Kết cấu của ý thức
Ý thức là một phạm trù quan trọng trong triết học cũng như trong nhận thức
của con người. Để đạt được tầm hiểu biết sâu rộng về ý thức, cần đánh giá cũng
như tiếp cận nó từ nhiều chiều hướng, nhất là phân tách ý thức, lộ rõ những tầng
lớp, cấu trúc hoặc cấp độ của nó, khiến nó trở nên thân thuộc và dễ áp dụng trong
cuộc sống, chứ không đơn giản chỉ là định nghĩa trong giáo trình.
Các lớp cấp độ của ý thức:
Trong qúa trình phát triển, con người phải sử dụng trí óc để tiếp nhận thông
tin. Các yếu tố cơ bản hợp thành chuyển biến tâm lí tích cực đem lại sự hiểu biết
của con người về thế giới khách quan bao gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí,... trong đó ý thức là yếu tố cốt lõi nhất.
Muốn cải tạo được sự vật, điều kiện tiên quyết là phải nắm rõ được những tính
chất cơ bản của nó, hay nói cách khác là có hiểu biết nhất định về đối tượng.
vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức, hay chính
xác hơn, để có được ý thức, đầu tiên phải tích lũy tri thức. Trong trường hợp ý
thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì là một phạm trù trù
tượng sáo rỗng, không thể giúp ích con người trong môi trường thực tiễn.
C. Mác đã từng nhận định: “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó
một cái gì tồn tại với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với
ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó.”
Tổng lượng tri thức trên thế giới không một cá nhân hay bộ máy nào có thể
tích lũy một cách đầy đủ và hoàn thiện, bởi chính quy mô rộng lớn cũng như độ
sâu của nó. Để dễ dàng tìm kiếm thông tin, người ta phân loại tri thức thông qua
các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, con người hoặc thông qua các cấp độ: tri thức cảm
tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa
học và tri thức khoa học,... Khả năng học tập chính là yếu tố thiết yếu để phân biệt
con người với các loại sinh vật khác, việc bồi dưỡng tri thức cũng quan trọng như
việc ăn uống hằng ngày, như Bác Hồ đã từng khẳng định: “Nếu không chịu khó
học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công
việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu,
mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”
Ví dụ: Tri thức là lượng thông tin con người học tập và tích lũy thông qua các
hoạt động hằng ngày. Có thể mình lượm lặt được cách đối nhân xử thế qua các
tình huống ngoài xã hội, là tri thức xã hội, hoặc từ sách và giáo viên, là tri thức tự
nhiên.
Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận thông tin, con người không chỉ sử dụng lý
trí thuần, thái độ tiếp nhận cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng của quá trình.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh mối quan
hệ giữa con người với nhau hoặc giữa con người với thế giới xung quanh.
Ví dụ: Trong quá trình học tập, khi hình thành mối tình cảm thầy trò khắng
khít, dường như những kiến thức khó nhằn khô khan trên trang giấy trở nên mềm
mại và dễ dàng hấp thụ vào trong tâm thức của người học hơn, thái độ cởi mở trao
đổi cũng giúp việc truyền thụ tri thức dễ dàng hơn cho người dạy.
Tri thức và tình cảm ngỡ như là hai phạm trù đối lập nhưng một khi vận dụng
cả hai một cách thuần thục và hòa quyện, nó tạo ra một tổ hợp gọi là niềm tin.
Niềm tin là cảm giác chắc chắn về một sự vật hiện tượng, niềm tin bản thân là cảm
giác tự tin vào khả năng của chính mình. Niềm tin có chức năng như bộ lọc thông
tin và kim chỉ nam cho hành động. Khi đã xây dựng niềm tin vững chãi, không
điều gì là không thể.
Ví dụ: Suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam ta đã trải qua “ Một ngàn năm nô lệ
giặc Tàu/ Một trăm năm nô lệ giặc Tây/ Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, thứ
duy nhất vững như kiềng ba chân, đưa đất nước đến ngày thống nhất chính là niềm
tin chiến thắng. Cả dân tộc đồng lòng một niềm tin dẫu trải qua muôn vàn khó
khăn, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Niềm tin mới chỉ là cảm giác, nhưng để chinh phục được những điều không
tưởng, con người ta cần một khái niệm khác, bền vững, chắc chắn và cắm sâu rễ
vào ý thức hơn: ý chí, quyết tâm. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng
huy động mọi tiềm năng của mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi
trở ngại đạt mục đích đề ra.
Ví dụ: Một sinh viên T ở trường đại học O mong muốn tốt nghiệp loại giỏi.
Bạn đã có đủ tri thức làm thế nào để đạt được mục tiêu trên, cũng như nhận được
sự yêu quý, sự hỗ trợ về mặt tinh thần từ thầy cô bạn bè và gia đình, bạn có niềm
tin là với khả năng hiện tại việc được kết quả như mong muốn là điều trong tầm
tay. Tuy nhiên, bạn chỉ thực sự học tập chăm chỉ được học kì đầu, sau đó buông
dần và cuối cùng không tốt nghiệp đúng hạn. Yếu tố thiếu sót của bạn chính là ý
chí, quyết tâm. Gỉa như ngày ấy bạn kiên định với mục tiêu, với cách thức của
mình, rất có thể bạn đã được cầm tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi.
Một khi đã nắm rõ được các lp cấp độ của ý thức, các nhân tố cấu thành nó,
cần tìm cách phối hợp nhuần nhuyễn các phạm trù, tích cực rèn luyện, học tập, bồi
dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế
giới.

Preview text:

Kết cấu của ý thức
Ý thức là một phạm trù quan trọng trong triết học cũng như trong nhận thức
của con người. Để đạt được tầm hiểu biết sâu rộng về ý thức, cần đánh giá cũng
như tiếp cận nó từ nhiều chiều hướng, nhất là phân tách ý thức, lộ rõ những tầng
lớp, cấu trúc hoặc cấp độ của nó, khiến nó trở nên thân thuộc và dễ áp dụng trong
cuộc sống, chứ không đơn giản chỉ là định nghĩa trong giáo trình.
Các lớp cấp độ của ý thức:
Trong qúa trình phát triển, con người phải sử dụng trí óc để tiếp nhận thông
tin. Các yếu tố cơ bản hợp thành chuyển biến tâm lí tích cực đem lại sự hiểu biết
của con người về thế giới khách quan bao gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí,... trong đó ý thức là yếu tố cốt lõi nhất.
Muốn cải tạo được sự vật, điều kiện tiên quyết là phải nắm rõ được những tính
chất cơ bản của nó, hay nói cách khác là có hiểu biết nhất định về đối tượng. Vì
vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức, hay chính
xác hơn, để có được ý thức, đầu tiên phải tích lũy tri thức. Trong trường hợp ý
thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì là một phạm trù trù
tượng sáo rỗng, không thể giúp ích con người trong môi trường thực tiễn.
C. Mác đã từng nhận định: “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó
một cái gì tồn tại với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với
ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó.”
Tổng lượng tri thức trên thế giới không một cá nhân hay bộ máy nào có thể
tích lũy một cách đầy đủ và hoàn thiện, bởi chính quy mô rộng lớn cũng như độ
sâu của nó. Để dễ dàng tìm kiếm thông tin, người ta phân loại tri thức thông qua
các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, con người hoặc thông qua các cấp độ: tri thức cảm
tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa
học và tri thức khoa học,... Khả năng học tập chính là yếu tố thiết yếu để phân biệt
con người với các loại sinh vật khác, việc bồi dưỡng tri thức cũng quan trọng như
việc ăn uống hằng ngày, như Bác Hồ đã từng khẳng định: “Nếu không chịu khó
học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công
việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu,
mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”
Ví dụ: Tri thức là lượng thông tin con người học tập và tích lũy thông qua các
hoạt động hằng ngày. Có thể mình lượm lặt được cách đối nhân xử thế qua các
tình huống ngoài xã hội, là tri thức xã hội, hoặc từ sách và giáo viên, là tri thức tự nhiên.
Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận thông tin, con người không chỉ sử dụng lý
trí thuần, thái độ tiếp nhận cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng của quá trình.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh mối quan
hệ giữa con người với nhau hoặc giữa con người với thế giới xung quanh.
Ví dụ: Trong quá trình học tập, khi hình thành mối tình cảm thầy trò khắng
khít, dường như những kiến thức khó nhằn khô khan trên trang giấy trở nên mềm
mại và dễ dàng hấp thụ vào trong tâm thức của người học hơn, thái độ cởi mở trao
đổi cũng giúp việc truyền thụ tri thức dễ dàng hơn cho người dạy.
Tri thức và tình cảm ngỡ như là hai phạm trù đối lập nhưng một khi vận dụng
cả hai một cách thuần thục và hòa quyện, nó tạo ra một tổ hợp gọi là niềm tin.
Niềm tin là cảm giác chắc chắn về một sự vật hiện tượng, niềm tin bản thân là cảm
giác tự tin vào khả năng của chính mình. Niềm tin có chức năng như bộ lọc thông
tin và kim chỉ nam cho hành động. Khi đã xây dựng niềm tin vững chãi, không điều gì là không thể.
Ví dụ: Suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam ta đã trải qua “ Một ngàn năm nô lệ
giặc Tàu/ Một trăm năm nô lệ giặc Tây/ Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, thứ
duy nhất vững như kiềng ba chân, đưa đất nước đến ngày thống nhất chính là niềm
tin chiến thắng. Cả dân tộc đồng lòng một niềm tin dẫu trải qua muôn vàn khó
khăn, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Niềm tin mới chỉ là cảm giác, nhưng để chinh phục được những điều không
tưởng, con người ta cần một khái niệm khác, bền vững, chắc chắn và cắm sâu rễ
vào ý thức hơn: ý chí, quyết tâm. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng
huy động mọi tiềm năng của mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi
trở ngại đạt mục đích đề ra.
Ví dụ: Một sinh viên T ở trường đại học O mong muốn tốt nghiệp loại giỏi.
Bạn đã có đủ tri thức làm thế nào để đạt được mục tiêu trên, cũng như nhận được
sự yêu quý, sự hỗ trợ về mặt tinh thần từ thầy cô bạn bè và gia đình, bạn có niềm
tin là với khả năng hiện tại việc được kết quả như mong muốn là điều trong tầm
tay. Tuy nhiên, bạn chỉ thực sự học tập chăm chỉ được học kì đầu, sau đó buông
dần và cuối cùng không tốt nghiệp đúng hạn. Yếu tố thiếu sót của bạn chính là ý
chí, quyết tâm. Gỉa như ngày ấy bạn kiên định với mục tiêu, với cách thức của
mình, rất có thể bạn đã được cầm tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi.
Một khi đã nắm rõ được các lớp cấp độ của ý thức, các nhân tố cấu thành nó,
cần tìm cách phối hợp nhuần nhuyễn các phạm trù, tích cực rèn luyện, học tập, bồi
dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới.