











Preview text:
TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
CHỦ ĐỀ: NỘI DUNG CỦA NGUYÊN LÝ TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý
THỨC XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội a.
Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật
chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan
hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con
người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
VD: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy các bộ lạc người sống bầy đàn sống bằng
hình thức săn bắt, hái lượm, dùng đá để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã
có những bước tiến lớn trong kỉ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định nhằm phục vụ
đời sống. Thời kì này con người biết tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như
đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ… Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống
con người cộng với sự đa dạng phong phú của các loài động thực vật nên nguồn tài nguyên rất phong phú. b.
Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là phương tức dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội bao gồm
phương thức sản xuất vật chất, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý,
dân số và mật độ dân số.
Các yếu tố do tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, chúng tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển chủ yếu trong xã hội. Trong đó thì
phương thức sản xuất vật chất sẽ được xác định là yếu tố cơ bản nhất. Như trong lời tựa
của tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phương thức sản
xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ.”
- Phương thức sản xuất ra của cải vật chất là cách thức con người tiến hành quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
VD: Phương thức kỹ thuật canh tác nông nghiệp lúa nước được xác định là nhân tố
cơ bản tạo thành điều kiện hoạt động vật chất truyền thống của người Việt Nam.
- Các yếu tố khác liên quan đến điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý như các điều kiện về
khí hậu, đất đai, nguồn nước,…tạo nên đặc điểm riêng biệt của không gian sinh tồn của xã
hội. Đây là điều kiện thường xuyên và tất yếu của sự tồn tại và phát triển của xã hội, nó
có thể gây ảnh hưởng khó khăn hoặc thuận lợi cho đời sống của con người và sản xuất xã hội.
VD: Việt Nam có những đồng bằng rộng lớn, nằm giáp với biển Đông đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giao thương và phát triển kinh tế vùng đồng bằng. chính những
điều kiện tự nhiên đặc biệt đó tạo ra không gian sinh tồn xã hội.
- Các yếu tố về dân cư, bao gồm cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô hình tổ
chức dân cư… Đây là điều kiện đối với đời sống xã hội vì nó có ảnh hưởng thuận lợi hoặc
khó khăn đối với đời sống và sản xuất.
VD: Cấu trúc dân cư của nền nông nghiệp trong xã hội Việt Nam xưa thì tổ chức
dân cư theo mô hình làng xã sẽ phù hợp và tạo thuận lợi hơn so với tổ chức dân cư theo lối du mục di động.
Chính khẳng định trên của C.Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, dây
dựng quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội như
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng toàn bộ gốc rễ của sự phát triển loài người, kể cả ý
thức con người đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của điều kiện kinh tế-xã
hội, nghĩa là “không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý
thức”. Từ đó, ta có nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội không
chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả nội dung và hình
thức biểu hiện của nó và một lúc nào đó các hình thái ý thức sẽ tác động và ảnh hưởng trở
lại tồn tại xã hội và đó là tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
2, Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội: a)
Khái niệm ý thức xã hội: -
Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. -
Nếu “ý thức…không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì
ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về
hiện thực xung quanh mình.
Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp
thành của văn hóa tinh thần xã hội. b)
Kết cấu của ý thức xã hội: -
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư tưởng xã
hội, quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong tâm lý xã
hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại
xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định. -
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, cùng phản ánh tồn tại xã hội, song giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân vẫn có sự
khác nhaun tương đối vì chúng thuộc hai trình độ khác nhau. -
Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ và cụ thể (tôi, anh, cậu
ta). Ý thức của các cá nhân khác nhau đều phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác
nhau, song không phải bao giờ nó cũng đại diện cho quan điểm chung, phổ biến của một
cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay một thời đại xã hội nhất định nào đó. -
Về mặt hình thức, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới nhiều hình thức khác
nhau. Tùy vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành những dạng hình thức sau:
Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận: -
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được
hệ thống hóa và khái quát hóa. -
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan niệm được tổng hợp, được hệ thống hóa và
khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. -
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động và trực tiếp các mặt khác nhau của
cuộc sống hằng ngày của con người. Trình độ ý thức thông thường tuy thấp hơn ý thức lý
luận nhưng lại phog phú hơn ý thức lý luận. Chính tri thức kinh nghiệm phong phú của ý
thức thông thường là tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận. -
Ý thức lý luận (ý thức khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một
cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra mối liên hệ khách quan bản chất, tất yếu
mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: -
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức các nhân. Tâm lý xã hội bao
gồm toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán…của một
người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp của
cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó. -
Đặc điểm của tâm lý xã hội: •
Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện cuộc sống hằng ngày của con người. •
Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên
bề mặt của tồn tại xã hội. •
Chưa đủ khả năng để vạch ra những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu
mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội. -
Tuy nhiên, cần coi trọng vai trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xã
hội, nhất là việc sớm nắm bắt những dư luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu
xã hội đa dạng của nhân dân trong hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. -
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý
luận về tồn tại xã hội. -
Đặc điểm của hệ tư tưởng: •
Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng. •
Có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội. •
Là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành
nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo… -
Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng
không khoa học. Hệ tư tưởng không khoa học phản ánh các mối quan hệ vật chất một
cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh một cách
khách quan, chính xác. Cả hai loại hệ tư tưởng này đều có ảnh hưởng đối với sự phát triển của khoa học.
Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: Tuy là hai trình độ, hai phương
thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội nhưng chúng vẫn có mối liên hệ qua lại lẫn
nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận của
một hệ tư tưởng nào đó; có thể giúp hệ tư tưởng bớt xơ cứng, bớt sai lầm, thì trái lại, hệ tư
tưởng khoa học có thể làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần thúc đẩy
tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực. c)
Tính giai cấp của ý thức xã hội: -
Trong những xã hội có giai cấp, các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác
nhau, có lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau. -
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng: •
Về trình độ tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen, thiện cảm hay ác cảm riêng. •
Ở trình độ hệ tư tưởng, tính gai cấp thể hiện rõ rệt và sâu sắc hơn nhiều. Ở trình độ
này sự đối lập giữa các hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau thường không dung hòa
nhau. Khi đó, hệ tư tưởng thống trị trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. •
Về điều này C.Mác và Ph.Angghen viết: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của
giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực
lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội.
Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư
liệu sản xuất tinh thần”. -
Nếu hệ tư tưởng của giai cấp thống trị có giai cấp đối kháng bao giờ cũng bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị bao giờ cũng bảo vệ
quyền lợi của những người bị bóc lột, của đông đảo quần chúng nhân dân bị áp bức nhằm
lật đổ chế độ người bóc lột người đó. -
Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội thì quan niệm duy vật về lịch sử
cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau. Giai cấp
thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Điều này thường xảy ra trong giai đoạn
phong trào cách mạng của giai cấp bị thống trị lên cao. Khi đó, một số người trong giai
cấp thống trị, nhất là những trí thức, sẽ từ bỏ giai cấp xuất thân để chuyển sang hàng ngũ
của giai cấp cách mạng. Đặc biệt, một số người đã trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.
d) Các hình thái ý thức xã hội: -
Các hình thái ý thức của xã hội thể hiện các phương thức nắm bắt khác nhau về
mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội, bởi vậy ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. -
Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. -
Tính phong phú, đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú
đa dạng của bản thân đời sống xã hội. 1. Ý thức chính trị a. Nguồn gốc, bản chất: -
Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã
hội có giai cấp và nhà nước. -
Trong ý thức chính trị có hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị: là một hệ
thống các quan điểm chính trị của một giai cấp nhất định được diễn tả dưới dạng các học
thuyết chính trị - xã hội. Hệ tư tưởng chính trị được cụ thể hóa trong đường lối, cương
lĩnh của chính đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. -
Nguồn gốc của hệ tư tưởng chính trị phản ánh tập trung kinh tế, phản ánh lợi ích
của một giai cấp nhất định trong đó lợi ích kinh tế là trước nhất. b. Đặc điểm: -
Ý thức chính trị mang tính giai cấp sâu sắc, biểu hiện tập trung ở vai trò Nhà nước. -
Tư tưởng chính trị sẽ mất đi khi không còn giai cấp nữa. c. Vai trò:
Ý thức chính trị tác động đến sự phát triển kinh tế và xâm nhập vào các hình thái ý
thức xã hội khác. Đặc biệt, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội. Sự tác động trở lại của hệ tưởng chính trị đối với tồn tại xã hội tùy thuộc vào: -
Hệ tư tưởng đó thuộc giai cấp nào và vai trò lịch sử của giai cấp đó. (Nếu giai cấp
tiến bộ, tư tưởng chính trị tiến bộ thì thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại tư tưởng
chính trị bảo thủ, lỗi thời của giai cấp bảo thủ thì có tác động kìm hãm sự phát triển của xã hội.) -
Mức độ thâm nhập của hệ tư tưởng chính trị đó vào quần chúng nhân dân. -
Ngày nay, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản Việt Nam là chủ nghĩa MacLênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hệ thống các quan điểm mang tính cách mạng khoa học một
khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn làm động
lực cải biến xã hội cũ và xây dựng xã hội mới 2. Ý thức pháp quyền a. Nguồn gốc bản chất: -
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất
và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công
dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với
nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp của Nhà nước.Cũng
như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này
có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. -
Nguồn gốc: ý thức pháp quyền xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội theo
ý chí của giai cấp cầm quyền b. Đặc điểm: -
Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là
các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. -
Ý thức pháp quyền cũng như ý thức chính trị thể hiện tính giai cấp rõ rệt. Mỗi giai
cấp khác nhau có một quan điểm của mình về pháp luật. -
Ý thức pháp quyền quan hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. ý thức pháp quyền của
giai cấp thống trị do hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định. -
Ý thức pháp quyền được thể chế hóa qua pháp luật. c. Vai trò:
Ý thức pháp quyền của giai cấp thống trị vó vai trò chỉ đạo quá trình xây dựng luật pháp,
bảo vệ luật pháp ban hành, cũng như chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. 3. Ý thức đạo đức a. Nguồn gốc, bản chất: -
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm
lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh
phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. -
Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức ra đời từ rất sớm
trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ -
Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ của
con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức
của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát
triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. -
Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu
thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được
bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn
nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. -
Đó là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết
cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người. Tuy nhiên,
trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh
quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa
vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. -
Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền
đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ăngghen viết:
“Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm
của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong
những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc
là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị
đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu
biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”. b. Đặc điểm: -
Ý thức đạo đức tồn tại mãi trong xã hội loài người. -
Ý thức đạo đức có tính giai cấp trong xã hội có giai cấp c. Vai trò: -
Đạo đức điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác vì nội hàm của
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức bao giờ cũng đề ra một tiêu chuẩn để hướng hành
động, đồng thời nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức bao hàm giá trị của lời khuyên con
người hướng đến cái thiện. -
Sự tác động trở lại của ý thức đạo đức đối với xã hội thông qua sức mạnh của lương tâm. 4. Ý thức nghệ thuật a. Nguồn gốc, bản chất:
Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những cảm xúc, thị hiếu, quan điểm và lý tưởng về cái đẹp. -
Nghệ thuật: Là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ vì là dạng cao
nhất của hoạt động thẩm mỹ. -
Trong nghệ thuật, cái thẩm mỹ vừa là nội dung, phương thức và mục đích của nghệ thuật
Ý thức thẩm mỹ: có nguồn gốc từ hiện thực của xã hội. Nó phản ánh hiện thực vào ý
thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp.
Trong các hình thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là hình
thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ. b. Đặc điểm: -
Phản ánh hiện thực một cách gián tiếp bằng hình tượng nghệ thuật (không phải lúc
nào nghệ thuật cũng phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội) -
Tồn tại mãi với xã hội loài người -
Trong xã hội có giai cấp nghệ thuật có tính giai cấp. c. Vai trò: -
Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nhận thức
- Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân; là nhân tố
thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người.
- Nghệ thuật là phương tiện nhận thức hiện thực, giáo dục tư tưởng, tình cảm, nâng
cao trình độ thẩm mỹ của con người. 5. Ý thức tôn giáo
a. Nguồn gốc, bản chất:
Nguồn gốc của tôn giáo. -
Tôn giáo xuất hiện từ thời nguyên thủy do sự bất lực của con người trước sức
mạnh của tự nhiên và xã hội. Do những hạn chế về nhận thức của con người trước sức
mạnh bên ngoài con người chi phối cuộc sống hằng ngày của họ (thiên tai, chiến tranh tàn
khốc những cảnh phân hóa giàu nghèo, kẻ thống trị người bị trị, những may rủi trong làm
ăn. .). Khi chưa hiểu được bản chất của những sức mạnh đó và chừng nào con người còn
bất lực trước những sức mạnh đó thì con người thường tìm đến với sức mạnh siêu tự
nhiên, đến với niềm tin tôn giáo, tin vào sự giúp sức của đấng tối cao với tài năng và đức
độ tuyệt mỹ. Lênin viết: “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh” -
Tôn giáo thể hiện nguyện vọng của quần chúng bị áp bức muốn thoát khỏi mọi bất
công đi đến một xã hội tốt đẹp, công bằng. Niềm tin tôn giáo mang lại cho họ một niềm
an ủi tinh thần, một niềm hạnh phúc "hư ảo", một sự bù đắp về tinh thần cho những gì
thiếu thốn trong đời thường.
Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh một cách hư ảo vào đầu óc con người
sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ.
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của
quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo
sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. b. Đặc điểm
Tôn giáo có tính lịch sử - xã hội; tính duy tâm - thần bí. c.
Ảnh hưởng của tôn giáo
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chức năng chủ yếu của
mình là chức năng đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.
Chức năng đó làm cho tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội.
Chức năng đền bù – hư ảo nói lên khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung
một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người còn bất lực trước những sức mạnh tự
nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội.Những mâu thuẫn của đời sống
hiện thực, những bất lực thực tiễn của con người được giải quyết một cách hư ảo trong ý
thức họ.Vì vậy, tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức
tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.Chủ nghĩa Mác – Lênin cho
rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất tiêu
cực là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng
xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội. 6. Ý thức khoa học a. Nguồn gốc, bản chất: -
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội
đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó
như một hiện tượng xã hội. -
Ý thức khoa học phản ánh mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguồn gốc
sâu xa của sự hình thành khoa học từ nhu cầu phát triển sản xuất. Do vậy, khoa học phát
triển cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn. b. Đặc điểm: -
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. -
Được phân chia thành nhiều ngành: dựa trên đối tượng của khoa học đó (Khoa học
tự nhiên - kĩ thuật, khoa học xã hội, triết học), dựa trên vai trò tác dụng của tri thức khoa
học (khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng), dựa trên sự giáp ranh về đối tượng (các môn khoa học liên ngành). c. Vai trò của khoa học: -
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. -
Ví dụ: Ý thức chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức
nghệ thuật và nghệ thuật học, ý thức tôn giáo và tôn giáo học. Nhờ tri thức khoa học, con
người không ngừng vươn tới cái mới “sáng tạo ra một thế giới mới” và ngày càng làm chủ
tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. -
Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không
ngừng phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày
càng tăng lên. Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh
trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất – trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình
công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động
không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri
thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các phương
pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. -
Hơn nữa khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày
càng lớn, bao hàm hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán
bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao.
Do những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 7. Ý thức triết học
- Là hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như ý thức xã hội - Vai trò: •
Cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể
Khi đánh giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hegel khẳng định rằng:” xét từ
góc độ tinh thần của chúng ta có thể gọi triết học là cái cần thiết nhất.
Đặc biệt, với C.Mác “vì mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần
của thời đại mình (T.G nhấn mạnh), nên nhất định sẽ có thời kỳ mà triết học, không chỉ về
bên trong, theo nội dung của nó, mà cả về bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc
và tác động qua lại tới thế giới hiện thực của thời đại của mình. •
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học
duy vật biện chứng nói riêng có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở hạt nhân của
thế giới quan chính là tri thức. •
Thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan.
Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và
vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình
thái ấy trong cuộc sống của xã hội và để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và
sự phát triển của chúng.
