1. Hàng hóa là gì? Cho ví dụ. Phân loại hàng hóa và cho ví dụ?
a. Khái niệm
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
VD: gạo, vải, bắp,…
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải
hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ... b. Phân loại hàng hóa
Hàng hóa hữu hình: sắt, thép, lương thực, thực phẩm….
Hàng hóa vô hình: dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…
Hàng hóa thông thường: loại hàng hóa mà cầu của tăng khi thu nhập của người tiêu dùng tăng, và cầu giảm khi thu nhập
giảm, với mọi yếu tố khác không thay đổi. Nó phản ánh xu hướng tăng nhu cầu mua sắm và tiêu thụ của người dân khi họ có thu nhập cao
hơn
Vd: điện thoại thông minh, xe hơi, và du lịch có thể được coi là hàng hóa thông thường. Khi thu nhập của người dân tăng, họ có
khả năng mua sắm nhiều hơn, dẫn đến tăng cầu cho những loại sản phẩm này.
Hàng hóa đặc biệt
Hàng hóa cá nhân
Hàng hóa cộng đồng
2. Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa? Trình bày mối quan hệ giữa 2 thuộc tính đó? Liên hệ với sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
hiện nay?
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó làm cho hàng hóa giá trị sử dụng.
VD: công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn...
Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hoá học) của thực thể hàng hóa đó quyết định nên giá trị sử
dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kthuật của lực lượng sản xuất nói
chung.
VD: than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt (đun, sưởi ấm), khi khoa học - kỹ thuật phát triển nó còn được dùng làm nguyên liệu
chế tạo máy lọc nước, tráng đường, mặt nạ chống độc…
hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại gtrị sử dụng càng
phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng
hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi
hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã
hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một
giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. VD: 1m vải = 5 kg thóc.
Hai hàng hóa khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị
sử dụng của chúng mà là đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau.
=> Người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy. Chính lao động hao
phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa lao độnghội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình
thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vậy, giá trị một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa. c) Mối quan hệ giữa hai
thuộc tính của hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này
mới là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa.
VD: một vật có giá trị sử dụng, nhưng không do lao động tạo ra như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng
hóa lại đồng nhất về chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động
đã được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị sử dụng giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt
không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu
dùng. Do đó nếu giá trị của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất. d) Liên hệ với sản xuất hàng hóa ở Việt
Nam hiện nay Giá trị sử dụng – Mục tiêu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Thực tiễn ở Việt Nam:
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, từ nhu cầu thiết
yếu đến tiện ích, giải trí, công nghệ cao.
Các doanh nghiệp trong nước ngày càng chú trọng đến việc cải tiến chất lượng, mẫu mã, bao bì để tăng giá trị sử dụng, dụ như Vinamilk
phát triển các dòng sữa chuyên biệt cho từng đối tượng (trẻ em, người già, người tiểu đường...). Giá trị Biểu hiện bằng hao phí lao
động xã hội Thực tiễn ở Việt Nam:
Trong bối cảnh hội nhập, doanh nghiệp Việt phải cạnh tranh về giá cả, tức là tối ưu hóa chi phí sản xuất để giữ vững hoặc tăng giá trị hàng
hóa trong khi vẫn đảm bảo chất lượng.
Việc ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất là cách để giảm hao phí lao động, qua đó gia tăng giá trị.
Xuất khẩu các mặt hàng như nông sản, dệt may, linh kiện điện tử đều phụ thuộc vào khả năng kiểm soát giá trị sản phẩm tương ng với
công sức và chi phí đã bỏ ra.
Liên hệ thực tế tổng hợp:
Việc sản xuất hàng hóa ở Việt Nam không chỉ dừng ở việc "làm ra để có dùng" (giá trị sử dụng) mà còn là "làm ra để bán – để trao đổi và
tạo lợi nhuận" (giá trị). Muốn cạnh tranh được trong và ngoài nước, doanh nghiệp cần kết hợp hài hòa hai yếu tố này: tạo ra hàng hóa
giá trị sử dụng cao và giá thành cạnh tranh (giá trị tốt), từ đó nâng cao năng lực sản xuất quốc gia.
3. Lao động cụ thể là gì? VD. Đặc điểm của lao động cụ thể? Lao động trù tượng là gì, có đặc điểm gì?
a) Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động kết quả lao động riêng. Chính những cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
VD: lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có
mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; công cụ là kim, chỉ, máy may
chứ không phải là cái cưa, cái bào...; lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra
ghế để ngồi...
=> Lao động cụ thtạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do
nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội ng phát triển thì càng nhiều gtrị sử dụng khác nhau để
đáp ứng nhu cầu của xã hội. b) Lao động trù tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính
là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu
tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhântính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng
hóa.
Mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ, lao động đó mang tính chất nhân, và lao động
cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa lao động hội một bộ phận của toàn bộ lao động hội trong hthống
phân công lao động hội. Phân ng lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc
cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao
động chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng biểu hiện của lao động hội. Giữa lao động nhân
lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau, được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung
cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được,
tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng
hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
=> Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những
mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
4. Lượng giá trị hàng hóa là gì? Thước đo của lượng giá trị hàng hóa? Lao động cá biệt là gì, cho VD? Lao động tất yếu là gì, cho
VD?
Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:
+Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyểt định.
a) Thước đo lượng giá trị của hàng hóa.
Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động, v.v.. Do đó, lượng giá
trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất
ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cả biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra. Vậy phải
chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều
giá trị?
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết
định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy".
Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động hội cần thiết thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của hội, tức với
một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian
lao độnghội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào
đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng một đại lượng không cố định. Sự thay đổi
lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố:
Thứ nhất, năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phấm sản xuất ra trong một đơn vthời gian hoặc số
lượng thời gian cần thiết đế sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
hai loại năng suất lao động: năng suất lao động biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trường, hàng a được trao đổi không
phải theo gtrị biệt mà là gtrị hội. Vì vậy, năng suất lao động ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính năng suất
lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị
sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao dộng hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng
tăng lượng gtrị của một đơn vsản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số ợng lao động kết
tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất
lao động xã hội.
Năng suất lao động lại y thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp hội của sản xuất, hiệu quả của liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hóa. Cường độ lao động khái niệm
nói lên mức đkhẩn trương, sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động
hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng gtrị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động thể
chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơnlao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức
tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được.
Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một vấn đề đặt ra là: phải chăng trong cùng một đơn vị thời gian lao
động, thì bất cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa
bát là lao động giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, không phải trải qua đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt,
cũng có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ lao động phức tạp đòi hỏi phải sự đào tạo, phải thời gian
huấn luyện tay nghề. Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với
lao động giản đơn. Lao động phức tạp lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho c hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra
thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao
động giản đơn trung bình.
C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân
lên...”.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
c) Cấu thành lượng giá trị hàng hóa
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công
cụ, nguyên vật liệu và lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, lao
động cụ thể của người sản xuất vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị của liệu sản xuất vào sản phẩm, đây bộ phận giá trị trong
sản phẩm (ký hiệu c), còn lao động trừu tượng (biểu hiện sự hao plao động sống trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) vai trò
làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới trong sản phẩm (ký hiệu là V + m).Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa
bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới. c. Lao động cá biệt
Khái niệm: Lao động biệt lao động riêng lẻ của từng người sản xuất hàng hóa, hao psức lao động (thời gian lao động) của mỗi
người để tạo ra một hàng hóa nhất định.
Ví dụ:
Một người thợ may A may một chiếc áo sơ mi hết 3 giờ. Đây là thời gian lao động cá biệt của thợ may A để tạo ra chiếc áo đó.
Một người nông dân B trồng một sào lúa hết 10 ngày công. Đây thời gian lao động biệt của nông dân B để được sản
lượng lúa trên sào đất đó.
Một công nhân C lắp ráp một chiếc ô tô hết 5 giờ làm việc. Đây là thời gian lao động cá biệt của công nhân C đhoàn thành công
việc lắp ráp chiếc ô tô.
Điểm cần lưu ý là thời gian lao động biệt của mỗi người sản xuất thkhác nhau do trình độ kỹ năng, trang thiết bị, điều kiện làm
việc khác nhau.
d. Lao động tất yếu
Khái niệm: Lao động tất yếu là phần thời gian lao động mà người công nhân tạo ra giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của bản
thân. Nói cách khác, đây là thời gian người lao động làm việc để tái sản xuất ra giá trị các liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và gia
đình họ.
Ví dụ:
Giả sử một công nhân làm việc 8 giờ một ngày và được trả một khoản tiền lương đủ để trang trải các chi phí sinh hoạt cơ bản hàng ngày
của họ. Nếu trong 4 giờ đầu tiên của ngày làm việc, người công nhân tạo ra một lượng giá trị sản phẩm tương đương với số tiền lương họ
nhận được, thì 4 giờ này được gọi thời gian lao động tất yếu. Khoảng thời gian n lại (trong ví dụ này là 4 giờ) được gọi thời gian
lao động thặng dư, trong đó người công nhân tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
5. Năng suất lao động là gì, VD? Năng suất lao động tăng dẫn đến điều gì? Năng suất lao động giảm dẫn đến điều gì? Năng suất
lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?
Năng suất lao động sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng
thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
VD: một nông dân trồng lúa thu hoạch được 1 tấn lúa/1 hecta; một công nhân trong nhà máy ô tô có thể lắp ráp được 5 chiếc ô tô mỗi
ngày; một đội thợ xây hoàn thành việc xây dựng ngôi nhà trong 3 tháng…
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời
gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị
hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. => Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
Khi năng suất lao động giảm thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ tăng lên vì thời gian lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị hàng
hóa tăng lên (sản xuất được ít hàng hóa hơn, tốn nhiều công sức…).
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân, mức độ phát triển
của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy và hiệu suất
của tư liệu sản xuất, và các điều kiện tự nhiên.
6. Cường độ lao động là gì, VD? Cường độ lao động tăng dẫn đến điều gì? Cường độ lao động giảm dẫn đến điều gì? Cường độ
lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?
Cường độ lao động đại lượng chỉ mức độ hao psức lao động trong một đơn vị thời gian. cho thấy mức độ khẩn trương, nặng
nhọc hay căng thẳng của lao động.
VD: : Một nhà máy dệt, trong 8h sản xuất được 16 chiếc áo có tổng giá trị là 80 đô. CDLD tăng lên 1,5 lần thì tạo
ra lượng giá trị 1 sản phẩm là 20 đô
Cường độ lao động tăng lên tức mức hao phí sức bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng
nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên sức hao phí lao động cũng tăng lên
tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động
cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Nếu cường độ lao động giảm xuống thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra giảm xuống và sức hao phí lao động cũng giảm
xuống tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khoẻ, thể chất, tâm lí, trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công
tác tổ chức, ki luật lao động,...Nếu giải quyết tốt các những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, tập trung hơn, thuần
thuật hơn, tập trung hơn do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhauchỗ: chúng đều dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau ở chỗ: tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vhàng hóa giảm xuống. Hơn nữa, tăng năng suất lao động có thphụ thuộc nhiều
vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần như là một yếu tố có "sức sản xuất" vô hạn; còn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản phẩm
sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Hơn nữa, tăng cường độ lao động phụ
thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là yếu tố của "sức sản xuất" có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng
năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
7. Lao động giản đơn là gì, có đặc điểm gì? Lao động phức tạp là gì, có đặc điểm gì?
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Đặc điển: Công việc này thường bao gồm các nhiệm vụ lặp đi lặp lại, dễ thực hiện và có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai, miễn là họ
sức khỏe và khả năng làm việc. Có tính chất cơ bản và không đòi hỏi nhiều tư duy sáng tạo hay kỹ năng phức tạp. dụ: Công nhân sản
xuất, nhân viên phục vụ, nhân viên vệ sinh, nhân bán hàng,..
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Đặc điểm: yêu cầu kỹ năng chuyên môn cao, trình độ học vấn, và khả năng tư duy sáng tạo hoặc phân tích. Công việc này thường đòi hỏi
người lao động phải có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm thực tiễn, và khả năng giải quyết vấn đề trong các tình huống khác nhau. Lao
động phức tạp thường liên quan đến các lĩnh vực như khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, và quản lý. Ví dụ: Bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, lập
trình viên, nhà nghiên cứu,…
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn
được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được
quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.
8. Với tư cách 1 nhà kinh doanh, anh/chị làm gì để cho công ty của mình đạt được năng suất và cường độ tốt nhất?
- Tối ưu hóa quy trình làm việc:
Phân tích và cải tiến quy trình làm việc để loại bỏ những bước không cần thiết, giúp tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả.
Đầu tư vào công nghệ: Sử dụng phần mềm và công cụ tự động hóa để giảm bớt khối lượng công việc thủ công, từ đó giúp nhân viên tập
trung vào các nhiệm vụ quan trọng hơn.
Đào tạo nhân viên: Cung cấp các khóa đào tạo thường xuyên để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho nhân viên, giúp họ làm việc hiệu quả
hơn.
- Tạo môi trường làm việc tích cực
Khuyến khích sự sáng tạo: Tạo điều kiện cho nhân viên đóng góp ý tưởng và cải tiến quy trình làm việc, từ đó tăng cường sự tham gia và
động lực.
Cung cấp phúc lợi hợp lý: Đảm bảo rằng nhân viên nhận được các phúc lợi như bảo hiểm sức khỏe, thời gian nghỉ ngơi hợp các
chương trình khen thưởng để giữ chân nhân tài.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp: Tạo ra một môi trường làm việc thân thiện, nơi mà nhân viên cảm thấy được tôn trọng và có giá trị.
- Động lực và khuyến khích
Cung cấp các chương trình khen thưởng: Thiết lập các chương trình thưởng cho những nhân viên có thành tích xuất sắc, khuyến khích họ
làm việc chăm chỉ hơn.
Đánh giá hiệu suất thường xuyên: Thực hiện các cuộc đánh giá hiệu suất định kỳ để nhận diện và khen thưởng những đóng góp của nhân
viên.
Khuyến khích sự hợp tác: Tạo ra các cơ hội cho nhân viên làm việc nhóm, giúp họ học hỏi lẫn nhau và tăng cường sự gắn kết trong công
việc.

Preview text:

1. Hàng hóa là gì? Cho ví dụ. Phân loại hàng hóa và cho ví dụ? a. Khái niệm
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
VD: gạo, vải, bắp,…
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải
hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ...
b. Phân loại hàng hóa
Hàng hóa hữu hình: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…. •
Hàng hóa vô hình: dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ… •
Hàng hóa thông thường: là loại hàng hóa mà cầu của nó tăng khi thu nhập của người tiêu dùng tăng, và cầu giảm khi thu nhập
giảm, với mọi yếu tố khác không thay đổi. Nó phản ánh xu hướng tăng nhu cầu mua sắm và tiêu thụ của người dân khi họ có thu nhập cao hơn
Vd: điện thoại thông minh, xe hơi, và du lịch có thể được coi là hàng hóa thông thường. Khi thu nhập của người dân tăng, họ có
khả năng mua sắm nhiều hơn, dẫn đến tăng cầu cho những loại sản phẩm này. • Hàng hóa đặc biệt • Hàng hóa cá nhân • Hàng hóa cộng đồng
2. Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa? Trình bày mối quan hệ giữa 2 thuộc tính đó? Liên hệ với sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay?
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng.
VD: công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn...
Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hoá học) của thực thể hàng hóa đó quyết định nên giá trị sử
dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất nói chung.
VD: than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt (đun, sưởi ấm), khi khoa học - kỹ thuật phát triển nó còn được dùng làm nguyên liệu
chế tạo máy lọc nước, tráng đường, mặt nạ chống độc…

Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng
phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng
hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi
hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một
giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. VD: 1m vải = 5 kg thóc.
Hai hàng hóa khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị
sử dụng của chúng mà là đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau.
=> Người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy. Chính lao động hao
phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình
thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa. c) Mối quan hệ giữa hai
thuộc tính của hàng hóa

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này
mới là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa.
VD: một vật có giá trị sử dụng, nhưng không do lao động tạo ra như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng
hóa lại đồng nhất về chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt
không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu
dùng. Do đó nếu giá trị của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất. d) Liên hệ với sản xuất hàng hóa ở Việt
Nam hiện nay
Giá trị sử dụng – Mục tiêu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Thực tiễn ở Việt Nam:
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, từ nhu cầu thiết
yếu đến tiện ích, giải trí, công nghệ cao.
Các doanh nghiệp trong nước ngày càng chú trọng đến việc cải tiến chất lượng, mẫu mã, bao bì để tăng giá trị sử dụng, ví dụ như Vinamilk
phát triển các dòng sữa chuyên biệt cho từng đối tượng (trẻ em, người già, người tiểu đường...).
Giá trị – Biểu hiện bằng hao phí lao
động xã hội Thực tiễn ở Việt Nam:

Trong bối cảnh hội nhập, doanh nghiệp Việt phải cạnh tranh về giá cả, tức là tối ưu hóa chi phí sản xuất để giữ vững hoặc tăng giá trị hàng
hóa trong khi vẫn đảm bảo chất lượng.
Việc ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất là cách để giảm hao phí lao động, qua đó gia tăng giá trị.
Xuất khẩu các mặt hàng như nông sản, dệt may, linh kiện điện tử đều phụ thuộc vào khả năng kiểm soát giá trị sản phẩm tương ứng với
công sức và chi phí đã bỏ ra.
Liên hệ thực tế tổng hợp:
Việc sản xuất hàng hóa ở Việt Nam không chỉ dừng ở việc "làm ra để có dùng" (giá trị sử dụng) mà còn là "làm ra để bán – để trao đổi và
tạo lợi nhuận" (giá trị). Muốn cạnh tranh được trong và ngoài nước, doanh nghiệp cần kết hợp hài hòa hai yếu tố này: tạo ra hàng hóa có
giá trị sử dụng cao và giá thành cạnh tranh (giá trị tốt), từ đó nâng cao năng lực sản xuất quốc gia.
3. Lao động cụ thể là gì? VD. Đặc điểm của lao động cụ thể? Lao động trù tượng là gì, có đặc điểm gì?
a) Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
VD: lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có
mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; công cụ là kim, chỉ, máy may
chứ không phải là cái cưa, cái bào...; lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi...

=> Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do
có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để
đáp ứng nhu cầu của xã hội. b) Lao động trù tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính
là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu
tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhântính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
Mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động
cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống
phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc
cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao
động
chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Giữa lao động tư nhân và
lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau, được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau: -
Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung
cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được,
tức không thực hiện được giá trị. -
Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng
hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
=> Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những
mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
4. Lượng giá trị hàng hóa là gì? Thước đo của lượng giá trị hàng hóa? Lao động cá biệt là gì, cho VD? Lao động tất yếu là gì, cho VD?
Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:
+Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyểt định.
a) Thước đo lượng giá trị của hàng hóa.

Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động, v.v.. Do đó, lượng giá
trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất
ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cả biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra. Vậy phải
chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị?
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết
định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy".
Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với
một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian
lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi
lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố:
Thứ nhất, năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số
lượng thời gian cần thiết đế sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không
phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị
sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao dộng xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng
tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết
tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và
trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm
nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động
hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể
chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức
tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được.
Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một vấn đề đặt ra là: phải chăng trong cùng một đơn vị thời gian lao
động, thì bất cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa
bát là lao động giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, không phải trải qua đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt,
cũng có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian
huấn luyện tay nghề. Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với
lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có
thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao
động giản đơn trung bình.
C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân lên...”.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
c) Cấu thành lượng giá trị hàng hóa
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công
cụ, nguyên vật liệu và lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, lao
động cụ thể của người sản xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong
sản phẩm (ký hiệu là c), còn lao động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) có vai trò
làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới trong sản phẩm (ký hiệu là V + m).Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa
bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới. c. Lao động cá biệt
Khái niệm: Lao động cá biệt là lao động riêng lẻ của từng người sản xuất hàng hóa, hao phí sức lao động (thời gian lao động) của mỗi
người để tạo ra một hàng hóa nhất định. Ví dụ:
Một người thợ may A may một chiếc áo sơ mi hết 3 giờ. Đây là thời gian lao động cá biệt của thợ may A để tạo ra chiếc áo đó. •
Một người nông dân B trồng một sào lúa hết 10 ngày công. Đây là thời gian lao động cá biệt của nông dân B để có được sản
lượng lúa trên sào đất đó. •
Một công nhân C lắp ráp một chiếc ô tô hết 5 giờ làm việc. Đây là thời gian lao động cá biệt của công nhân C để hoàn thành công
việc lắp ráp chiếc ô tô.
Điểm cần lưu ý là thời gian lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể khác nhau do trình độ kỹ năng, trang thiết bị, điều kiện làm việc khác nhau.
d. Lao động tất yếu
Khái niệm: Lao động tất yếu là phần thời gian lao động mà người công nhân tạo ra giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của bản
thân. Nói cách khác, đây là thời gian người lao động làm việc để tái sản xuất ra giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và gia đình họ. Ví dụ:
Giả sử một công nhân làm việc 8 giờ một ngày và được trả một khoản tiền lương đủ để trang trải các chi phí sinh hoạt cơ bản hàng ngày
của họ. Nếu trong 4 giờ đầu tiên của ngày làm việc, người công nhân tạo ra một lượng giá trị sản phẩm tương đương với số tiền lương họ
nhận được, thì 4 giờ này được gọi là thời gian lao động tất yếu. Khoảng thời gian còn lại (trong ví dụ này là 4 giờ) được gọi là thời gian
lao động thặng dư, trong đó người công nhân tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
5. Năng suất lao động là gì, VD? Năng suất lao động tăng dẫn đến điều gì? Năng suất lao động giảm dẫn đến điều gì? Năng suất
lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?

Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng
thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
VD: một nông dân trồng lúa thu hoạch được 1 tấn lúa/1 hecta; một công nhân trong nhà máy ô tô có thể lắp ráp được 5 chiếc ô tô mỗi
ngày; một đội thợ xây hoàn thành việc xây dựng ngôi nhà trong 3 tháng…

Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời
gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị
hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. => Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
Khi năng suất lao động giảm thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ tăng lên vì thời gian lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị hàng
hóa tăng lên (sản xuất được ít hàng hóa hơn, tốn nhiều công sức…).
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân, mức độ phát triển
của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất
của tư liệu sản xuất, và các điều kiện tự nhiên.
6. Cường độ lao động là gì, VD? Cường độ lao động tăng dẫn đến điều gì? Cường độ lao động giảm dẫn đến điều gì? Cường độ
lao động phụ thuộc vào những yếu tố nào?

Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng
nhọc hay căng thẳng của lao động.
VD: : Một nhà máy dệt, trong 8h sản xuất được 16 chiếc áo có tổng giá trị là 80 đô. CDLD tăng lên 1,5 lần thì tạo
ra lượng giá trị 1 sản phẩm là 20 đô
Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng
nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên
tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động
cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Nếu cường độ lao động giảm xuống thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra giảm xuống và sức hao phí lao động cũng giảm
xuống tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khoẻ, thể chất, tâm lí, trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công
tác tổ chức, ki luật lao động,...Nếu giải quyết tốt các những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, tập trung hơn, thuần
thuật hơn, tập trung hơn do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ: chúng đều dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau ở chỗ: tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Hơn nữa, tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều
vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần như là một yếu tố có "sức sản xuất" vô hạn; còn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản phẩm
sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Hơn nữa, tăng cường độ lao động phụ
thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là yếu tố của "sức sản xuất" có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng
năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
7. Lao động giản đơn là gì, có đặc điểm gì? Lao động phức tạp là gì, có đặc điểm gì?
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Đặc điển: Công việc này thường bao gồm các nhiệm vụ lặp đi lặp lại, dễ thực hiện và có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai, miễn là họ có
sức khỏe và khả năng làm việc. Có tính chất cơ bản và không đòi hỏi nhiều tư duy sáng tạo hay kỹ năng phức tạp. ví dụ: Công nhân sản
xuất, nhân viên phục vụ, nhân viên vệ sinh, nhân bán hàng,..

Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Đặc điểm: yêu cầu kỹ năng chuyên môn cao, trình độ học vấn, và khả năng tư duy sáng tạo hoặc phân tích. Công việc này thường đòi hỏi
người lao động phải có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm thực tiễn, và khả năng giải quyết vấn đề trong các tình huống khác nhau. Lao
động phức tạp thường liên quan đến các lĩnh vực như khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, và quản lý. Ví dụ: Bác sĩ, kĩ sư, giáo viên, lập
trình viên, nhà nghiên cứu,…

Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn
được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được
quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.
8. Với tư cách 1 nhà kinh doanh, anh/chị làm gì để cho công ty của mình đạt được năng suất và cường độ tốt nhất? -
Tối ưu hóa quy trình làm việc:
Phân tích và cải tiến quy trình làm việc để loại bỏ những bước không cần thiết, giúp tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả.
Đầu tư vào công nghệ: Sử dụng phần mềm và công cụ tự động hóa để giảm bớt khối lượng công việc thủ công, từ đó giúp nhân viên tập
trung vào các nhiệm vụ quan trọng hơn.
Đào tạo nhân viên: Cung cấp các khóa đào tạo thường xuyên để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho nhân viên, giúp họ làm việc hiệu quả hơn. -
Tạo môi trường làm việc tích cực
Khuyến khích sự sáng tạo: Tạo điều kiện cho nhân viên đóng góp ý tưởng và cải tiến quy trình làm việc, từ đó tăng cường sự tham gia và động lực.
Cung cấp phúc lợi hợp lý: Đảm bảo rằng nhân viên nhận được các phúc lợi như bảo hiểm sức khỏe, thời gian nghỉ ngơi hợp lý và các
chương trình khen thưởng để giữ chân nhân tài.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp: Tạo ra một môi trường làm việc thân thiện, nơi mà nhân viên cảm thấy được tôn trọng và có giá trị. -
Động lực và khuyến khích
Cung cấp các chương trình khen thưởng: Thiết lập các chương trình thưởng cho những nhân viên có thành tích xuất sắc, khuyến khích họ làm việc chăm chỉ hơn.
Đánh giá hiệu suất thường xuyên: Thực hiện các cuộc đánh giá hiệu suất định kỳ để nhận diện và khen thưởng những đóng góp của nhân viên.
Khuyến khích sự hợp tác: Tạo ra các cơ hội cho nhân viên làm việc nhóm, giúp họ học hỏi lẫn nhau và tăng cường sự gắn kết trong công việc.