





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61458992 US Market - Cultural risk - Need for a new team - Country risk
Hệ thống pháp luật của Mỹ bao gồm hệ thống pháp luật liên bang, hệ thống pháp
luật bang. Do đó, khi thực hiện hoạt động kinh doanh ở quốc gia này, doanh nghiệp
(DN) phải tuân thủ một loạt các quy định của địa phương, tiểu bang và của liên
bang. Pháp luật DN Mỹ cũng có những quy định về điều kiện kinh doanh gắn liền
với loại hình DN hoặc một số loại ngành nghề nhất định.
Nhiều thành phố lớn ở Mỹ có trung tâm thương mại quốc tế (international
bussiness center) hoặc tổ chức tương tự để hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài
thành lập doanh nghiệp và triển khai hoạt động nhanh chóng. Những trung tâm
này có thể cung cấp nhiều dịch vụ từ cho thuê trụ sở “chìa khóa trao tay” (có đầy
đủ phương tiện làm việc) với giá phải chăng và thời hạn thuê linh hoạt (kể cả thuê
ngắn hạn) đến tư vấn có giảm giá về thị trường, luật pháp, thuế, thiết lập quan hệ
bạn hàng, tiếp cận vốn, thuê nhân viên, quảng cáo, tiếp thị.
Ở Mỹ có hai hệ thống cấp phép: Giấy phép và sự chấp thuận của Liên bang; Giấy
phép và sự chấp thuận của tiểu bang. Hai hệ thống này song song tồn tại và chi
phối đến hoạt động kinh doanh của DN.
Ngoài những điều kiện kinh doanh này, ở mỗi bang, tùy từng thời kỳ khác nhau,
DN sẽ phải đáp ứng các điều kiện khác mà cơ quan quản lý đưa ra chẳng hạn
như: chứng minh vốn pháp định (bang Delaware, bang NewYork), chứng minh
khoản nợ của DN (ở Columbia)…
Tuy có sự khác biệt giữa các bang tuy nhiên việc thành lập công ty ở Mỹ tương
đối dễ dàng và nhanh chóng. Cơ quan chịu trách nhiệm đăng ký kinh doanh ở các
bang cũng khác nhau, có thể là sở thương mại hoặc văn phòng phát triển doanh
nghiệp…, hoặc thậm chí được phân cấp cho quận.
Tại Mỹ, không có một quy định chung về việc thành lập công ty được áp dụng
chung cho cả nước mà ở mỗi bang lại có những quy định khác nhau. Tại Mỹ không
có loại hình văn phòng đại diện như ở Việt Nam. Hầu hết các bang đều không yêu
cầu vốn tối thiểu để thành lập doanh nghiệp. Thủ tục thành lập doanh nghiệp ở
các bang đều đơn giản và nhanh chóng. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
chịu sự điều tiết của pháp luật giống như các công ty trong nước.
Tại Mỹ, không có một quy định chung về việc thành lập công ty được áp dụng chung cho cả nước mà ở
mỗi bang lại có những quy định khác nhau. Tại Mỹ không có loại hình văn phòng đại diện như ở Việt Nam.
Hầu hết các bang đều không yêu cầu vốn tối thiểu để thành lập doanh nghiệp. Thủ tục thành lập doanh lOMoAR cPSD| 61458992
nghiệp ở các bang đều đơn giản và nhanh chóng. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều tiết
của pháp luật giống như các công ty trong nước.
Đáng chú ý, tuy Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới,
nhưng Chính phủ nước này vẫn hết sức coi trọng sự tồn tại và phát triển của DN
nhỏ và vừa, rất đáng để các nước khác học tập kinh nghiệm.
Hầu hết chính quyền các bang đều có bộ phận hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể tìm đến tổ chức này để được giúp đỡ trong
đó có việc hướng dẫn thủ tục và giúp đỡ đăng ký doanh nghiệp. Những dịch vụ
do tổ chức này cung cấp thường là miễn phí hoặc với giá cả phải chăng.
Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration - SBA) là một tổ
chức độc lập để hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ. Thông qua
việc hỗ trợ vốn và tạo cơ hội ký hợp đồng, SBA giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển
và tạo việc làm bền vững. Để giảm thiểu rủi ro cho khoản vay, SBA sẽ tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nhỏ tiếp cận nguồn vốn bằng cách đảm bảo cho các khoản
vay, doanh nghiệp sẽ không vay vốn trực tiếp từ nhà đầu tư mà thông qua SBA.
Chính phủ liên bang Mỹ được biết đến là người mua lớn nhất thế giới. Hàng năm,
những hợp đồng hàng trăm tỷ USD được sử dụng mua hàng hóa và dịch vụ cho
cơ quan liên bang. SBA sẽ đóng vai trò giám sát cơ quan liên bang để đạt được
23% giá trị hợp đồng của chính phủ liên bang sẽ được ký kết với doanh nghiệp
nhỏ. Cơ quan chính phủ liên bang công khai danh sách những hợp đồng và một
số hợp đồng được đưa vào danh sách đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ.
Tuy Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới, nhưng Chính phủ nước này vẫn hết
sức coi trọng sự tồn tại và phát triển của DN nhỏ và vừa, rất đáng để các nước khác học tập kinh nghiệm.
Tại Mỹ, 30 triệu doanh nghiệp nhỏ là động lực chính của nền kinh tế, tạo ra hai phần ba việc làm mới của
khu vực tư nhân và sử dụng hơn 50% nguồn lao động quốc gia.
- Đối thủ cạnh tranh: Công ty TNHH Sachi Nguyễn - Văn hóa ẩm thực:
- Nuớc Mỹ là một hợp chủng quốc với đa sắc tộc, đa văn hóa, do vậy ẩm thực ở đây rất đa dạng
và có nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau. Mặc dù vậy nhưng các món ăn của người Mỹ vẫn
mang những nét đặc trưng, phong cách riêng. Khi những người định cư đầu tiên tới Mỹ, họ đã
đem theo những cây trồng và gia súc tương tự với quê hương để sản xuât lương thực và nhu
yếu phẩm vào Mỹ . Trải qua những khó khăn ban đầu ...
- Nuớc Mỹ là một hợp chủng quốc với đa sắc tộc, đa văn hóa, do vậy ẩm thực ở đây rất
đa dạng và có nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau. Mặc dù vậy nhưng các món ăn của
người Mỹ vẫn mang những nét đặc trưng, phong cách riêng. lOMoAR cPSD| 61458992
- Khi những người định cư đầu tiên tới Mỹ, họ đã đem theo những cây trồng và gia súc tương
tự với quê hương để sản xuât lương thực và nhu yếu phẩm vào Mỹ . Trải qua những khó khăn
ban đầu, cho đến khi thông thương được với Anh Quốc, những người định cư này cuối cũng
cũng thích nghi đươc với vùng đất mới với một thực đơn ăn uống mới tương tự với mẫu quốc.
Mặc dù có những ngoại lệ với những loài rau và động vật bản địa nhưng những người định
cư vẫn nấu những món ăn cũ và cố gắng coi đó như phần thay thế cho những nguyên liệu
của cố quốc. Phong cách nấu ăn ở các bang của Mỹ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những người
Anh di cư bắt đầu tại thời điểm này. -
- Thực đơn của người Mỹ trong thay đổi theo từng vùng bắt đầu từ giữa thế kỉ 18. Trong khi
những bang miền Nam có thể trồng trọt hầu như quanh năm thì những bang miền Bắc lại
không thể. Lúa mỳ là một sự lựa chọn được ưu tiên. Họ thường dùng lúa mỳ làm bánh quy
cho bữa ăn sáng với thịt heo. Thịt lợn ướp muối là thành phần không thể thiếu trong bất kỳ
bữa ăn nào, nó được dùng với rau và là thực phẩm cung cấp nhiều protein.
- Trong khi đó thì những vụ mùa ở phía Bắc thì rất ít. Lúa mỳ, đã từng dùng để làm bánh mỳ
hầu như không còn có thể phát triển được nữa mà chỉ nhập khẩu từ nơi khác với chi phí cao.
Do đó đã xuất hiện những thức ăn thay thế như ngô và bánh kếp Johnny. Một số rau củ được
trồng ở thuộc địa miền Bắc bao gồm cây cải, hành, cải bắp, cà rốt, cây phòng phong cùng với
một số họ đậu, hạt mè. Trong những tháng mùa hè, quả bí, bầu phát triển tốt. -
- Từ thế kỉ thứ XX-XXI, một trong những đặc trưng của nền ẩm thực Mỹ là phong cách chế biến
hoàn toàn mới, kết quả của sự hợp nhất văn hóa từ nhiều dân tộc và vùng miền khác nhau.
Một vài món được xem là những món đặc trưng của người Mỹ thì thực chất lại có nguồn gốc
từ nhiều khu vực khác, những đầu bếp và bếp trưởng người Mỹ đã biến đổi về căn bản qua
năm tháng để đến bây giờ chúng hòa nhập vào thế giới ẩm thực như những món thuần Mỹ.
Hot dog và hamburger là những ví dụ điển hình cho lối dung hòa này. Chúng được mang vào
Mỹ qua những người nhập cư đến từ Đức và hẳn nhiên trong cuộc sống hiện đại của chúng
ta ngày nay ,hai món này đựoc coi là món ăn của người Mỹ.
- Những món ăn châu Á cũng đóng vai trò quan trọng trong phong cách nấu nướng của người
Mỹ. Châu Á là một trong những châu lục có dân nhập cư ở Mỹ khá nhiều. Đến Mỹ họ đã đem
đến nhiều nét đăc trưng văn hóa của từng vùng miền ở mỗi đất nước. Nét đặc trưng dễ thấy
nhất ở đây là thức ăn của những nước Châu Á, đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống ẩm
thực của cư dân Mỹ. Thức ăn nhanh là thức ăn thông dụng ở Mỹ nhưng hiện nay trong khẩu
vị của người Mỹ ngày càng có xu hướng khám phá các món ăn khác nhau ở châu Á. - Bữa sáng
- Trong thực tế thì phần lớn người Mỹ xem thường bữa ăn sáng, phần thì họ bận rộn, phần thì
họ muốn ăn kiêng. Những người trưởng thành dùng bữa sáng rất qua loa, chỉ một ly nước
cam ép với bánh nướng quết món peanut butter( một loại mứt bơ làm từ hạt dẻ ) rất ngon
nhưng hơi mặn hoặc với loại nước uống truyền thống là cà phê. Bữa sáng thịnh soạn hơn sẽ
gồm trứng rán, bánh mỳ nướng, nước hoa quả và trái cây nhưng thường chỉ có vào sáng chủ
nhật. Vào những sáng làm việc vội vã trong tuần, người Mỹ thường chỉ uống cà phê. - - Bữa trưa
- Hầu hết người Mỹ ăn trưa từ giữa trưa đến 2h chiều. Bữa ăn giữa ngày này thường không ăn
ở nhà. Người lớn ít khi về nhà ăn trưa và trẻ em cũng ăn tại trường. Một vài người mang cơm
được chuẩn bị ở nhà và đựng trong các túi giấy. Chính vì điều này, họ cần một buổi ăn trưa
gọn nhẹ. Thường thấy trong buổi ăn trưa là bánh mỳ sandwich. Nó vừa rẻ và làm nhanh. Bánh
mỳ sandwich chỉ có hai miếng bánh mỳ kẹp lại với nhau, được phết với bơ, nước sốt, mù tạc lOMoAR cPSD| 61458992
và kẹp ở giữa là thit, phomat, cá, gà. Có những món sandwich lạnh được làm từ giămbông và
phomat, đậu phụng, bơ, mứt và những lát mỏng gà hoặc gà tây, cá ngừ, xà lách và thịt bò
nướng. Những người ăn trưa ở nhà hàng thích gọi những món sandwich nóng. Phổ biến nhất là hamburger và hotdog. - - Bữa tối
- Bữa ăn quan trọng nhất trong ngày là bữa tối, thường vào lúc 6h tối. Bữa ăn tối có thể có
nhiều món : món khai vị ( bao gồm trái cây tươi, nước ép trái cây hoặc ít cá), món soup, salad
trộn, món chính có thịt gà hoặc cá, bên cạnh đó còn có các món canh, cơm hoặc mì sợi.
Người ta uống trà hoặc cà phê trước khi kết thúc bữa ăn. Hầu hết người Mỹ đều thích tráng
miệng với bánh ngọt, bánh pa-tê hoặc kem. Kem táo được dùng với một ít phomat là món rất phổ biến. -
- Trong bữa ăn trưa và ăn tối, người Mỹ thường uống nước lọc, nước ép trái cây, bia, café, trà
hoặc nước uống có ga mà người ta quen gọi là soda. Rượu vang được coi là thức uống sang
trọng được dùng chiêu đãi trong các buổi tiệc, các buổi lễ hoặc khi đi ăn ngoài nhà hàng.
Bởi vì bữa ăn tối thường được ăn khá sớm, nên nhiều người Mỹ trước khi đi ngủ có thói quen
ăn nhẹ. Trẻ em trước khi đi ngủ thường uống sữa, ăn bánh ngọt. Những người lớn thường
ăn trái cây hoặc bánh ngọt.
- Vào ngày chủ nhật và những ngày lễ, khi thời tiết đẹp, người Mỹ thường đi ra bên ngoài. Họ
thích đi tản bộ ở công viên hoặc những cuộc liên hoan ngoài trời với những món bit-tết, hotdog
và hamburger. Hoặc tản bộ nơi biển và ăn hải sản. -
- means the collective practices, attitudes, beliefs, as well as the production,
disruption, and consumption of food. It includes how people use food to express
identity, celebrate milestones, create connections, establish community, and explore creativity.
- The American food culture, like many countries, has evolved over time. As
technology, availability, and migration of people across the country has changed,
so has the food we buy, grow, cook, and enjoy. In today’s American food culture,
meals are often a social activity shared with friends and family. Getting together
with others to share a meal, taking pictures of food and enjoying other photos of
food, watching cooking TV shows, and following favorite food bloggers, are all an
extension of the modern American food experience.
- According to John Ikerd, Professor of Agriculture Economics at the University of
Missouri, Americans value looking good and choose food that makes them look
good. Trends are moving away from processed and mass-produced foods to food
that is organic and locally sourced. Americans are becoming more aware of where
their food comes from, how it’s processed, and the culture of the companies that
produce their food. Ikerd also theorized that the average American wants their food
to be fast and easy, whether they purchase it at a grocery store or fast-food restaurant.
- Despite the cultural shift towards evaluating food based on appearance and social
consciousness, McDonald’s, Pizza Hut, KFC, and other stereotypical American
fast-food chains stay popular because of their convenience, familiarity, and
consistency. While staple food dishes may vary in different regions of the United lOMoAR cPSD| 61458992
States, you can always count on fast-food restaurants like McDonald’s to always
provide the same food, flavor, and experience no matter where you go.
- The diversity of American cuisine
- The types of food that Americans eat can vary by household, region, religion,
socioeconomic class, or cultural background. Wikipedia explains that American
cuisine, “reflects the history of the United States, blending the culinary
contributions of various groups of people from around the world, including
indigenous American Indians, African Americans, Asians, Europeans, Pacific
Islanders, and South Americans. One characteristic of American cooking is the
fusion of multiple ethnic or regional approaches into completely new cooking styles.”
- In any American town, you’ll usually find a variety of Chinese, Mexican, and Italian
restaurants. In an urban setting, you may experience a more expansive
international food scene. However, the taste and offerings may be vastly different
than what you’d find in their respective countries. This is partly due to the
ingredients available in the United States and the effort to appeal to American
customers. But wherever you go, the food you’ll find across America showcases
the diversity of its people and is also a reflection of the region.
- For example, in the northern part of the Northeast United States, you can find
dishes like lobster rolls and clam chowder. In New Jersey, Pennsylvania, and the
surrounding states, you’ll discover cheesesteaks, hoagies, or sub sandwiches.
Whether you’re in Tennessee, Texas, or Illinois, the taste of BBQ and chili will vary.
Cajun and Creole cuisines are popular in Louisiana and were brought to the region
by early French and Canadian immigrants. The southwest region is known for their
for tex-mex dishes, and in the pacific northwest, you can find a variety of fresh seafood dishes.
- In many American dishes, you’ll be able to recognize the ingredients that share
origins with your home country or other parts of the world. What sets American
cuisine apart is the ability to merge tastes, textures, cooking techniques found in
other countries into a unique culinary experience. By mixing different flavors from
foreign staple meals, American cuisine truly does represent the diversity of the
country’s people and history.
- Thông thường, khi hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, Cục Hải quan và Bảo vệ biên giới Mỹ (CBP), thuộc Bộ
An ninh quốc gia (DHS), sẽ tiến hành những thủ tục kiểm tra đầu tiên. Sau đó, tùy vào loại hàng hóa
mà sẽ qua sự kiểm định của các cơ quan khác: FDA chịu trách nhiệm về các loại thực phẩm, trừ thịt và
gia cầm; FSIS kiểm tra hoặc chứng nhận thịt, gia cầm và một số sản phẩm từ trứng. FDA thường “bắt
bí” ở những lỗi về tiêu chuẩn chất lượng, độ tinh sạch của thực phẩm; các vi phạm về luật khủng bố
sinh học, luật ghi nhãn hàng, số đăng ký FCE/SID. -
- Luật khủng bố sinh học
- Luật Khủng bố sinh học (Bioterrorism Act) của Mỹ quy định các doanh nghiệp Mỹ và nước ngoài phải
đăng ký với FDA nếu sản xuất, chế biến, đóng gói và lưu trữ thực phẩm, thức uống với mục đích tiêu
thụ tại Mỹ. Tuy nhiên, doanh nghiệp không phải đăng ký chứng nhận sản phẩm cụ thể mà chỉ cần đăng
ký địa điểm sản xuất, chế biến, đóng gói hay bảo quản thực phẩm và đồ uống. Sau khi hoàn tất đăng lOMoAR cPSD| 61458992
ký, FDA sẽ cấp một mã chứng nhận gồm 11 chữ số. Đối với các nhà máy sản xuất hoạt động ngoài nước
Mỹ, FDA buộc doanh nghiệp phải đăng ký và chỉ định một đại diện tại Mỹ. Đại diện này phải có địa chỉ
cụ thể tại Mỹ để giữ liên lạc giữa FDA và doanh nghiệp hoạt động ngoài nước Mỹ, nhất là trong trường
hợp thực phẩm xuất khẩu có vấn đề về chất lượng hay vi phạm luật khủng bố sinh học. Do vậy, đại diện
này phải hết sức am tường các quy định lắt léo của FDA.
- Cũng theo luật này, doanh nghiệp phải trình “Thông báo trước” (Prior Notice) cho FDA và CBP trước
khi đưa thực phẩm, thức uống vào Mỹ. Mục đích của tờ thông báo này là xác nhận với FDA các mã
chứng nhận cho từng sản phẩm đã được cơ quan này cấp. Tuy nhiên, trình “Thông báo trước” không
có nghĩa là đã được FDA chấp thuận cho nhập hàng vào Mỹ, hoặc không bị kiểm tra hàng. Quy định
trình “Thông báo trước” được áp dụng cho các phương thức chuyển hàng, bao gồm cả việc gửi mẫu
với mục đích triển lãm, khách hàng duyệt mẫu hay phân tích mẫu, và áp dụng cho các lô hàng quá cảnh
ở Mỹ để đến một nước thứ ba. Tùy vào phương thức chuyển hàng mà thời điểm trình thông báo sẽ
khác nhau: bốn tiếng trước khi hàng cập cảng nếu vận chuyển bằng đường hàng không; trước tám
tiếng nếu là đường biển; và nếu vận chuyển bằng bưu cục hoặc phát chuyển nhanh thì phải trình thông
báo trước khi vận chuyển hàng…
- Luật ghi nhãn thực phẩm
- Gần đây, một số sản phẩm của Việt Nam như bột gia vị, trà hương lài, nước uống tăng lực, bún chay
khô… khi xuất sang Mỹ đã bị hải quan giữ lại vì vi phạm luật ghi nhãn sản phẩm. Ở Mỹ, việc ghi nhãn
được phân biệt rõ cho sản phẩm bán sỉ hay bán lẻ. Nhãn hàng bán sỉ nói chung đơn giản hơn vì luật
ngầm hiểu rằng sẽ có các đại lý cấp dưới ghi thêm nhãn hàng, hoặc sản phẩm đã bán sỉ thì không bán
lẻ. Vì thế, nhãn bán sỉ chỉ yêu cầu một vài thông tin (bằng tiếng Anh) trên bao bì như tên thường gọi
của sản phẩm; tên gọi bằng tiếng Latinh nếu có; trọng lượng thuần/có bao bì; xuất xứ hàng hóa; tên/địa
chỉ của nhà sản xuất; số lô hàng.
- Nhãn bán lẻ gồm hai phần: bảng hiển thị chính và bảng thông tin. Bảng hiển thị chính được đặt ở mặt
trước của bao bì sản phẩm, để người tiêu dùng nhìn thấy ngay khi mua hàng. Hai phần không thể thiếu
ở bảng này là tên gọi và trọng lượng thuần của thực phẩm. Bảng thông tin được đặt ở bên phải bảng
hiển thị chính, gồm thông tin dinh dưỡng, các chất thành phần và nhà sản xuất. Thông tin dinh dưỡng
phải được trình bày dưới dạng bảng biểu. Phần liệt kê các chất thành phần phải được đặt ngay cạnh
đó, với kích cỡ tối thiểu bằng 1/16 inch (0,16 cen ti mét). Các chất thành phần được liệt kê theo trọng
lượng giảm dần. Ngay sau các chất thành phần là “nhân dạng” của nhà sản xuất – tên công ty, địa chỉ
hoạt động, tên thành phố, quốc gia – kích cỡ tối thiểu cũng bằng 1/16 inch. Nếu không phải là nhà sản
xuất trực tiếp, phần này phải ghi rõ “sản xuất theo…” hoặc “được phân phối bởi…”.
- Liên quan đến các chất gây dị ứng, FDA cũng liệt kê tám loại thực phẩm hoặc nhóm thực phẩm chính
gây nên 90% các chứng dị ứng thức ăn ở Mỹ, gồm sữa, trứng, cá, tôm, cua, đậu phộng, lúa mì, đậu
nành… Vì thế, Luật Bảo vệ người tiêu dùng và Ghi nhãn thực phẩm có chất gây dị ứng năm 2004 ở Mỹ
quy định, nếu sản phẩm thực phẩm có chứa chất gây dị ứng, doanh nghiệp phải công bố ngay dưới
danh sách các chất thành phần – chẳng hạn, “Có chứa trứng, lúa mì…” – hoặc công bố trong danh sách
các chất thành phần bằng cách nêu tên thông thường của nguồn chất gây dị ứng – chẳng hạn, “Bột mì (làm từ lúa mì)”.
- Số đăng ký FCE/SID
- FDA cũng quy định các công ty chế biến, sản xuất thực phẩm đóng hộp vô trùng, thực phẩm có hạn sử
dụng dài hay thực phẩm có tính axít phải có số đăng ký FCE (Food Canning Establishment) trước khi
bán hàng sang Mỹ. Đây là việc đăng ký địa chỉ cụ thể của nơi sản xuất thực phẩm và thông thường, quá
trình này phải mất 3-5 tuần. Số đăng ký FCE được cấp sẽ gồm năm chữ số, chẳng hạn FCE # 18289, và
mỗi nhà máy sản xuất chỉ được cấp một số. Tuy nhiên, đăng ký FCE sẽ không có tác dụng nếu như các
công ty chế biến, sản xuất thực phẩm đóng hộp không đăng ký bảng số liệu của từng quy trình sản xuất
thực phẩm. Mỗi quy trình này sẽ được cấp một số đăng ký SID (Submission Identi 昀椀 er) và khi xuất
hàng vào Mỹ, nếu từng sản phẩm của doanh nghiệp không có số đăng ký SID thì hàng sẽ bị giam lại.
Thời gian từ lúc đăng ký đến khi được cấp số SID có thể đến 12 tuần. Một số sản phẩm của Việt Nam
gần đây đã bị FDA giam lại vì thiếu đăng ký
FCE/SID như nấm đóng hộp, kim chi, nước mắm, tỏi ngâm giấm, mắm tôm…