










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601688 A.
THAM VẤN 1. LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC THAM VẤN
Tâm lý học tham vấn nổi lên như một chuyên ngành ứng dụng trong Hiệp hội Tâm lý
học Hoa Kỳ (APA) vào những năm 1940. Nó đã được APA công nhận là một chuyên ngành từ
năm 1946, và sự công nhận này đã được tái khẳng định vào năm 1998 khi APA bắt đầu một
giai đoạn mới để áp dụng cho sự công nhận. Các dấu mốc trong lịch sử của tâm lý học tham
vấn bao gồm việc thành lập ngành này liên quan đến ngành tâm lý học tổng thể, việc tạo ra các
tạp chí chuyên nghiệp quan trọng và các hội nghị quan trọng được tổ chức trong nhiều năm.
Hai tổ chức được coi là then chốt trong việc hình thành và phát triển tâm lý học tham vấn: Hiệp
hội Tâm lý học Tham vấn (SCP-Society of Counseling Psychology) của APA và Hội đồng
Chương trình Đào tạo Tâm lý Tư vấn (CCPTP-Council of Counseling Psychology Training
Programs), tổ chức giám đốc các chương trình đào tạo về tâm lý học tham vấn.
John Whiteley, một nhà sử học nổi tiếng về tâm lý học tham vấn, đã xác định những
mầm mống xa xôi nhất của tâm lý học tham vấn là hướng nghiệp, giúp đỡ tinh thần, và đo
lường tâm lý / các phong trào khác biệt cá nhân cùng với sự xuất hiện của các hình thức can
thiệp tư vấn phi y học và phi phân tâm học như Carl Rogers- liệu pháp Thân chủ trọng tâm.
Sau đó, sự phát triển của tâm lý học tham vấn được thúc đẩy bởi nhu cầu về các dịch vụ
tâm lý được tạo ra bởi các cựu chiến binh trở về sau Thế chiến thứ hai. Các cuộc đàm phán
giữa các đại diện từ các bộ phận 12 (Tâm lý học lâm sàng) và 17 (sau đó được gọi là Tư vấn
và Hướng dẫn) của APA và Nhân viên Văn phòng Trung tâm của Cơ quan Quản lý Cựu chiến
binh về Tâm lý học Lâm sàng đã dẫn đến việc tạo ra một vị trí mới cho các nhà tâm lý học
trong hệ thống VA, “Nhà tâm lý học tham vấn (Dạy nghề)” vào năm 1952 để hỗ trợ các cựu
chiến binh trong việc điều chỉnh lại cuộc sống của họ. Bởi vì việc giúp các cựu chiến binh có
được cơ hội việc làm và giáo dục đòi hỏi kiến thức và kỹ năng khác với việc giải quyết các
bệnh lý tâm thần và chấn thương thần kinh, vị trí mới này đã giúp tâm lý học tham vấn phân
biệt với tâm thần học và tâm lý học lâm sàng và dẫn đến sự phát triển của phong trào hướng nghiệp.
Năm 1952, tên chính thức của Phân khu 17 được đổi thành Tâm lý học Tham vấn
(Counseling Psychology), và Hội đồng Giám khảo Hoa Kỳ về Tâm lý học Chuyên nghiệp đã
thông báo rằng các văn bằng của cơ quan này sẽ bao gồm thuật ngữ Tâm lý học Tham vấn
(Counseling Psychology) hơn là Tư vấn (Counseling) và Hướng dẫn (Guidance). Sự xuất hiện
của Tạp chí Tâm lý học Tham vấn vào năm 1954 giúp thiết lập thêm bản sắc chuyên nghiệp
của tâm lý học tham vấn.
Một hội nghị được tổ chức tại Atlanta vào năm 1987 đã cung cấp sự rõ ràng hơn về trọng tâm
và tình trạng của tâm lý học tư vấn. Tại hội nghị này, “các đặc điểm có giá trị” của tâm lý học
tham vấn đã được giải thích. Những đặc điểm này bao gồm: •
sự nhấn mạnh vào sức khỏe tinh thần tích cực, •
điều chỉnh và đối phó dựa trên thế mạnh, •
trao quyền cho các cá nhân, •
vận động chính sách, tham gia chính trị và giảng dạy trực tiếp các kỹ năng.
Việc nâng cao sức khỏe tâm thần không chỉ được khuyến khích ở cấp độ cá nhân mà còn được
mở rộng cho các nhóm và hệ thống. Tâm lý học tham vấn được coi là tác động đến sự phát
triển trong toàn bộ cuộc đời, để điều chỉnh và hài lòng trong lĩnh vực nghề nghiệp cũng như cá
nhân, và kết hợp các chiến lược phòng ngừa và khắc phục. Ngoài ra, việc xem con người và
hành vi của họ trong bối cảnh văn hóa xã hội bị ảnh hưởng bởi các biến số về văn hóa, dân tộc,
giới tính, khuynh hướng tình dục, tuổi tác và quan điểm lịch sử xã hội cũng được coi là tối
quan trọng (History of Counseling Psychology). 2. KHÁI NIỆM lOMoAR cPSD| 61601688
Năm 1999, APA xuất bản Bản mô tả lưu trữ của Tâm lý học Tham vấn đã công nhận và
khẳng định là một chuyên ngành ứng dụng. Định nghĩa và thông số hiện tại của nghề được mô tả như sau:
Tâm lý học Tham vấn (Counseling Psychology): là một chuyên khoa thực hành tổng
quát và cung cấp dịch vụ y tế trong tâm lý học nghề nghiệp. Nó tập trung vào hoạt động cá
nhân, mối quan hệ giữa các cá nhân trong suốt cuộc đời và các mối quan tâm về tình cảm, xã
hội, nghề nghiệp, giáo dục, liên quan đến sức khỏe, phát triển và tổ chức. Tâm lý học tham vấn
tập trung vào các vấn đề phát triển điển hình hoặc bình thường cũng như sự phát triển không
điển hình hoặc rối loạn vì nó áp dụng cho trải nghiệm của con người từ quan điểm cá nhân, gia
đình, nhóm, hệ thống và tổ chức. Các nhà tâm lý học tham vấn giúp những người bị rối loạn
thể chất, cảm xúc và tâm thần cải thiện tình trạng hạnh phúc, giảm bớt tình trạng đau khổ và
bất ổn, cũng như giải quyết các cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, những người thực hành trong
chuyên ngành chuyên môn này cung cấp đánh giá, xác định vấn đề tâm lí và hỗ trợ thân chủ.
Trong bối cảnh phát triển vòng đời, các nhà tâm lý học tham vấn tập trung vào các khía cạnh
lành mạnh và điểm mạnh của thân chủ (cá nhân, cặp vợ chồng, gia đình, nhóm, hệ thống hoặc
tổ chức), ảnh hưởng của môi trường / hoàn cảnh (bao gồm bối cảnh của các vấn đề văn hóa,
giới tính và lối sống), vai trò của nghề nghiệp, sự phát triển và hoạt động của cá nhân
(American Psychological Association, 1999).
Tham vấn tâm lý (psychology counseling): là một từ ngữ chuyên môn. Tham vấn chính
là hoạt động trợ giúp con người nâng cao năng lực tự giải quyết/ ứng phó với những khó khăn,
vướng mắc gặp phải trong cuộc sống. Để giúp đỡ các cá nhân và gia đình duy trì sự thăng bằng
tâm lý, tăng cường khả năng đối phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày (Cô
Võ Thị Tường Vy, Bài giảng TLH Tham vấn).
Tham vấn tâm lý là một cuộc tiếp xúc mang tính chất chuyên môn giữa một NTV được
đào tạo, và một đối tượng tham vấn (Thân chủ), cuộc tiếp xúc đó thường là giữa hai người mặt
đối mặt, hoặc đôi khi nhiều hơn, nhằm giúp đối tượng hiểu biết và làm sáng tỏ quan điểm cuộc
sống, có thể tiến hành chọn lựa vấn đề một cách có ý nghĩa, đầy đủ thông tin, hòa hợp với bản
chất chủ yếu trong lãnh vực mà người đó có khả năng (Hiệp hội tham vấn tâm lý Mỹ).
. KHÁI NIỆM THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG
Tham vấn cá nhân trong học đường là 1 MQH 1-1 giữa chuyên viên tham vấn được đào
tạo (có bằng cấp và chứng chỉ hành nghề) và TC, trong đó tập trung vào nhu cầu thích ứng,
phát triển và ra quyết định của TC. (Gibson & Mitchell, 2003).
Tham vấn nhóm là MQH giúp đỡ có tính bảo mật, trong đó NTV khuyến khích, thúc đẩy
các thành viên tập trung vào các vấn đề về phòng ngừa, chữa lành, phát triển mà nhóm quan tâm. (Schmidt, 1999). 3.
PHÂN BIỆT THAM VẤN VỚI TƯ VẤN/ CỐ VẤN
Trong tiếng anh, tư vấn (Consultation) và tham vấn (Counseling) có nghĩa gần giống
nhau. Hai khái niệm này đã được thống nhất cách gọi trong Hội thảo về Công tác tham vấn trẻ
em, do Unicef kết hợp với Ủy ban Dân số- Gia đình Việt Nam (tên cũ) tổ chức, tháng 4/2002
(Trần Thị Minh Đức, 2016).
Hiệp hội Tham vấn Hoa Kì (1998) định nghĩa tư vấn là: mối quan hệ giữa một người
trọ giúp chuyên nghiệp và người, nhóm người hoặc một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ, tư
vấn cung cấp sự giúp đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết một vấn đề liên quan
đến công việc hoặc người khác.
Trên thế giới , nhà tư vấn thường có gốc đào tạo từ trước nhà tham vấn chuyên sâu . lOMoAR cPSD| 61601688
Đối với một số nhà tham vấn , việc làm tư vấn lại là vai trò chính của họ . Dù là một nhà
tham vấn trong một tổ chức cộng đồng , hay tại các trường đại học , cao đẳng thì công việc tư
vấn luôn trở thành một phần được mong đợi và cần thiết trong trách nhiệm chuyên môn của
nhà tham vấn . Nhà tham vấn có thể tư vấn cho những nhà tham vấn khác , hoặc tư vấn cho
những người quản lý , các đơn vị trong các trường học , ... Tham vấn Cố vấn/ Tư vấn
Là một cuộc nói chuyện mang tính cá nhân Là một cuộc nói chuyện giữa một
giữa NTV và TC (một hoặc một vài người “chuyên gia” về một lĩnh vực nhất định
đang cần hỗ trợ) để đối mặt với khó khăn với một hoặc nhiều người đang cần lời
hoặc thách thức trong cuộc sống.
khuyên hay chỉ dẫn cho lĩnh vực đó.
Trọng tâm của TV là thân chủ.
NTV hỗ trợ TC ra quyết định bằng cách Nhà cố vấn giúp thân chủ ra quyết định
giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề, xem bằng cách đưa ra những lời khuyên
xét tất cả các khả năng, và đưa ra lựa chọn “mang tính chuyên môn” cho thân chủ.
tối ưu nhất cho chính họ sau khi xem xét kỹ
lưỡng các quan điểm khác nhau.
Mqh tham vấn quyết định kết quả đạt được
của quá trình tham vấn, NTV cần xây dựng Mối quan hệ giữa nhà cố vấn và thân chủ
lòng tin với TC và thể hiện thái độ thừa không quyết định kết quả cố vấn bằng
nhận, thông cảm, không phán xét.
kiến thức và sự hiểu biết của nhà cố vấn
về lĩnh vực mà thân chủ đang cần cố vấn.
Quá trình cố vấn có thể chỉ diễn ra trong
Tham vấn là một quá trình gồm nhiều cuộc một lần gặp gỡ giữa thân chủ và nhà cố
nói chuyện hoặc gặp gỡ định kỳ (bởi những vấn. Kết quả cố vấn không lâu bền, vấn
vấn đề hình thành và phát triển trong một đề sẽ lặp lại vì các nguyên nhân sâu xa
thời gian, do đó cần thời gian để giải quyết) của vấn đề chưa giải quyết.
NTV thể hiện sự tin tưởng vào khả năng giải Nhà cố vấn nói chuyện với thân chủ về
quyết vấn đề của TC, vai trò NTV chỉ hỗ trợ những quyết định của họ cho là phù hợp
TC tới những hướng lành mạnh nhất.
nhất đối với tình huống của thân chủ
thay vì tăng cường khả năng cho thân chủ.
NTV có kiến thức về hành vi và sự phát Nhà cố vấn có kiến thức về những lĩnh
triển của con người. Có kỹ năng lắng nghe, vực cụ thể và có khả năng truyền đạt
giao tiếp, khả năng khai thác suy nghĩ, cảm những kiến thức đó đến người cần hỗ trợ. xúc của TC. lOMoAR cPSD| 61601688
NTV giúp đỡ TC nhận ra và sử dụng những Tập trung vào thế mạnh thân chủ không
khả năng, thế mạnh của riêng họ
phải là xu hướng của cố vấn.
NTV thông cảm, chấp nhận vô điều kiện Nhà cố vấn đưa lời khuyên, không quan
những cảm xúc và tình cảm của thân chủ. tâm đến việc thể hiện sự thông cảm hay
Trong cách sử dụng thuật ngữ tại Việt Nam, hai từ tư vấn và tham vấn có sự phân biệt
rõ ràng. Tư vấn được hiểu là cho lời khuyên, còn tham vấn với nghĩa các chuyên gia hướng
dẫn, trợ giúp cá nhân giải quyết những khó khăn tâm lý. Song, trong tiếng Việt , cố vấn được
hiểu là người thường xuyên được hỏi ý kiến để tham khảo giải quyết công việc .Có thể nói ,
khái niệm tư vấn đôi khi đồng nghĩa với khái niệm cố vấn , chuyên gia . lOMoAR cPSD| 61601688 chấp nhận thân chủ.
Thân chủ làm chủ cuộc trò chuyện; NTV Sau khi thân chủ trình bày vấn đề, cố
lắng nghe, phản hồi, tổng kết và đặt câu vấn làm chủ cuộc nói chuyện và đưa ra hỏi. lời khuyên.
B. TRỊ LIỆU (Thầy Lê Hoàng Thế Huy, môn Tâm lý Trị liệu) 1.
SO SÁNH ĐỊNH NGHĨA VỀ KHÁI NIỆM « TRỊ LIỆU TÂM LÝ » Hoa Kỳ Úc Châu Âu Nguồn
Hiệp hội Tâm lý Hoa Liên đoàn Trị liệu tâm lý và Hiệp hội Tâm lý Trị liệu châu Kỳ
(APA) Tham vấn Úc (PACFA) Âu (EAP) www.apa.org/ www.pacfa.org.au/ www.europsyche.org/ lOMoAR cPSD| 61601688 Trong TLTL, TLLG
Thực hành TLTL là một quá
giúp thân chủ ở mọi độ
trình điều trị dựa trên sự thông
tuổi có một cuộc sống
hiểu, nhận thức và có kế hạnh phúc, lành mạnh
hoạch, dựa trên những chứng TLTL là sự dấn thân hai và hiệu quả hơn. TLG
cứ, phương pháp khoa học.
chiều, mang tính thông hiểu áp dụng những kỹ
Đồi tượng của TLTL bao hàm
và có chủ đích của TLG và thuật có chứng thực
những khó khăn, trạng thái đau
TC. Mục tiêu của TLTL là khổ về TL xã hội, tâm thể và
bởi NCKH để giúp TC sự chữa lành, phát triển hành vi. Nền tảng của TLTL là
phát triển những thói hoặc thay đổi cảm xúc, thể sự tương tác giữa một/nhiều
quen hiệu quả. Có chất, MQH, các khó khăn người được điều trị, và
nhiều cách tiếp cận hiện sinh và hành vi, hoặc một/nhiều nhà TLTL. Mục tiêu
trong TLTL như nhận các đau khổ dai dẳng, trong của TLTL là giảm nhẹ và thay
thức-hành vi, tâm bối cảnh của một tiến trình đổi những tình trạng gây phiền
động năng và một số và MQH vững chắc. Ngoài
ra, TLTL cũng hướng tới toái về tinh thần, và củng cố sự
dạng thức khác… giúp việc nâng cao nhận thức và phát triển và sức khỏe của
TC làm việc trên vấn lựa chọn, khuyến khích quá người thụ hưởng. Nhà TLTL
đề họ mang đến. TLTL trình phát triển, hiệu năng cần trải qua một quá trình đào
là một hình thức điều và cảm giác thoải mái cho tạo, huấn luyện đặc biệt.
trị mang tính cộng tác, TC. với nền tảng là MQH
giữa TLG và TC. TLG TLTL bao gồm cả những
cung ứng một môi yếu tố nhận thức và vô thức,
trường nâng đỡ, giúp những điều đã biết và chưa
TC bộc lộ một cách tự được biết trong vận hành
do, bằng thái độ khách tâm trí cá nhân. Với góc nhìn tổng quát, TLTL bao
quan, trung lập, không gồm tất cả các khía cạnh
phán xét. Một số dạng tinh thần, hành vi, cảm xúc,
TLTL làm việc với cá quan hệ, hiện sinh và tâm
nhân, một số khác lại linh của con người.
làm việc với cặp đôi, gia Ngoài trò chuyện, TC có lOMoAR cPSD| 61601688 đình hoặc nhóm.
thể chọn lựa các hình thức
khác (tương tác nhóm, nghệ
thuật, âm nhạc, nhảy múa,
kịch, chơi, khay cát, chuyển
động,…). Quá trình trị liệu
có thể dài ngắn tùy vào loại hình TLTL, kinh nghiệm và
trường phái của nhà TLTL,
mức độ nghiêm trọng của
khó khăn thể lý và tâm lý
của TC, mức độ dấn thân của chính TC trong tiến trình.. 2.
TUYÊN BỐ STRASBOURG VỀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU
Xem xét những mục tiêu đưa ra bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ;
Trong khuôn khổ nghị định chống kì thị đưa ra bởi Cộng đồng châu Âu (EC) và được cân nhắc
áp dụng bởi Hành lang kinh tế châu Âu (EEE);
Thể theo nguyên tắc dịch chuyển tự do của con người và các dịch vụ;
Những phía ký tên dưới đây đưa ra đồng thuận về những điểm sau:
1. Tâm lý trị liệu là một lĩnh vực đặc thù, thuộc về phạm trù của các ngành Khoa học nhân văn.
Việc thực hành tâm lý trị liệu được thực hiện bởi những nhà chuyên môn tự do và tự chủ.
2. Việc đào tạo tâm lý trị liệu đòi hỏi mức độ đào tạo lý thuyết và lâm sàng cao.
3. Luôn cần phải đảm bảo tính đa dạng trong các cách tiếp cận, các phương pháp trị liệu tâm lý. lOMoAR cPSD| 61601688
4. Việc đào tạo một phương pháp trị liệu tâm lý cần bao hàm tất cả những khía cạnh sau đây :
lý thuyết, trải nghiệm trên chính bản thân người học, và thực hành có giám sát. Ngoài ra,
những khái niệm căn bản của những phương pháp trị liệu khác cũng cần được giới thiệu, nắm bắt.
5. Để trở thành nhà trị liệu tâm lý, cần phải có những bước chuẩn bị bắt buộc, nhất là trong
lĩnh vực các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Strasbourg, ngày 21 tháng 10 năm 1990
Ký bởi đại diện 14 nước Đông và Tây Âu, góp phần kiến tạo Hiệp hội Tâm lý trị liệu châu Âu
với 120.000 hội viên tại 41 nước thành viên Liên minh châu Âu. 3. TUYÊN BỐ VIENNA
4 000 tham dự viên từ 90 quốc gia tham dự Hội nghị Tâm lý trị liệu lần thứ nhất tại Vienna
(Áo), nơi khởi nguồn của tâm lý trị liệu khoa học, kêu gọi chính phủ của tất cả các quốc gia và
vùng lãnh thổ trên mọi châu lục xem xét những điểm sau:
1. Xem xét đưa Tâm lý trị liệu vào trong những chương trình dự phòng sức khỏe quốc gia. Tâm
lý trị liệu giúp làm giảm số lượng các trường hợp cơ thể hóa có căn nguyên xung đột nội tâm, và từ đó :
a) giúp làm giảm chi phí người dân tiêu tốn cho y tế,
b) giúp làm giảm áp lực cho ngành y tế nói chung và chi phí chăm sóc y tế-xã hội nói chung.
2. Các quy định kiểm soát chi tiêu
Không nên áp dụng những can thiệp kiểm soát chi tiêu cho việc điều trị tâm trí và tâm thể:
nhiều chứng cứ khoa học đã chứng minh rằng chi phí phát sinh cho việc chăm sóc xã hội cao
hơn cả chi phí điều trị y khoa. 3. Hòa nhập
Việc hỗ trợ hòa nhập cho người bệnh hoặc thân chủ có rối loạn tâm trí và tâm thể cần được
đẩy mạnh : cần tránh tất cả những hệ quả tiêu cực do chẩn đoán gây ra lên các khía cạnh: a) kinh tế, b) xã hội,
c) Thích nghi cộng đồng Của những đối tượng trên.
4. Đảm bảo chất lượng trị liệu tâm lý
Việc pháp luật công nhận tâm lý trị liệu cần đảm bảo nghiêm ngặt chất lượng của: a)
Việc đào tạo những nhà thực hành tâm lý trị liệu,
b) Quá trình thực hành tâm lý trị liệu (luật thực hành nghề nghiệp). 5. Trị liệu tâm lý
Tâm lý trị liệu cần được công nhận như một phần không thể tách rời của việc dự phòng y tếxã hội.
Thay mặt toàn bộ đại biểu tại Hội nghị Tâm lý trị liệu lần thứ nhất tại Vienna (Áo) vào ngày 4 tháng 7 năm 1996, BS. Alfred PRITZ,
Chủ tịch Hội đồng quốc tế về Tâm lý trị liệu (WCP)
C. KHI NÀO THAM VẤN, LÚC NÀO TRỊ LIỆU? lOMoAR cPSD| 61601688
1. GIỐNG NHAU GIỮA THAM VẤN (Counseling) VÀ TRỊ LIỆU (Psychologist) •
Cùng chia sẻ những học thuyết liên quan đến tâm lý con người: hiểu về nỗi đau khổ
của con người để giúp đỡ họ vượt qua khó khăn •
Cùng nằm trong mạng lưới chăm sóc sức khỏe tinh thần. • Thiết lập mối quan
hệ hỗ trợ- có vai trò quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả. 2. KHÁC NHAU
2.1. Về đối tượng: -
Trong tham vấn có khoảng đối tượng hẹp hơn. Liên quan đến các vấn đề đời
thường, và thân chủ là người không bị những rối loạn nghiêm trọng về chức năng tâm lí. -
TLTL hướng đến những TC có rối loạn chức năng tâm trí (rối loạn bệnh) hoặc
tình trạng suy giảm chức năng và những người có khó khăn trong cuộc sống đời thường
nhưng ở mức độ nặng nề, gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (vd: stress nặng,
khủng hoảng, di chứng sang chấn sau tổn thương…) 2.2. Về mục tiêu: •
TLTL xây dựng lộ trình làm việc nhắm tới mục tiêu dài hạn, có tính căn cơ về
mặt nhân cách, đặc trưng tính tình của một người hoặc mối quan hệ giữa người
hay định hình lại cách thức suy nghĩ, thói quen, cách thức ứng xử… •
TV nhắm đến những mục tiêu cụ thể, có tính ngắn hạn hoặc những vấn đề mới
xuất hiện và giải quyết trong thời gian ngắn.
=> Tuy nhiên, có thể đan xen trong việc đặt mục tiêu trong từng trường hợp 2.3. Về đào tạo:
Ở một số quốc gia không phân biệt 2 lĩnh vực này. Một số khác có yêu cầu khác nhau
trong đào tạo. Cụ thể: •
Nhà tâm lý trị liệu có yêu cầu đào tạo cao hơn, cơ bản trước hết họ phải là nhà Tâm lí
học (học vị từ Thạc sĩ) sau đó đào tạo chuyên sâu hơn về lĩnh vực tâm lí trị liệu. •
Đối với lĩnh vực tham vấn có chương trình đào tạo để trở thành NTV (counselor) tương
đương Thạc sĩ ở nước ta.
2.4. Về khuôn khổ làm việc: •
Chuyên viên tham vấn làm việc trong các cơ sở tham vấn tâm lý (trung tâm,
trường học, lĩnh vực cần tham vấn có tính đặc thù) •
Tâm lý trị liệu có cơ sở đa dạng hơn ở chỗ có thể lồng ghép trong cơ sở lâm sàng
(bệnh viện nhi, đa khoa và đặc biệt là y khoa tâm thần), có thể làm văn phòng
riêng tuy nhiên có kết hợp với các cơ sở điều trị nội trụ cho các trường hợp rối
loạn mặt chức năng tâm lí
2.5. Những khía cạnh khác: liên quan đến học thuyết, ứng dụng liệu pháp… Câu hỏi:
Có lời khuyên nào cho người gặp khó khăn tâm lý để chọn được hình thức tham vấn hay trị liệu?
=> Đặt câu hỏi “mình có cần giúp đỡ từ người chuyên nghiệp không?” xác định qua: có gặp
khó khăn trong suy nghĩ phù hợp thực tế, khó khăn đưa ra quyết định, không kiểm soát được
hành vi và điều này đang gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, mối quan hệ xung quanh
có bùng nổ xung đột/ xa cách, nội tâm ta như thế nào: sự kết nối, bất ổn… diễn ra nhiều ngày/
nhiều tuần/ nhiều tháng (cảm xúc, suy nghĩ, hành vi, mối quan hệ, nội tâm)
D. ĐẠO ĐỨC TRONG THAM VẤN lOMoAR cPSD| 61601688 Tham khảo theo:
· Bộ tiêu chuẩn Đạo đức hành nghề ngành tâm lý, bản dịch từ APA ETHIC CODE
· Giáo trình Tâm lý học tham vấn (Trần Thị Minh Đức) Một
số nguyên tắc cơ bản:
1) Giữ bí mật / tính bảo mật:
- Mỗi cá nhân có quyền sở hữu những vấn đề thuộc về bản thân mình, vì
vậy thông tin của TC nói ra cho NTV phải được đảm bảo giữ bí mật và TC có
quyền trông đợi 1 MQH tin tưởng giữa TC và NTV dựa trên các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
- Để giữ được bí mật vấn đề của TC, NTV phải thực hiện các bước sau:
• Cuộc tham vấn được bố trí ở nơi kín đáo.
• Lưu giữ hồ sơ TC an toàn, tránh để mất dữ liệu hoặc lộ dữ liệu trên máy tính.
• Giải thích cho TC ngay từ đầu cuộc tham vấn những thủ tục và quy trình tham vấn.
- NTV chỉ được tiết lộ bí mật khi:
• TC cho phép nói ra vấn đề của mình.
• Khi vấn đề của TC đe dọa đến tính mạng của bản thân và những người khác.
• Khi NTV bị gọi ra tòa chất vấn về chính vấn đề này.
2) Tôn trọng và chấp nhận TC (không thành kiến):
- TC có 1 nhân cách độc lập, từ đó tôn trọng ý nghĩ, quan điểm, hành động
riêng của họ với tư cách là 1 con người độc lập. nhìn nhận TC dưới góc độ tổng
thể, chấp nhận sự tồn tại vốn có những gì thuộc về TC. Tin vào khả năng thay đổi của TC.
- Không thành kiến (không phân biệt đối xử dựa trên vùng miền, địa vị,
giai cấp, chủng tộc, xuất thân…) Chấp nhận không chỉ là không phê phán mà ở
ngay chính trong cảm xúc, suy nghĩ, cử chỉ không lời của NTV.
3) Tin tưởng vào khả năng tự giải quyết của TC:
- Mỗi người đều có quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về các quyết định
của mình. TC cần được trao quyền tự quyết để đảm bảo sự trưởng thành và độc lập.
- NTV không đưa ra lời khuyên mang tính áp đặt đối với TC, tuy nhiên
trong 1 số trường hợp NTV có thể chủ động đưa ra 1 vài hướng để giải quyết
cùng TC (lưu ý khi TC có xu hướng lệ thuộc vào NTV).
4) Thân chủ trọng tâm (quyền có sự riêng tư/ quyền tư quyết và tự chịu trách nhiệm):
- TC tự quyết vì TC hiểu rõ họ và vấn đề của họ nhất. Từ đó dẫn đến NTV
không áp đặt TC theo ý của mình. NTV không rập khuôn vì mỗi TC là 1 trường hợp khác nhau.
- Cần có sự bàn bạc và trao đổi giữa NTV và TC, sẽ giúp TC tăng trưởng /
nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trên vấn đề của chính họ. lOMoAR cPSD| 61601688
5) NTV không có MQH nhiều tuyến / cá nhân với TC:
- Quan hệ tham vấn là quan hệ nghề nghiệp, vì vậy NTV cần tránh mọi
quan hệ ngoài hợp đồng làm việc với TC, tránh đưa các quan hệ xã hội (quan hệ
anh em, đồng nghiệp, bạn bè) vào quan hệ tham vấn.
- Khi gặp khó khăn trong việc giúp đỡ, NTV phải có trách nhiệm cảnh báo
cho những người có liên quan hoặc tham khảo ý kiến của người giám sát và đồng
nghiệp. NTV cần thường xuyên chú ý đến vấn đề luật pháp, quyền công dân và
quyền con người của TC.
- NTV cũng được cảnh báo rằng những MQH có đi có lại giữa NTV và TC
mà có thể dẫn đến sự xung đột về lợi ích thì phải tránh.
6) Bảo vệ phúc lợi TC:
- NTV phải luôn dự đoán trước được những tác động của quá trình tham
vấn lên TC và những người có liên quan khác. Mức thu phí phải được xem xét
theo lợi ích tốt nhất của TC.
Khi nhận thấy quá trình tham vấn không đem lại hiệu quả cho TC, NTV bắt buộc phải có sự
giới thiệu dến những nơi có giúp đỡ hiệu quả hơn. - Những quyền lợi cơ bản của TC cần phải
được tính đến đối với 1 dịch vụ tham vấn là: có quyền biết về danh tính, bằng cấp chuyên môn,
kinh nghiệm làm việc của NTV và được lựa chọn người trợ giúp cho mình; được quyền biết về
tiến trình và cách thức tiếp cận đối với vấn đề của TC; được NTV thông báo về những hạn chế
và nguy cơ có thể xảy ra trong quá trình tham vấn; có quyền được biết về việc lưu trữ thông
tin, ghi âm hay sự đảm bảo về bí mật về thông tin khi chia sẻ với NTV và họ có quyền được
thông báo trước trong trường hợp thông tin về họ buộc phải chia sẻ với những đối tượng khác
và TC có quyền tiếp tục hay từ chối dịch vụ tham vấn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
American Psychological Association. (1999). Archival description of counseling
psychology. The Counseling Psychologist, 27, 589-592.
History of Counseling Psychology. (n.d.). Psychology and research ang reference. Retrieved 2020, from Counseling Psychology:
http://psychology.iresearchnet.com/counseling-psychology/history-of- counselingpsychology/
Trần Thị Minh Đức. (2016). Giáo trình tham vấn tâm lý. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bài giảng môn Tâm lý học Tham vấn của cô Võ Thị Tường Vy
Bài giảng môn Tâm lý trị liệu của thầy Lê Hoàng Thế Huy