Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX - Ngữ văn 10

Đồng thời, trong quá trình dân tộc hóa, văn học Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm, việt hóa thơ Đường luật và sáng tạo các thể thơ dân tộc, từ đó mang đến sự đa dạng và phong phú cho văn học Việt Nam và thể hiện những giá trị văn hóa và tinh thần của người Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:
Môn:

Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX - Ngữ văn 10

Đồng thời, trong quá trình dân tộc hóa, văn học Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm, việt hóa thơ Đường luật và sáng tạo các thể thơ dân tộc, từ đó mang đến sự đa dạng và phong phú cho văn học Việt Nam và thể hiện những giá trị văn hóa và tinh thần của người Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

40 20 lượt tải Tải xuống
Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX
1. Các thành phần của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
1.1. Văn học ch Hán
Văn học chữ Hán một phần quan trọng trong lịch sử văn hóa văn học của nhiều quốc gia
châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc Việt Nam. Văn học chữ Hán được viết
bằng chữ Hán, một hệ thống chữ viết phức tạp phong phú, được phát triển từ chữ nho của
Trung Quốc.
Văn học chữ Hán thời gian tồn tại phát triển từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Trong suốt
khoảng thời gian y, đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa tưởng của các quốc gia sử
dụng chữ Hán. Văn học chữ Hán được chia thành hai thể loại chính là văn xuôi và thơ.
Văn xuôi trong văn học chữ Hán bao gồm nhiều thể loại khác nhau như chiếu, biểu, hịch, cáo,
truyện truyền kì, sự tiểu thuyết chương hồi. Chiếu các văn bản được viết để thông báo,
truyền đạt ý kiến hoặc quyết định của các quan chức. Biểu các văn bản nh chất tả,
miêu tả về các sự kiện, hiện tượng hoặc đối tượng cụ thể. Hịch các văn bản chú thích, giải
thích về các vấn đề pháp lý, chính trị, xã hội. Cáo là các bài viết phê phán, chỉ trích về những vấn
đề xã hội quan trọng. Truyện truyền kì là các câu chuyện hư cấu, thường có yếu tố siêu nhiên, k
bí. Kí sự là các bài viết ghi lại những trải nghiệm, hành trình của tác giả. Tiểu thuyết chương hồi
là dạng tiểu thuyết được viết thành nhiều chương nhỏ, mỗi chương có một câu chuyện riêng.
Thể loại thứ hai trong văn học chữ Hán thơ. Thơ chữ Hán bao gồm các thể loại như phú, thơ
cổ phong, thơ Đường luật nhiều hình thức khác. Phú dạng thơ ngắn cốt truyện, thường
được dùng để diễn tả tình cảm, tâm trạng của tác giả. Thơ cổ phong dạng thơ truyền thống,
theo một số quy tắc về ngôn ngữ, hình thức ý nghĩa. Thơ Đường luật dạng thơ phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ Đường (618-907), có cấu trúc rõ ràng và sử dụng ngôn từ tinh tế.
Văn học chữ Hán đã để lại một di sản văn hóa cùng quý giá ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa nghệ thuật của nhiều quốc gia. Những c phẩm văn học chữ Hán không chỉ góp phần
định hình ý thức tưởng của nhân loại còn mang lại sự đẹp giá trị văn hóa vượt thời
gian.
1.2. Văn học chm
Văn học sử dụng chữ Nôm một phần quan trọng trong lịch svăn a văn học của Việt
Nam. Nó xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII và tồn tại, phát triển đến hết thời kỳ văn học trung đại.
Thời kỳ văn học sử dụng chữ Nôm chủ yếu tập trung vào thể loại thơ, với rất ít tác phẩm văn
xuôi. Văn học sử dụng chữ Nôm tiếp thu một số thể loại từ văn học Trung Quốc như phú và văn
tế, nhưng sáng tác theo thể thơ khá tự do. Các tác phẩm thơ sử dụng chữ Nôm thường mang đậm
tính dân tộc và phản ánh cuộc sống, tình cảm của người Việt Nam.
Ngoài việc tiếp thu từ văn học Trung Quốc, văn học sử dụng chữ Nôm cũng đã dân tộc hóa một
số thể loại văn học Trung Quốc. dụ, thơ Nôm đường luật một thể loại thơ phát triển mạnh
mẽ, có cấu trúc rõ ràng và sử dụng ngôn từ tinh tế, tương tự như thơ Đường luật của Trung Quốc.
Thơ Nôm đường luật thường sử dụng các ngôn ngữ hình thức của ngôn ngữ Nôm để thể hiện
tinh thần dân tộc.
Ngoài ra, văn học sử dụng chNôm cũng đã sáng tác theo các thể văn học của dân tộc Việt
Nam. Các thể loại như ngâm khúc (bao gồm song thất lục bát), truyện thơ (lục bát) hát nói
(thơ tự do kết hợp với âm nhạc) đã được phát triển sử dụng rộng rãi trong văn học chữ Nôm.
Ngâm khúc một thể thơ cấu trúc đặc biệt, thường được sử dụng trong các bài hát, diễn đàn
dân ca. Truyện thơ thường những câu chuyện được kể qua các câu thơ, thường thể truyện
dài hoặc truyện ngắn. Hát nói là một thể loại văn học kết hợp giữa thơ và nhạc, thường được biểu
diễn trong các buổi hòa nhạc, sự kiện văn hóa.
Văn học sử dụng chữ Nôm đã góp phần quan trọng trong việc phát triển bảo tồn văn hóa dân
tộc Việt Nam. Các tác phẩm văn học chữ Nôm không chỉ mang giá trị văn hóa nghệ thuật
còn là nhân chứng lịch sử, thể hiện ý thức và tư tưởng của người Việt Nam trong quá khứ.
2. Các giai đoạn phát triển của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
2.1. Giai đoạn t thế k X đến hết thế k XIV
Trong giai đoạn khôi phục xây dựng nền văn hiến dân tộc, văn học đóng vai trò quan trọng
trong quá trình y. Đây thời kỳ đặt nền móng định hướng cho văn học dân tộc, bước đầu
xác định được cả hình thức và nội dung của văn học.
Nội dung văn học trong giai đoạn này tập trung vào các đề tài yêu nước, mang âm hưởng hào
hùng, khẳng định ngợi ca dân tộc. Những tác phẩm văn học được sáng tác trong thời k này
thường truyền tải thông điệp yêu nước mạnh mẽ, tôn vinh cái đẹp và lòng tự hào về dân tộc.
Về mặt nghệ thuật, văn học trong giai đoạn này chia thành hai dòng chính là văn học chữ Hán và
văn học chữ Nôm. Văn học chữ Hán bao gồm văn chính luận văn xuôi viết về lịch sử, văn
hóa; cùng với đó thể loại thơ phú. Văn chính luận văn xuôi thường mang tính quan
điểm, phân tích sự kiện, truyền đạt tư tưởng và tri thức. Thể loại thơ và phú thường được sử dụng
để thể hiện tình cảm và tâm trạng của tác giả.
Văn học chữ Nôm trong giai đoạn y chỉ mới đặt những viên gạch đầu tiên chưa phát triển
mạnh mẽ. Một số bài thơ phú được sáng tác bằng chữ Nôm đã xuất hiện, tuy nhiên, văn học chữ
Nôm chưa có sự đa dạng và phong phú như văn học chữ Hán.
Trong giai đoạn này, một số tác giả tác phẩm tiêu biểu đáng kể. Chiếu dời đô của Lí Công
Uẩn Nam quốc sơn của Thường Kiệt những tác phẩm mở đầu cho dòng văn học yêu
nước. Hai c phẩm y thể hiện lòng trung thành với đất nước, tình u và lòng tự hào về dân
tộc. Ngoài ra, còn các tác phẩm tiêu biểu khác như Hịch tướng Tỏ lòng, mang hào khí
Đông Á, tôn vinh bản sắc truyền thống của dân tộc. Các tác phẩm y góp phần quan trọng
trong việc xây dựng và thể hiện ý thức dân tộc trong văn học.
2.2 Giai đoạn t thế k XV đến hết thế k XVII
Trong giai đoạn này, văn học phát triển theo hướng dân tộc hóa từ ngôn ngữ đến thể loại, từ hình
thức đến nội dung. Những tác phẩm văn học trong thời kỳ y mang đậm tinh thần yêu nước
chuyển từ việc ca ngợi đến việc phản ánh, phê phán hiện thực xã hội phong kiến.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học chữ Hán phát triển với nhiều thành tựu đáng chú ý. Văn
chính luận trở thành một thể loại văn học quan trọng được sử dụng để phê phán truyền đạt ý
kiến về hội. Văn xuôi tự sự cũng được phát triển, cho phép các tác giả tả lại cuộc sống của
mình và chia sẻ những trải nghiệm cá nhân.
Văn học chữ Nôm cũng trải qua quá trình Việt hóa tiếp thu từ văn học Trung Quốc. Thể loại
thơ Nôm Đường luật thơ thất ngôn xen lục ngôn được ra đời. Đồng thời, văn học chữ Nôm
cũng sáng tạo phát triển những thể loại văn học dân tộc mới như khúc nm, khúc vịnh và
diễn ca lịch sử.
nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này. Những sáng tác yêu nước như "Quốc
âm thi tập", "Ức trai thi tập" và "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi đã ghi dấu ấn sâu sắc trong
văn học thời k y. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đóng góp với thơ chữ Hán chữ Nôm, trong
khi Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn sáng tác "Hồng Đức Quốc âm thi tập". Truyện ký "Truyền kì
mạn lục" của Nguyễn Dữ cũng là một tác phẩm văn xuôi tự sự tiêu biểu của thời kỳ này.
Như vậy, văn học giai đoạn này phát triển mạnh mẽ theo hướng dân tộc hóa, với nội dung phản
ánh và phê phán hiện thực hội phong kiến, cùng sự phát triển của văn chính luận, văn xuôi tự
sự, thơ Nôm các thể loại văn học dân tộc khác. Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ
này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn học Việt Nam.
2.3 Giai đoạn t thế k XVIII đến nửa đầu thế k XIX
Thời kỳ phát triển rực rỡ của văn học trung đại Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành toàn diện
của nền văn chương. Trong giai đoạn y, xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học,
tập trung vào việc quan tâm đến con người bình thường và đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh
phúc lứa đôi.
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại Việt Nam đạt được nhiều thành tựu lớn cả về văn xuôi
văn vần, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm và các thể loại văn học dân tộc đạt
tới đỉnh cao, thể hiện sự sáng tạo và độc đáo của văn hóa dân tộc. Văn học chữ Hán cũng đạt
được nhiều thành tựu văn nghệ thuật lớn, bao gồm tiểu thuyết chương hồi, kí, và tùy bút.
Trong thời k y, nhiều tác giả tác phẩm tiêu biểu. "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn
Gia Thiều "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, đề
cao tinh thần nhân đạo chống lại bất công hội. "Hoàng nhất thống chí" của Ngô Gia
Văn Phái là một tác phẩm văn vần đặc sắc, mô tả cuộc sống và sự thăng trầm của vua Hoàng Lê.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi đỉnh cao của thơ ca trung đại Việt Nam, với nội dung
sâu sắc và diễn đạt tài tình. Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ là hai cây đại thụ ở giai đoạn cuối
vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo, nhưng đã bộc lộ cái tôi tình cảm riêng tư trong tác phẩm của
mình.
Tóm lại, thời kỳ phát triển rực rỡ của văn học trung đại Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành
toàn diện với sự xuất hiện của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa sự đạt thành tựu lớn trong cả văn
xuôi và văn vần, cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu trong thời ky đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển và đa dạng hóa văn học trung đại Việt Nam.
2.4 Giai đoạn na cui thế k XIX
Giai đoạn này, văn học trung đại Việt Nam tập trung vào những nội dung bản như ca ngợi
tinh thần yêu nước chống thực dân Pháp. Những tác phẩm văn học trong thời kỳ y cũng
vạch trần những hiện thực nhố nhăng của hội thực dân nửa phong kiến bằng ngòi bút châm
biếm. Đồng thời, văn học giai đoạn y cũng bộc lộ tưởng canh tân đất nước, thể hiện mong
muốn cải cách và phát triển.
Về mặt nghệ thuật, sáng tác văn học chủ yếu vẫn theo thể loại và thi pháp truyền thống. Văn học
chữ Hán và chữ Nôm vẫn chiếm vị trí chính trong văn học trung đại Việt Nam, mặc dù đã có một
số tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện.
Trong giai đoạn y, nhiều tác giả tác phẩm tiêu biểu. Nguyễn Đình Chiểu một trong
những tác giả nổi tiếng của thời kỳ này, với tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" "Ngư tiều
y thuật vấn đáp" đề cao tinh thần yêu nước. Thơ ca trữ tình trào phúng của Nguyễn Khuyến
Trần Tế Xương cũng góp phần đặc sắc vào văn học trung đại Việt Nam.
Tóm lại, văn học trung đại Việt Nam trong giai đoạn y tập trung vào những nội dung bản
như ca ngợi tinh thần yêu nước, vạch trần hiện thực hội và bộc lộ tư tưởng canh tân đất nước.
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại vẫn tuân thủ thể loại và thi pháp truyền thống, với văn học
chữ Hán chữ Nôm chiếm vị trí chính. Các tác giả tác phẩm tiêu biểu như Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến Trần Tế Xương đã góp phần quan trọng vào sự phát triển đa dạng
hóa văn học trung đại Việt Nam.
3. Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
3.1 Ch nghĩa yêu nưc
Trong văn học trung đại, chủ nghĩa yêu nước được gắn liền với tưởng "Trung quân ái quốc",
tức lòng yêu quý tận tụy với quê hương dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học
trung đại thể hiện một loạt các phương diện quan trọng.
Đầu tiên, ý thức độc lập tự do, tự cường tự hào dân tộc những yếu tố quan trọng trong văn
học trung đại. Các tác phẩm thường tôn vinh bản sắc truyền thống của dân tộc, khẳng định
lòng tự hào trước những chiến công và lịch sử của dân tộc.
Thứ hai, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại thể hiện lòng căm thù giặc ý chí quyết
chiến, quyết thắng chống lại kthù xâm lược. Các tác phẩm thường mạnh mẽ truyền tải thông
điệp về sự kiên cường và quyết tâm của dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
Thứ ba, văn học trung đại cũng mang trong mình tinh thần xót xa bi tráng trước tình cảnh đất
nước mất nhà tan. Các tác phẩm thể hiện sự đau lòng mất mát sau những trận chiến, sự tàn
phá của cuộc chiến, và gợi lên ý thức về việc phục hồi và xây dựng lại đất nước.
Thứ tư, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại còn thể hiện thái độ trách nhiệm khi xây
dựng đất nước trong thời bình. Các tác phẩm khuyến khích sự đoàn kết, cống hiến trách
nhiệm cá nhân để xây dựng một xã hội hòa bình và phát triển.
Thứ năm, văn học trung đại cũng biểu đạt lòng biết ơn ca ngợi những người đã hi sinh đất
nước. Các tác phẩm thường nhắc đến những anh hùng, chiến sĩ và những người đã đóng góp cho
sự độc lập và thịnh vượng của dân tộc.
Cuối cùng, tình yêu thiên nhiên đất nước cũng một phương diện quan trọng trong văn học
trung đại. Các tác phẩm thường ca ngợi vẻ đẹp của tự nhiên và sự liên kết sâu sắc giữa con người
và môi trường sống của mình.
Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại được thể hiện qua nhiều phương diện như ý
thức độc lập tự cường, lòng căm thù giặc, xót xa trước tình cảnh mất nhà tan, trách nhiệm y
dựng đất nước, biết ơn và tôn vinh những người hi sinh, cùng tình yêu thiên nhiên và đất nước.
3.2 Ch nghĩa nhân đạo
Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại được thể hiện qua thơ văn của nhiều tác giả nổi
tiếng như Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương
Huyện Thanh Quan. Tác giả Nguyễn Dữ đã viết nhiều bài thơ ca ngợi lòng yêu thương tình
cảm đối với con người trong hội. Ông cũng tập trung vào việc tố cáo sự bất công áp bức
của thế lực tàn bạo.
Đặng Trần Côn, một tác giả công đóng góp lớn trong văn học trung đại, đã viết nhiều tác
phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo và lòng chia sẻ với số phận con người bất hạnh. Ông thường đề
cao những phẩm chất cao đẹp và tài năng của con người, cùng với sự khao khát chính đáng trong
cuộc sống.
Nguyễn Gia Thiều một tác giả khác đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến số phận con người
thông qua tác phẩm của mình. Ông tập trung vào việc khẳng định trân trọng những quan hệ
đạo đức tốt đẹp và khát vọng của con người.
Nguyễn Du, một trong những nhà thơ lớn nhất trong văn học Việt Nam, đã sử dụng thơ văn để tố
cáo sự bất công và áp bức đối với con người. Ông bênh vực và bảo vệ quyền lợi của con người,
đồng thời thể hiện khát vọng sống, hạnh phúc và công lí chính nghĩa.
Hồ Xuân Hương Bà Huyện Thanh Quan cũng đã đóng góp vào chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học trung đại. Hai nhà thơ này thường sử dụng ngôn ngữ hài hước và sắc bén để phê phán những
thế lực tàn bạo và bày tỏ lòng chung thủy với con người.
Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại nguồn gốc từ truyền thống dân tộc văn học
dân gian. Nó cũng ảnh hưởng bởi tư tưởng nhân văn tích cực của các tôn giáo như đạo Phật, Nho
giáo và Đạo giáo. Tinh thần nhân đạo được biểu hiện qua việc quan tâm đặc biệt đến số phận con
người, cảm thông chia sẻ với những người bất hạnh, đồng thời tố cáo sự tàn bạo bênh vực
cho khát vọng sống, hạnh phúc và công lí chính nghĩa của con người.
3.3 Cm hng thế s
Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại Việt Nam một sự bày tỏ suy nghĩ nh cảm về
hiện thực đời sống và hiện thực xã hội. được thể hiện nét trong nhiều tác phẩm văn và thơ
của thời kỳ này, mang đến cái nhìn sâu sắc về nhân tình, xã hội và cuộc sống.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà thơ ảnh hưởng sâu sắc trong văn học trung đại Việt Nam, đã
thể hiện cảm hứng thế sự một cách tinh tế qua những bài thơ về nhân tình thế thái. Các tác phẩm
của ông thường tả về sự lưu đày, khổ đau sự thất vọng trong cuộc sống, tạo nên một tầm
nhìn chân thực về con người và xã hội.
Thượng Kinh sự trung tùy bút những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu thể hiện cảm hứng
thế sự về hiện thực hội. Trong những tác phẩm này, tác giả tả lại cuộc sống hội, những sự
kiện hàng ngày những mặt trái của xã hội, từ đó thể hiện quan điểm, n án hoặc y tỏ tình
cảm yêu, ghét đối với hiện thực xã hội.
Nguyễn Khuyến Xương hai nhà thơ khác đã sử dụng cảm hứng thế sự để thể hiện cuộc
sống và xã hội. Nguyễn Khuyến thể hiện đời sống nông thôn và những khó khăn của người nông
dân thông qua những bài thơ sâu sắc cảm động. Xương tập trung vào hội thành thị
những khía cạnh đen tối của cuộc sống thành thị, đồng thời bày tỏ khát vọng và hoài bão của con
người.
Trong tổng thể, cảm hứng thế sự là một yếu tố quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam, cho
phép tác giả bày tỏ suy nghĩ, tình cảm về hiện thực đời sống và hiện thực xã hội. Tác giả sử dụng
cảm hứng này để bộc lộ tình cảm yêu, ghét, lên án và cả khát vọng, hoài bão của con người trong
các tác phẩm của mình.
4. Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
4.1 Tính quy phm và s phá v tính quy phm
Tính quy phạm trong văn học là sự quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu mà người sáng tác văn học
phải tuân theo. Đây một tập hợp các quy tắc nguyên tắc về cách viết, cấu trúc hình thức
của tác phẩm văn học. Tính quy phạm định các tiêu chuẩn quy cách người viết phải
tuân thủ để đảm bảo tính thống nhất và sự hợp lý trong tác phẩm.
Văn chương truyền thống coi trọng mục đích giáo huấn, tức là việc truyền đạt ý chí và bày tỏ đạo
làm người thông qua văn bản. Tác phẩm văn học được xem như một công cụ để giáo dục
hướng dẫn độc giả về đạo đức, triết lý và nhân văn. Việc bộc lộ ý chí và đạo lí trong văn chương
giúp tác giả truyền tải thông điệp và tác động đến nhận thức và tư tưởng của độc giả.
Nghệ thuật là một khía cạnh quan trọng trong văn học truyền thống. Sáng tác theo công thức ước
lệ và tượng trưng là những hình thức nghệ thuật được tuân thủ chặt chẽ. Công thức ước lệ đòi hỏi
tuân thủ những quy tắc về số câu, số chữ, niêm, niêm, luật, đối, bố cục các yếu tố khác để tạo
ra một tác phẩm cân đối và hài hòa. Tượng trưng việc sử dụng hình ảnh ngôn ngữ ẩn dụ để
truyền đạt ý nghĩa sâu sắc và tầng bậc.
Tuy nhiên, những tác giả đã phá vỡ tính quy phạm phát huy tính sáng tạo trên cả hai
lĩnh vực nội dung và nh thức. Những tác giả như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Du, Trần Tế Xương đã tạo ra những tác phẩm đột phá, không tuân theo những
quy tắc truyền thống mà tự do sáng tạo trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của mình. Họ
đã đóng góp vào việc trở thành những nhân vật nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam và tạo ra
những tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học nước nhà.
4.2 Khuynh hướng trang nhã và xu hưng bình d
Trang nhã là một đặc điểm quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam, tức sự nghiêm trang và
thanh tao. Văn học trung đại Việt Nam thường có tính trang nhã thể hiện ở những mặt sau:
Về đề tài, chủ đề: Văn học trung đại Việt Nam hướng tới cái cao cả, trang trọng hơn cái đời
thường bình dị. Các tác phẩm thường chọn những đề tài và chủ đề mang tính triết lý, đạo đức, và
nhân văn để thể hiện sự trang nhã nhấn mạnh vào giá trị tinh thần. Những vấn đề như tình
yêu, tình bạn, lòng nhân ái, và sự sáng suốt đạo đức thường được khắc họa trong các tác phẩm.
Về hình tượng nghệ thuật: Văn chương trung đại Việt Nam hướng tới vẻ tao nhã lệ hơn
vẻ đẹp đơn mộc mạc. Các hình tượng trong tác phẩm thường được tạo dựng với sự tinh tế
tỉ mỉ, mang tính chất tượng trưng và biểu đạt sthanh nhã. Sử dụng các hình ảnh, so sánh và
diễn tả tinh tế giúp tác giả truyền tải ý nghĩa sâu sắc và tầng bậc.
Về ngôn ngữ nghệ thuật: Văn chương trung đại Việt Nam sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý và
cách diễn đạt trau chuốt, hoa hơn sử dụng công thức tự nhiên. Từ ngữ được lựa chọn k
càng, sắc sảo thể hiện sự tinh tế trong việc diễn đạt ý nghĩa. Từ ngữ được chọn để mang tính
chất trang nhã, trau chuốt, và tạo nên một không gian văn chương lịch sự và thanh tao.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của văn học, văn chương ngày càng gắn bó với hiện thực và
đã đưa văn học từ phong cách sang trọng, tao nhã về gần gũi với đời sống hiện thực, tự nhiên
bình dị. Các tác giả hiện đại thường tập trung vào việc tái hiện cuộc sống hàng ngày, văn hóa dân
gian cảm xúc con người một cách chân thực gần gũi. Từ đó, văn học hiện đại đã thể hiện
sự đa dạng và đáng chú ý về phong cách và hình thức.
4.3 Tiếp thu và dân tc hóa tinh hoa văn học nước ngoài
Trong quá trình phát triển văn học Việt Nam, đã tiếp thu hòa quyện tinh hoa văn học Trung
Quốc nhiều nh vực khác nhau. Dưới đây chi tiết về việc tiếp thu tinh hoa văn học Trung
Quốc các nh vực ngôn ngữ, thể loại thi liệu, cũng như quá trình n tộc hóa những tinh
hoa đó:
Về ngôn ngữ: Văn học Việt Nam đã tiếp thu ngôn ngữ Hán để sáng tác. Chữ Hán được sử dụng
như một công cụ để biểu đạt ý nghĩa sâu sắc trang nhã trong các tác phẩm văn học. Việc sử
dụng chữ Hán đã tạo nên một diện mạo đặc trưng cho văn học Việt Nam, đồng thời giúp nâng
cao giá trị văn chương và truyền thống văn hóa.
Về thể loại: Văn học Việt Nam đã tiếp thu phát triển nhiều thể loại văn học từ văn vần đến
văn xuôi dựa trên truyền thống văn học Trung Quốc. Thể loại văn vần bao gồm thể cổ phong và
Đường Luật, trong đó thể cổ phong thể hiện sự trang nhã thanh tao, còn Đường Luật mang
tính chất táo bạo phóng khoáng. Thể loại văn xuôi bao gồm các loại liệu như chiếu, biểu,
hịch, cáo, tiểu thuyết chương hồi,... mỗi loại đều có những đặc điểm và mục tiêu riêng.
Về thi liệu: Văn học Việt Nam đã sử dụng thi liệu và điển tích, điển cố của Trung Quốc để tạo ra
những tác phẩm văn học độc đáo. Nhờ sử dụng thi liệu và điển tích, điển cố Trung Hoa, văn học
Việt Nam đã thêm nguồn cảm hứng liệu để phát triển sáng tạo. Những câu chuyện
lịch sử, truyền thuyết huyền thoại đã được tái hiện biến đổi để phù hợp với bối cảnh
duy của người Việt Nam.
Trong quá trình dân tộc hóa tinh hoa văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam đã có những đóng
góp và sáng tạo riêng:
Sáng tạo chữ Nôm: Để đáp ứng nhu cầu sáng tác biểu đạt của người Việt, văn học Việt Nam
đã sáng tạo ra chữ Nôm, một hệ thống chữ viết dựa trên chữ Hán nhưng được biến đổi để phù
hợp với âm điệu ngữ điệu của tiếng Việt. Chữ Nôm đã mở ra cánh cửa cho sự phát triển
sáng tạo văn học Việt Nam.
Việt hóa thơ Đường luật: Văn học Việt Nam đã việt hóa thơ Đường luật, một thể thơ cao quý
trang nhã của Trung Quốc, thành thơ Nôm Đường luật. Việt hóa thơ Đường luật đã mang đến
một cách biểu đạt mới cho văn xuôi Việt Nam làm nổi bật những đặc điểm văn hóa ngôn
ngữ của dân tộc.
Sáng tạo các thể thơ dân tộc: Văn học Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều thể thơ dân tộc, như lục bát,
song thất lục bát, hát nói, các khổ ngâm khúc, truyện thơ. Các thể thơ này lấy đề tài và thi liệu từ
đời sống, con người Việt Nam, mang trong mình những giá trị dân tộc, tình yêu đất nước và nhân
văn. Việc sáng tạo các thể thơ dân tộc đã làm phong phú thêm thể loại thơ và đem lại sự độc đáo
cho văn học Việt Nam.
Tổng kết lại, văn học Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa văn học Trung Quốc nhiều lĩnh vực như
ngôn ngữ, thể loại thi liệu. Đồng thời, trong quá trình dân tộc hóa, văn học Việt Nam đã sáng
tạo ra chữ Nôm, việt hóa thơ Đường luật sáng tạo các thể thơ dân tộc, từ đó mang đến sự đa
dạng phong phú cho văn học Việt Nam thể hiện những giá trị văn hóa tinh thần của
người Việt Nam.
| 1/10

Preview text:

Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
1. Các thành phần của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
1.1. Văn học chữ Hán
Văn học chữ Hán là một phần quan trọng trong lịch sử văn hóa và văn học của nhiều quốc gia
châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Văn học chữ Hán được viết
bằng chữ Hán, một hệ thống chữ viết phức tạp và phong phú, được phát triển từ chữ nho của Trung Quốc.
Văn học chữ Hán có thời gian tồn tại và phát triển từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Trong suốt
khoảng thời gian này, nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và tư tưởng của các quốc gia sử
dụng chữ Hán. Văn học chữ Hán được chia thành hai thể loại chính là văn xuôi và thơ.
Văn xuôi trong văn học chữ Hán bao gồm nhiều thể loại khác nhau như chiếu, biểu, hịch, cáo,
truyện truyền kì, kí sự và tiểu thuyết chương hồi. Chiếu là các văn bản được viết để thông báo,
truyền đạt ý kiến hoặc quyết định của các quan chức. Biểu là các văn bản có tính chất mô tả,
miêu tả về các sự kiện, hiện tượng hoặc đối tượng cụ thể. Hịch là các văn bản chú thích, giải
thích về các vấn đề pháp lý, chính trị, xã hội. Cáo là các bài viết phê phán, chỉ trích về những vấn
đề xã hội quan trọng. Truyện truyền kì là các câu chuyện hư cấu, thường có yếu tố siêu nhiên, kỳ
bí. Kí sự là các bài viết ghi lại những trải nghiệm, hành trình của tác giả. Tiểu thuyết chương hồi
là dạng tiểu thuyết được viết thành nhiều chương nhỏ, mỗi chương có một câu chuyện riêng.
Thể loại thứ hai trong văn học chữ Hán là thơ. Thơ chữ Hán bao gồm các thể loại như phú, thơ
cổ phong, thơ Đường luật và nhiều hình thức khác. Phú là dạng thơ ngắn có cốt truyện, thường
được dùng để diễn tả tình cảm, tâm trạng của tác giả. Thơ cổ phong là dạng thơ truyền thống,
theo một số quy tắc về ngôn ngữ, hình thức và ý nghĩa. Thơ Đường luật là dạng thơ phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ Đường (618-907), có cấu trúc rõ ràng và sử dụng ngôn từ tinh tế.
Văn học chữ Hán đã để lại một di sản văn hóa vô cùng quý giá và ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa và nghệ thuật của nhiều quốc gia. Những tác phẩm văn học chữ Hán không chỉ góp phần
định hình ý thức và tư tưởng của nhân loại mà còn mang lại sự đẹp và giá trị văn hóa vượt thời gian.
1.2. Văn học chữ Nôm
Văn học sử dụng chữ Nôm là một phần quan trọng trong lịch sử văn hóa và văn học của Việt
Nam. Nó xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII và tồn tại, phát triển đến hết thời kỳ văn học trung đại.
Thời kỳ văn học sử dụng chữ Nôm chủ yếu tập trung vào thể loại thơ, với rất ít tác phẩm văn
xuôi. Văn học sử dụng chữ Nôm tiếp thu một số thể loại từ văn học Trung Quốc như phú và văn
tế, nhưng sáng tác theo thể thơ khá tự do. Các tác phẩm thơ sử dụng chữ Nôm thường mang đậm
tính dân tộc và phản ánh cuộc sống, tình cảm của người Việt Nam.
Ngoài việc tiếp thu từ văn học Trung Quốc, văn học sử dụng chữ Nôm cũng đã dân tộc hóa một
số thể loại văn học Trung Quốc. Ví dụ, thơ Nôm đường luật là một thể loại thơ phát triển mạnh
mẽ, có cấu trúc rõ ràng và sử dụng ngôn từ tinh tế, tương tự như thơ Đường luật của Trung Quốc.
Thơ Nôm đường luật thường sử dụng các ngôn ngữ và hình thức của ngôn ngữ Nôm để thể hiện tinh thần dân tộc.
Ngoài ra, văn học sử dụng chữ Nôm cũng đã sáng tác theo các thể văn học của dân tộc Việt
Nam. Các thể loại như ngâm khúc (bao gồm song thất lục bát), truyện thơ (lục bát) và hát nói
(thơ tự do kết hợp với âm nhạc) đã được phát triển và sử dụng rộng rãi trong văn học chữ Nôm.
Ngâm khúc là một thể thơ có cấu trúc đặc biệt, thường được sử dụng trong các bài hát, diễn đàn
dân ca. Truyện thơ thường là những câu chuyện được kể qua các câu thơ, thường có thể truyện
dài hoặc truyện ngắn. Hát nói là một thể loại văn học kết hợp giữa thơ và nhạc, thường được biểu
diễn trong các buổi hòa nhạc, sự kiện văn hóa.
Văn học sử dụng chữ Nôm đã góp phần quan trọng trong việc phát triển và bảo tồn văn hóa dân
tộc Việt Nam. Các tác phẩm văn học chữ Nôm không chỉ mang giá trị văn hóa và nghệ thuật mà
còn là nhân chứng lịch sử, thể hiện ý thức và tư tưởng của người Việt Nam trong quá khứ.
2. Các giai đoạn phát triển của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
2.1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Trong giai đoạn khôi phục và xây dựng nền văn hiến dân tộc, văn học đóng vai trò quan trọng
trong quá trình này. Đây là thời kỳ đặt nền móng và định hướng cho văn học dân tộc, bước đầu
xác định được cả hình thức và nội dung của văn học.
Nội dung văn học trong giai đoạn này tập trung vào các đề tài yêu nước, mang âm hưởng hào
hùng, khẳng định và ngợi ca dân tộc. Những tác phẩm văn học được sáng tác trong thời kỳ này
thường truyền tải thông điệp yêu nước mạnh mẽ, tôn vinh cái đẹp và lòng tự hào về dân tộc.
Về mặt nghệ thuật, văn học trong giai đoạn này chia thành hai dòng chính là văn học chữ Hán và
văn học chữ Nôm. Văn học chữ Hán bao gồm văn chính luận và văn xuôi viết về lịch sử, văn
hóa; cùng với đó là thể loại thơ và phú. Văn chính luận và văn xuôi thường mang tính quan
điểm, phân tích sự kiện, truyền đạt tư tưởng và tri thức. Thể loại thơ và phú thường được sử dụng
để thể hiện tình cảm và tâm trạng của tác giả.
Văn học chữ Nôm trong giai đoạn này chỉ mới đặt những viên gạch đầu tiên và chưa phát triển
mạnh mẽ. Một số bài thơ phú được sáng tác bằng chữ Nôm đã xuất hiện, tuy nhiên, văn học chữ
Nôm chưa có sự đa dạng và phong phú như văn học chữ Hán.
Trong giai đoạn này, có một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu đáng kể. Chiếu dời đô của Lí Công
Uẩn và Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt là những tác phẩm mở đầu cho dòng văn học yêu
nước. Hai tác phẩm này thể hiện lòng trung thành với đất nước, tình yêu và lòng tự hào về dân
tộc. Ngoài ra, còn có các tác phẩm tiêu biểu khác như Hịch tướng sĩ và Tỏ lòng, mang hào khí
Đông Á, tôn vinh bản sắc và truyền thống của dân tộc. Các tác phẩm này góp phần quan trọng
trong việc xây dựng và thể hiện ý thức dân tộc trong văn học.
2.2 Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
Trong giai đoạn này, văn học phát triển theo hướng dân tộc hóa từ ngôn ngữ đến thể loại, từ hình
thức đến nội dung. Những tác phẩm văn học trong thời kỳ này mang đậm tinh thần yêu nước và
chuyển từ việc ca ngợi đến việc phản ánh, phê phán hiện thực xã hội phong kiến.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học chữ Hán phát triển với nhiều thành tựu đáng chú ý. Văn
chính luận trở thành một thể loại văn học quan trọng được sử dụng để phê phán và truyền đạt ý
kiến về xã hội. Văn xuôi tự sự cũng được phát triển, cho phép các tác giả tả lại cuộc sống của
mình và chia sẻ những trải nghiệm cá nhân.
Văn học chữ Nôm cũng trải qua quá trình Việt hóa và tiếp thu từ văn học Trung Quốc. Thể loại
thơ Nôm Đường luật và thơ thất ngôn xen lục ngôn được ra đời. Đồng thời, văn học chữ Nôm
cũng sáng tạo và phát triển những thể loại văn học dân tộc mới như khúc ngâm, khúc vịnh và diễn ca lịch sử.
Có nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này. Những sáng tác yêu nước như "Quốc
âm thi tập", "Ức trai thi tập" và "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi đã ghi dấu ấn sâu sắc trong
văn học thời kỳ này. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đóng góp với thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong
khi Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn sáng tác "Hồng Đức Quốc âm thi tập". Truyện ký "Truyền kì
mạn lục" của Nguyễn Dữ cũng là một tác phẩm văn xuôi tự sự tiêu biểu của thời kỳ này.
Như vậy, văn học giai đoạn này phát triển mạnh mẽ theo hướng dân tộc hóa, với nội dung phản
ánh và phê phán hiện thực xã hội phong kiến, cùng sự phát triển của văn chính luận, văn xuôi tự
sự, thơ Nôm và các thể loại văn học dân tộc khác. Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ
này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn học Việt Nam.
2.3 Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Thời kỳ phát triển rực rỡ của văn học trung đại Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành toàn diện
của nền văn chương. Trong giai đoạn này, xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học,
tập trung vào việc quan tâm đến con người bình thường và đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi.
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại Việt Nam đạt được nhiều thành tựu lớn cả về văn xuôi và
văn vần, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm và các thể loại văn học dân tộc đạt
tới đỉnh cao, thể hiện sự sáng tạo và độc đáo của văn hóa dân tộc. Văn học chữ Hán cũng đạt
được nhiều thành tựu văn nghệ thuật lớn, bao gồm tiểu thuyết chương hồi, kí, và tùy bút.
Trong thời kỳ này, có nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu. "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn
Gia Thiều và "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn là những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, đề
cao tinh thần nhân đạo và chống lại bất công xã hội. "Hoàng Lê nhất thống chí" của Ngô Gia
Văn Phái là một tác phẩm văn vần đặc sắc, mô tả cuộc sống và sự thăng trầm của vua Hoàng Lê.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là đỉnh cao của thơ ca trung đại Việt Nam, với nội dung
sâu sắc và diễn đạt tài tình. Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ là hai cây đại thụ ở giai đoạn cuối
vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo, nhưng đã bộc lộ cái tôi và tình cảm riêng tư trong tác phẩm của mình.
Tóm lại, thời kỳ phát triển rực rỡ của văn học trung đại Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành
toàn diện với sự xuất hiện của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa và sự đạt thành tựu lớn trong cả văn
xuôi và văn vần, cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển và đa dạng hóa văn học trung đại Việt Nam.
2.4 Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
Giai đoạn này, văn học trung đại Việt Nam tập trung vào những nội dung cơ bản như ca ngợi
tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp. Những tác phẩm văn học trong thời kỳ này cũng
vạch trần những hiện thực nhố nhăng của xã hội thực dân nửa phong kiến bằng ngòi bút châm
biếm. Đồng thời, văn học giai đoạn này cũng bộc lộ tư tưởng canh tân đất nước, thể hiện mong
muốn cải cách và phát triển.
Về mặt nghệ thuật, sáng tác văn học chủ yếu vẫn theo thể loại và thi pháp truyền thống. Văn học
chữ Hán và chữ Nôm vẫn chiếm vị trí chính trong văn học trung đại Việt Nam, mặc dù đã có một
số tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện.
Trong giai đoạn này, có nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu. Nguyễn Đình Chiểu là một trong
những tác giả nổi tiếng của thời kỳ này, với tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" và "Ngư tiều
y thuật vấn đáp" đề cao tinh thần yêu nước. Thơ ca trữ tình trào phúng của Nguyễn Khuyến và
Trần Tế Xương cũng góp phần đặc sắc vào văn học trung đại Việt Nam.
Tóm lại, văn học trung đại Việt Nam trong giai đoạn này tập trung vào những nội dung cơ bản
như ca ngợi tinh thần yêu nước, vạch trần hiện thực xã hội và bộc lộ tư tưởng canh tân đất nước.
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại vẫn tuân thủ thể loại và thi pháp truyền thống, với văn học
chữ Hán và chữ Nôm chiếm vị trí chính. Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu như Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và đa dạng
hóa văn học trung đại Việt Nam.
3. Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
3.1 Chủ nghĩa yêu nước
Trong văn học trung đại, chủ nghĩa yêu nước được gắn liền với tư tưởng "Trung quân ái quốc",
tức là lòng yêu quý và tận tụy với quê hương và dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học
trung đại thể hiện một loạt các phương diện quan trọng.
Đầu tiên, ý thức độc lập tự do, tự cường và tự hào dân tộc là những yếu tố quan trọng trong văn
học trung đại. Các tác phẩm thường tôn vinh bản sắc và truyền thống của dân tộc, khẳng định
lòng tự hào trước những chiến công và lịch sử của dân tộc.
Thứ hai, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại thể hiện lòng căm thù giặc và ý chí quyết
chiến, quyết thắng chống lại kẻ thù xâm lược. Các tác phẩm thường mạnh mẽ truyền tải thông
điệp về sự kiên cường và quyết tâm của dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
Thứ ba, văn học trung đại cũng mang trong mình tinh thần xót xa và bi tráng trước tình cảnh đất
nước mất nhà tan. Các tác phẩm thể hiện sự đau lòng và mất mát sau những trận chiến, sự tàn
phá của cuộc chiến, và gợi lên ý thức về việc phục hồi và xây dựng lại đất nước.
Thứ tư, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại còn thể hiện thái độ và trách nhiệm khi xây
dựng đất nước trong thời bình. Các tác phẩm khuyến khích sự đoàn kết, cống hiến và trách
nhiệm cá nhân để xây dựng một xã hội hòa bình và phát triển.
Thứ năm, văn học trung đại cũng biểu đạt lòng biết ơn và ca ngợi những người đã hi sinh vì đất
nước. Các tác phẩm thường nhắc đến những anh hùng, chiến sĩ và những người đã đóng góp cho
sự độc lập và thịnh vượng của dân tộc.
Cuối cùng, tình yêu thiên nhiên và đất nước cũng là một phương diện quan trọng trong văn học
trung đại. Các tác phẩm thường ca ngợi vẻ đẹp của tự nhiên và sự liên kết sâu sắc giữa con người
và môi trường sống của mình.
Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại được thể hiện qua nhiều phương diện như ý
thức độc lập tự cường, lòng căm thù giặc, xót xa trước tình cảnh mất nhà tan, trách nhiệm xây
dựng đất nước, biết ơn và tôn vinh những người hi sinh, cùng tình yêu thiên nhiên và đất nước.
3.2 Chủ nghĩa nhân đạo
Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại được thể hiện qua thơ văn của nhiều tác giả nổi
tiếng như Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Bà
Huyện Thanh Quan. Tác giả Nguyễn Dữ đã viết nhiều bài thơ ca ngợi lòng yêu thương và tình
cảm đối với con người trong xã hội. Ông cũng tập trung vào việc tố cáo sự bất công và áp bức của thế lực tàn bạo.
Đặng Trần Côn, một tác giả có công đóng góp lớn trong văn học trung đại, đã viết nhiều tác
phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo và lòng chia sẻ với số phận con người bất hạnh. Ông thường đề
cao những phẩm chất cao đẹp và tài năng của con người, cùng với sự khao khát chính đáng trong cuộc sống.
Nguyễn Gia Thiều là một tác giả khác đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến số phận con người
thông qua tác phẩm của mình. Ông tập trung vào việc khẳng định và trân trọng những quan hệ
đạo đức tốt đẹp và khát vọng của con người.
Nguyễn Du, một trong những nhà thơ lớn nhất trong văn học Việt Nam, đã sử dụng thơ văn để tố
cáo sự bất công và áp bức đối với con người. Ông bênh vực và bảo vệ quyền lợi của con người,
đồng thời thể hiện khát vọng sống, hạnh phúc và công lí chính nghĩa.
Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan cũng đã đóng góp vào chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học trung đại. Hai nhà thơ này thường sử dụng ngôn ngữ hài hước và sắc bén để phê phán những
thế lực tàn bạo và bày tỏ lòng chung thủy với con người.
Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại có nguồn gốc từ truyền thống dân tộc và văn học
dân gian. Nó cũng ảnh hưởng bởi tư tưởng nhân văn tích cực của các tôn giáo như đạo Phật, Nho
giáo và Đạo giáo. Tinh thần nhân đạo được biểu hiện qua việc quan tâm đặc biệt đến số phận con
người, cảm thông và chia sẻ với những người bất hạnh, đồng thời tố cáo sự tàn bạo và bênh vực
cho khát vọng sống, hạnh phúc và công lí chính nghĩa của con người.
3.3 Cảm hứng thế sự
Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại Việt Nam là một sự bày tỏ suy nghĩ và tình cảm về
hiện thực đời sống và hiện thực xã hội. Nó được thể hiện rõ nét trong nhiều tác phẩm văn và thơ
của thời kỳ này, mang đến cái nhìn sâu sắc về nhân tình, xã hội và cuộc sống.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà thơ có ảnh hưởng sâu sắc trong văn học trung đại Việt Nam, đã
thể hiện cảm hứng thế sự một cách tinh tế qua những bài thơ về nhân tình thế thái. Các tác phẩm
của ông thường mô tả về sự lưu đày, khổ đau và sự thất vọng trong cuộc sống, tạo nên một tầm
nhìn chân thực về con người và xã hội.
Thượng Kinh kí sự và Vũ trung tùy bút là những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu thể hiện cảm hứng
thế sự về hiện thực xã hội. Trong những tác phẩm này, tác giả tả lại cuộc sống xã hội, những sự
kiện hàng ngày và những mặt trái của xã hội, từ đó thể hiện quan điểm, lên án hoặc bày tỏ tình
cảm yêu, ghét đối với hiện thực xã hội.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ khác đã sử dụng cảm hứng thế sự để thể hiện cuộc
sống và xã hội. Nguyễn Khuyến thể hiện đời sống nông thôn và những khó khăn của người nông
dân thông qua những bài thơ sâu sắc và cảm động. Tú Xương tập trung vào xã hội thành thị và
những khía cạnh đen tối của cuộc sống thành thị, đồng thời bày tỏ khát vọng và hoài bão của con người.
Trong tổng thể, cảm hứng thế sự là một yếu tố quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam, cho
phép tác giả bày tỏ suy nghĩ, tình cảm về hiện thực đời sống và hiện thực xã hội. Tác giả sử dụng
cảm hứng này để bộc lộ tình cảm yêu, ghét, lên án và cả khát vọng, hoài bão của con người trong các tác phẩm của mình.
4. Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
4.1 Tính quy phạm và sự phá vỡ tính quy phạm
Tính quy phạm trong văn học là sự quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu mà người sáng tác văn học
phải tuân theo. Đây là một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc về cách viết, cấu trúc và hình thức
của tác phẩm văn học. Tính quy phạm định rõ các tiêu chuẩn và quy cách mà người viết phải
tuân thủ để đảm bảo tính thống nhất và sự hợp lý trong tác phẩm.
Văn chương truyền thống coi trọng mục đích giáo huấn, tức là việc truyền đạt ý chí và bày tỏ đạo
lí làm người thông qua văn bản. Tác phẩm văn học được xem như một công cụ để giáo dục và
hướng dẫn độc giả về đạo đức, triết lý và nhân văn. Việc bộc lộ ý chí và đạo lí trong văn chương
giúp tác giả truyền tải thông điệp và tác động đến nhận thức và tư tưởng của độc giả.
Nghệ thuật là một khía cạnh quan trọng trong văn học truyền thống. Sáng tác theo công thức ước
lệ và tượng trưng là những hình thức nghệ thuật được tuân thủ chặt chẽ. Công thức ước lệ đòi hỏi
tuân thủ những quy tắc về số câu, số chữ, niêm, niêm, luật, đối, bố cục và các yếu tố khác để tạo
ra một tác phẩm cân đối và hài hòa. Tượng trưng là việc sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ ẩn dụ để
truyền đạt ý nghĩa sâu sắc và tầng bậc.
Tuy nhiên, có những tác giả đã phá vỡ tính quy phạm và phát huy cá tính sáng tạo trên cả hai
lĩnh vực nội dung và hình thức. Những tác giả như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Du, Trần Tế Xương đã tạo ra những tác phẩm đột phá, không tuân theo những
quy tắc truyền thống mà tự do và sáng tạo trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của mình. Họ
đã đóng góp vào việc trở thành những nhân vật nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam và tạo ra
những tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học nước nhà.
4.2 Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị
Trang nhã là một đặc điểm quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam, tức sự nghiêm trang và
thanh tao. Văn học trung đại Việt Nam thường có tính trang nhã thể hiện ở những mặt sau:
Về đề tài, chủ đề: Văn học trung đại Việt Nam hướng tới cái cao cả, trang trọng hơn là cái đời
thường bình dị. Các tác phẩm thường chọn những đề tài và chủ đề mang tính triết lý, đạo đức, và
nhân văn để thể hiện sự trang nhã và nhấn mạnh vào giá trị tinh thần. Những vấn đề như tình
yêu, tình bạn, lòng nhân ái, và sự sáng suốt đạo đức thường được khắc họa trong các tác phẩm.
Về hình tượng nghệ thuật: Văn chương trung đại Việt Nam hướng tới vẻ tao nhã và mĩ lệ hơn là
vẻ đẹp đơn sơ và mộc mạc. Các hình tượng trong tác phẩm thường được tạo dựng với sự tinh tế
và tỉ mỉ, mang tính chất tượng trưng và biểu đạt sự thanh nhã. Sử dụng các hình ảnh, so sánh và
diễn tả tinh tế giúp tác giả truyền tải ý nghĩa sâu sắc và tầng bậc.
Về ngôn ngữ nghệ thuật: Văn chương trung đại Việt Nam sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý và
cách diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ hơn là sử dụng công thức tự nhiên. Từ ngữ được lựa chọn kỹ
càng, sắc sảo và thể hiện sự tinh tế trong việc diễn đạt ý nghĩa. Từ ngữ được chọn để mang tính
chất trang nhã, trau chuốt, và tạo nên một không gian văn chương lịch sự và thanh tao.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của văn học, văn chương ngày càng gắn bó với hiện thực và
đã đưa văn học từ phong cách sang trọng, tao nhã về gần gũi với đời sống hiện thực, tự nhiên và
bình dị. Các tác giả hiện đại thường tập trung vào việc tái hiện cuộc sống hàng ngày, văn hóa dân
gian và cảm xúc con người một cách chân thực và gần gũi. Từ đó, văn học hiện đại đã thể hiện
sự đa dạng và đáng chú ý về phong cách và hình thức.
4.3 Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài
Trong quá trình phát triển văn học Việt Nam, đã tiếp thu và hòa quyện tinh hoa văn học Trung
Quốc ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây là chi tiết về việc tiếp thu tinh hoa văn học Trung
Quốc ở các lĩnh vực ngôn ngữ, thể loại và thi liệu, cũng như quá trình dân tộc hóa những tinh hoa đó:
Về ngôn ngữ: Văn học Việt Nam đã tiếp thu ngôn ngữ Hán để sáng tác. Chữ Hán được sử dụng
như một công cụ để biểu đạt ý nghĩa sâu sắc và trang nhã trong các tác phẩm văn học. Việc sử
dụng chữ Hán đã tạo nên một diện mạo đặc trưng cho văn học Việt Nam, đồng thời giúp nâng
cao giá trị văn chương và truyền thống văn hóa.
Về thể loại: Văn học Việt Nam đã tiếp thu và phát triển nhiều thể loại văn học từ văn vần đến
văn xuôi dựa trên truyền thống văn học Trung Quốc. Thể loại văn vần bao gồm thể cổ phong và
Đường Luật, trong đó thể cổ phong thể hiện sự trang nhã và thanh tao, còn Đường Luật mang
tính chất táo bạo và phóng khoáng. Thể loại văn xuôi bao gồm các loại tư liệu như chiếu, biểu,
hịch, cáo, tiểu thuyết chương hồi,... mỗi loại đều có những đặc điểm và mục tiêu riêng.
Về thi liệu: Văn học Việt Nam đã sử dụng thi liệu và điển tích, điển cố của Trung Quốc để tạo ra
những tác phẩm văn học độc đáo. Nhờ sử dụng thi liệu và điển tích, điển cố Trung Hoa, văn học
Việt Nam đã có thêm nguồn cảm hứng và tư liệu để phát triển và sáng tạo. Những câu chuyện
lịch sử, truyền thuyết và huyền thoại đã được tái hiện và biến đổi để phù hợp với bối cảnh và tư
duy của người Việt Nam.
Trong quá trình dân tộc hóa tinh hoa văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam đã có những đóng góp và sáng tạo riêng:
Sáng tạo chữ Nôm: Để đáp ứng nhu cầu sáng tác và biểu đạt của người Việt, văn học Việt Nam
đã sáng tạo ra chữ Nôm, một hệ thống chữ viết dựa trên chữ Hán nhưng được biến đổi để phù
hợp với âm điệu và ngữ điệu của tiếng Việt. Chữ Nôm đã mở ra cánh cửa cho sự phát triển và
sáng tạo văn học Việt Nam.
Việt hóa thơ Đường luật: Văn học Việt Nam đã việt hóa thơ Đường luật, một thể thơ cao quý và
trang nhã của Trung Quốc, thành thơ Nôm Đường luật. Việt hóa thơ Đường luật đã mang đến
một cách biểu đạt mới cho văn xuôi Việt Nam và làm nổi bật những đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ của dân tộc.
Sáng tạo các thể thơ dân tộc: Văn học Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều thể thơ dân tộc, như lục bát,
song thất lục bát, hát nói, các khổ ngâm khúc, truyện thơ. Các thể thơ này lấy đề tài và thi liệu từ
đời sống, con người Việt Nam, mang trong mình những giá trị dân tộc, tình yêu đất nước và nhân
văn. Việc sáng tạo các thể thơ dân tộc đã làm phong phú thêm thể loại thơ và đem lại sự độc đáo cho văn học Việt Nam.
Tổng kết lại, văn học Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa văn học Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực như
ngôn ngữ, thể loại và thi liệu. Đồng thời, trong quá trình dân tộc hóa, văn học Việt Nam đã sáng
tạo ra chữ Nôm, việt hóa thơ Đường luật và sáng tạo các thể thơ dân tộc, từ đó mang đến sự đa
dạng và phong phú cho văn học Việt Nam và thể hiện những giá trị văn hóa và tinh thần của người Việt Nam.