ứng, Lê Chân chỉ huy đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu vây
đánh quân Đông Hán. Lửa cháy rực trời, ngựa hí quân reo, chiêng trống dậy đất
của nghĩa quân làm cho bọn giặc bạt vía kinh hồn. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp
đổ tan tành. Thái thú Tô Định hoảng sợ, khiếp đảm vội bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc,
cạo râu, lẻn trốn về phương Bắc. Đó là giữa tháng 3 năm 40.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, sáu mươi lăm thành trì được giải phóng, Hai Bà lên làm
vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, được giao nhiều trọng trách.
Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ mặt bắc,
tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong
"Chưởng quản binh quyền nội bộ" đóng bản doanh ở Giao Chỉ,...
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện mang đại binh sang xâm lược nước ta.
Bà Trưng cùng các chiến tướng đem quân ra cự địch. Nhiều trận đánh lớn đã diễn
ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5 năm 43, Hai Bà Trưng thất thế phải
gieo mình xuống dòng Hát Giang tự tận. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh
dũng hi sinh. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chẹn đánh quyết liệt thủy
binh giặc. Mãi đến cuối năm 43, Lê Chân anh dũng hy sinh tại chiến trường vùng
Lạt Sơn, Kim Bảng (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) nêu cao khí phách anh hùng của
người phụ nữ Việt Nam.
Để ghi nhớ công ơn to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã lập đền
thờ gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử cổ kính, trang nghiêm của
thành phố Cửa Biển.
Kể về Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ
Trong những tấm gương hiếu học, thì em ngưỡng mộ nhất chính là bà Nguyễn Thị
Duệ. Bởi bà chính là nữ tiến sĩ duy nhất vào thời đại phong kiến của nước ta. Lúc
còn sống, bà đã đóng góp rất nhiều cho đất nước.
Nguyễn Thị Duệ sống ở thời nhà Mạc, là người ở tỉnh Hải Dương. Từ nhỏ, bà đã
nổi tiếng là người thông minh, xinh đẹp. Năm 1592, chúa Trịnh Tùng đem quân
đánh chiếm kinh đô Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ
cùng gia đình đi theo.
Bà Duệ là một người hiếu học, nhưng luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được
học hành thi cử. Nên bà phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi Hội năm 1594
bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20. Đến khi mở yến
tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ dáng vẻ mảnh
mai, mặt mày thanh tú nên dò hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn Thị Duệ không bị
khép tội mà còn được vua khen ngợi là nữ nhi mà không thua kém gì nam nhi. Sau
đó, vua mời bà vào cung để dạy các phi tần, công chúa học tập. Sau đó bà được
tuyển làm phi, hiệu là Tinh Phi nên người ta quen gọi là Bà Chúa Sao.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ vào
rừng ẩn náu, bị quân lính bắt được. Thấy bà là người có tài, vua Lê và chúa Trịnh
vẫn cho bà trông coi việc dạy học trong vương phủ. Khi còn làm việc quan, bà rất
quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài. Phần lớn ở các kỳ thi đình, thi hội;
tất cả bài vở đều qua tay bà kiểm tra. Mỗi tháng, bà cùng các bậc nho sĩ đến giảng
dạy, ôn tập cho các sĩ tử. Ngoài ra, bà còn xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt,
cho canh tác lấy tiền của giúp đỡ học trò nghèo biết chăm chỉ.
Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ nơi quê nhà. Nguyễn Thị Duệ sống hơn
80 tuổi mới qua đời. Khi mất, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm phúc
thần. Mỗi lần nhớ đến bà, em càng cảm phục tài năng, sự cố gắng của bà. Và lấy
đó để làm động lực tiếp tục cố gắng học tập hơn.