lOMoARcPSD| 58097008
HÀ NAM – NINH BÌNH – THANH HÓA 1. Hà Nam
Kính Thưa cô chú anh chị hiện tại xe ta đã lăn bánh sang địa phận tỉnh Hà
Nam. Và mỗi khi tới đây là người ta lại có câu thở rằng là gì ạ: "Xưa Kia ba tỉnh
một nhà - trung quy hội tụ là Nam Ninh - về sau biệt Ninh Bình - rời xa
Nam Định còn mình Nam. Câu tđể nói về một địa danh đã tồn tại trong
lịch sử được thành lập vào năm 1975 tiền thân của mảnh đất Nam hiện nay.
Và chải qua suốt cái quá trình hợp hợp tan tan thì đến năm 1996 thì tỉnh hà Nam
đã có diện mạo nngày nay với 6 đơn vị hành chính gồm TP. phủ Lý. Duy tiên,
Kim Bạc, Nhân, Bình Lục và Thanh Niêm. Và cũng qua cái câu chuyện hợp
hợp tan tan đó cũng gợi cho chúng ta nhớ lại về những cái tên đã cùng tồn tại
trong quá trình lịch scủa đất nước như: Sơn Bình, Nghệ Tĩnh, Cao Bắc
Lạng, Tuyên Thái, Bình Trị Thiên... hay cái sự kiện gần đây nhất vào
năm 2008 trong kế hoạc mở rộng phát triển Tp Nội thì toàn bộ phần đất
của Hà Tây cùng với Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 của Hoà Bình đã xác
nhập vào Nội. Và cái câu chuyện hợp hợp tan tan này còn tiếp tục kéo dài đến
tháng 2 năm 2019 trong cái chương trình giao lưu văn hoá toàn quốc, được tổ
chức tại Làng Văn Hoá Văn Lang Phú thọ...
Khi nhắc đến Hà Nam chắc hẳn chúng ta sẽ không thể nào không nhắc tới: Tỉnh
diện tích nhỏ thứ 2 của Việt Nam sau Bắc Ninh, mảnh đất chiêm trũng, hình
ảnh cây cầu tõm – Bình Lục Hà Nam, làng Vũ Đại ngày nào, hình ảnh Chí Phèo
Thị Nở, kho Làng Vũ Đại, chuối Ngự Tiến Vua, Chùa Bà Đanh, Làng Trống
Đọi Tam, Chùa Long Đọi Sơn, hay gần đây một công trình quy tầm cỡ của
Phật Giáo Chùa Tam Chúc.
Tại sao lại nói Vắng Tanh Như Chùa Đanh: "Vắng tanh như chùa Đanh"
câu thành ngữ dân gian để chỉ sự vắng vẻ, đìu hiu. Đó câu chúng ta vẫn dùng
thường ngày, nhưng nguyên nhân ra đời của chắc hẳn không phải bất cứ ai
cũng biết? Vậy tại sao lại có câu nói như vậy ạ: Chùa Đanh này còn gọi "Bảo
Sơn Nữ", tọa lạc trên một vùng đất tại thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim
Bảng, Hà Nam. Để lý giải cho thành ngữ "Vắng tanh như chùa Bà Đanh", nhiều
nhà nghiên cứu đưa ra rất nhiều giả thuyết. Nổi tiếng nhất trong số đó là do chùa
Đanh rất linh thiêng. Tên chùa Đanh dựa trên địa danh thôn Đanh nơi
chùa tọa lạc và sự vắng vẻ khó hiểu một chốn linh thiêng trang nghiêm bậc nhất
như thế khi được dẫn giải do vị trí độc đạo thế khuất vắng của chùa. Bên
cạnh đó người dân địa phương thường kể lại rằng, Bảo Sơn Tự rất linh thiêng,
người đi đường nếu dám cười cợt, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt
lOMoARcPSD| 58097008
nặng nề. Chính vì lẽ đó mà càng ngày càng ít người dám đến thờ cúng do sợ "vạ
từ miệng mà ra".
Chùa Đanh nơi có núi, có sông nhưng lại cùng vắng vẻ vì xa khu dân
cho nên mới hiếm người qua lại. Trải qua thời gian, tuy nhà cửa được xây
dựng nhiều hơn nhưng chùa vẫn nằm riêng lmột góc cho nên người dân
cũng không thói quen gqua viếng chùa nhiều cho lắm. Chùa Đanh chỉ
đông đúc hơn đôi chút vào ngày Rằm hay Mồng Một khi mọi người vào lễ, còn
ngày thường rất vắng người tới. Thực tế, còn rất nhiều giai thoại được dân gian
truyền miệng nhưng hầu hết đều bị thời gian làm phôi pha hết. Ngày nay, các sự
tích đều mang tính tham khảo, tương đối do nhiều dbản khác nhau, khó chính
xác hoàn toàn.
Chùa Đanh ngày nay vẫn đẹp lung linh trong vị thế thắng tích bậc nhất đất
Bắc trong hệ thống chùa Phật giáo. Mặt trước, nơi hướng ra sông Đáy, ngôi
đền kín cửa rêu cũ kỳ bí không rõ bên trong thờ phượng vThần hay Thánh nào.
không xa nơi ấy, mấy bước chân, núi Ngọc tua tủa rễ cây nghìn năm bổ túc
cho nét hay của cổ tự.
chùa Đanh dẫu vắng vẻ, phần tịch nhưng chính điều đó lại làm
nên một vẻ đẹp những ngôi chùa khác hiếm được, đó là sự thanh tịnh, yên
bình đem đến không khí thanh khiết trong lành cho quý Phật tử đến vãn cảnh.
Chùa Tam Chúc ngôi chùa lớn nhất nhất thế giới ngày nay được xây dựng trên
nền ngôi chùa Tam Chúc cổ tự với niên đại hơn 1000 năm. Đây là ngôi chùa vô
cùng đặc biệt, với cảnh quan mặt hướng hồ lưng tựa núi (Tiền Lục Nhạc Hậu
Thất Tình). được rất nhiều thợ thủ công lành nghề của cả Phật giáo; Thiên
cúa giáo, Hồi giáo thi công những vẫn mang đậm dấu ấn của phong cách chùa c
Việt Nam.
Chùa Tam Chúc hợp với chùa Bái Đính – Ninh Bình và chùa Hương tạo nên tam
giác “trục du lịch tâm linh” lớn nhất nước, thuận lợi về mặt địa lý giao thông đi
lại, tiềm năng trong phát triển du lịch. Một trục đường kết nối thằng 3 điểm sẽ
được xây dựng khi đó khoảng cách từ chùa Hương đến chùa Tam Chúc chỉ
khoảng 20km.
Sự tích chùa Tam Chúc:
Tương truyền rằng Chùa Tam Chúc gắn liền với truyền thuyết về “Tiền Lục nhc
hậu Thất Tinh”. Theo đó, trên dãy núi nằm hướng Tây Nam hướng về chùa
Hương 99 ngọn núi. Trong đó 7 ngọn núi gần với làng Tam Chúc nhất,
lOMoARcPSD| 58097008
được dân làng gọi là núi “Thất Tinh” và ngôi chùa ở đây được gọi là chùa “Thất
Tinh”. Trên 7 ngọn núi này đều xuất hiện một đốm sáng lớn tựa như 7 ngôi sao
tỏa sáng như ánh hào quang. Người người thấy ánh hào quang đó kéo đến núi
Thất Tinh đục đẽo, chất củi thành đống lớn và đốt nhiều ngày hòng lấy đi 7 ngôi
sao. Trong 7 ngôi sao 4 ngôi sao bị đốt nhiều nên đã mờ dần, chỉ còn lại 3 ngôi
sao còn sót lại. thế ngôi chùa “Thất Tinh” sau này được đổi tên thành chùa
“Ba Sao” ( Chùa Tam Chúc ngày nay).
xin kính mời chú anh chị dịp sẽ ghé qua ngôi chùa để có thể tìm hiểu
hơn về ngôi chùa cũng như về phật giáo.
Còn bây giờ thì vvới mảnh đất Hà Nam ta còn có thể có hội thưởng thức các
món ăn đặc sản ở đây như: chuối ngự tiến vua làng Đại Hoàng, Cá Kho làng
Đại, Bánh Cuốn Phủ Lý, Bún cá rô đồng, chim to dần, mắm cáy Bình Lục….
2. Ninh Bình
Bên tay phải HDV,tay trái của đoàn căn biệt thự “song sinh” của đại gia
Thành Thắng của Ninh Bình xây cho 2 người con.
Ninh bimh là một tỉnh nằm cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam. Ninh Bình
thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng dù chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh
và Kim Sơn có địa hình bằng phẳng.
Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng
và Bắc Trung Bộ.
Vùng đất Ninh Bình xưa kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010 với 3 triều
đại Đinh, Tiền Lê, Tiền và cũng là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời
kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời
sở hữu 2 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh Bình
hiện một trung tâm du lịch tiềm năng phong phú đa dạng. Năm 2015,
Ninh Bình tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Hồng 2 thành phố trực thuộc
tỉnh (Ninh Bình, Tam Điệp).
Đến với Ninh Bình thì chúng ta thể nhắc tới rất nhiều các địa điểm du lịch
cũng như đặc sản nơi đây như cơm cháy, thịt rê... và các khu du lịch tâm linh sinh
thái như: danh thắng Tràng An, tam cốc bích động, Chùa bái Đính, đầm vân
Long... Đặc biệt phải nhắc đến những di tích thăng trầm một thời tiền shào
hùng của dân tộc. Cố Đô Hoa là kinh đô đầu tiên của nnước phong kiến
Trung ương tập quyền ở Việt Nam[1] và quê hương của vị Anh hùng dân tộc
lOMoARcPSD| 58097008
Đinh Bộ Lĩnh. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968 - 1010), gắn với sự nghiệp của
ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử:
thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà
Nội.[2] Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng
Long (Hà Nội), Hoa trở thành Cố đô. Các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau
đó dù không đóng đô Hoa nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm
đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ…[3] Kinh đô Hoa
Lư xưa, nay chỉ còn là Cố đô Hoa Lư với diện tích tự nhiên 13.87 km² nằm trọn
trong Quần thể Di sản Thế giới Tràng An thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình. mảnh
đất này thì gắn liền với rất nhiều những câu chuyện lịch sử mang đậm màu sắc
huyền thoại những bí ẩn như về cuộc đời của vua Đinh Tiên Hoàng người con
của mảnh đất Ninh Bình: Về xuất thân của vua Đinh Tiên Hoàng cũng mang
nhiều ẩn thần thoại: nhiều giả thiết nhiều câu chuyện khác nhau,
truyền thuyết cho rằng thì vua là con của dái trong đầm, có nguồn tài liệu thì
cho rằng vua con của Đinh Công Chứ một vị quan từ thời Dương Đình Nghệ
tức bố vợ của Ngô Quyền đã bị Kiều Công Tiễn giết hại. Nhưng theo Em cảm
thấy hợp lý nhất cũng như nhiều độc giả tán thành nhất vẫn là câu chuyện sau:
Trong cuốn truyện Ngọn cờ lau lịch sử, tác giả Nguyễn Như (viết năm 1920) kể
rằng, Công Trứ và Đàm Thị sánh duyên đã trên dưới chục năm mà chưa có con.
người học rộng tài cao, chất nên Công Trứ được trọng dụng giao chức
Thứ Sử, cai quản vùng Châu Hoan.
Sau 6 năm nhậm chức, người vợ Đàm Thị quê nmới điều kiện để vào
thăm chồng. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Nào ngờ tai họa lại giáng
xuống giữa đêm đó…,Một tướng tinh (Sao Băng) trên trời cao sa xuống dinh
quan Thứ Sử. Hào quang của ngôi sao mạnh tỏa rộng, cùng với nắng nóng ban
ngày đã làm khô mọi vật, nên đã xảy ra hỏa hoạn, làm cho tất cả kho tàng, trại
lính dinh thự của quan Thứ Sử đều bị thiêu rụi. Cũng tlúc đó, ng Trứ bỗng
dưng bị ốm liệt giường, cấm khẩu. Đàm Thị cùng gia nhân và những người tâm
phúc lo lắng cho rằng: “Đằng nào thì Công Trứ cũng không sống được nữa, bởi
không chết triều đình trách tội tcũng chết căn bệnh này” nên mọi người
liền đưa Công Trứ vquê. Về Đại Hữu được một thời gian thì Công Trứ khuất
núi, cũng là lúc Đàm Thị phát hiện mình đã có thai. Một thời gian sau quan quân
triều đình về, truy xét Công Trứ vì tội làm cháy nhà cửa, kho tàng và dinh thự ở
Hoan châu nên tuyên phạt “lưu đày biệt tích và tịch thu toàn bộ gia tư, điền thổ.
Nhưng Công Trứ không còn, quan triều đình lại hỏi đến con của Công Trứ
phán rằng: “Sau này nếu sinh con trai, khi đứa con đó đủ mười tám tuổi sẽ phải
lOMoARcPSD| 58097008
chịu tội thay cha”. Vợ chồng Đinh Thúc Dự (là em ruột của Đinh Công Trứ) lo
lắng, bàn bạc quyết bảo vệ cháu, nên đã bịa ra câu chuyện rằng Đàm Thị đã bị
con rái thành tinh hiếp. Nếu sinh ra con trai thì cũng “tạp chủng” chứ
không phải là con của Công Trứ. Đó là cái cớ để Đàm Thị sang nương nhờ bên
ngoại là Đàm Gia Trang. Đủ chín tháng mười ngày, đêm rằm tháng ba năm 924,
Bộ Lĩnh đã cất tiếng khóc chào đời.
Sự thật về thân thế Đinh Tiên Hoàng:
Lọt lòng mẹ Bộ Lĩnh đã tướng mạo phi phàm, mắt nhanh như chớp, sáng n
sao, mặt to tai lớn, hàm én mày ngài. Càng lớn Bộ Lĩnh càng giống Công Trứ,
nên nỗi lo trong lòng người chú ruột cũng tăng theo năm tháng. Một hôm Thúc
Dự bàn với Đàm Thị đưa đàn trâu cùng Bộ Lĩnh qua sông Đại Hoàng (sông
Hoàng Long hiện nay), đến khu núi non thung lũng để chơi với trẻ chăn trâu bên
đó. Bề ngoài Thúc Dự tỏ ra ích kỷ, lạnh lùng, đầy đọa Bộ Lĩnh, mang tiếng đuổi
cháu vào rừng chăn trâu cắt cỏ, không được bén mảng về nhà, suốt ngày
ăn “Con rái cá, giống tạp chủng”. Nhưng bên trong, Thúc Dự mật
rước một thầy dạy thật giỏi, cả văn lẫn võ tên Lưu Phúc, cung cấp tiền của,
nhờ Thầy giữ kín không cho Bộ Lĩnh cùng mọi người xung quanh biết, quyết cho
Bộ Lĩnh học văn, luyện võ. Việc quan lưu tại án văn, nên vài năm sau, quan quân
triều đình lại rầm rập kéo về gặp Thúc Dự, vì tin ngầm báo B Lĩnh đã lớn, là
con ruột của Đinh Công Trứ. Hai vợ chồng Thúc Dự cùng nhau vẽ ra một câu
chuyện khiến quan quân triều đình tin rằng, Bộ Lĩnh đúng con của một rái
như: “Nó đen trũi, lặn ngụp dưới sông Sào Khê, ăn sống, mắt bây giờ
đỏ lòm và lông mọc đầy người” hoặc “Khi nó 9-10 tuổi, đã rất giỏi bơi lặn".Ai
cần mua một con ba ba to bằng nào, chỉ cần lấy que vẽ khoanh xuống đất.
nhìn một lượt rồi nhảy tùm xuống nước, chỉ một loáng là nó đã nắm cổ một con
ba ba đúng như hình vẽ. Nó như một con ma rái cá vậy” để có thể qua mặt được
quan quân triều đình. giải trong cuốn truyện này cũng đồng nhất với nhiều tài
liệu sau này của các nhà nghiên cứu lịch sử. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh sinh trưởng
trong một gia đình quan chức, cha là Tiết độ sứ ở vùng Châu Hoan.Khi cha mất,
ông cùng với mẹ toàn bgia nhân về quê sinh sống. Với lứa tuổi đang độ
trưởng thành, cộng với trí thông minh, tài năng bẩm sinh và ý chí mạnh mẽ của
chàng thanh niên con quan có học, Đinh Bộ Lĩnh dễ dàng chiếm được lòng mến
phục của lớp trai trẻ châu Đại Hoàng. Ông đã tập hợp quanh mình nhiều bạn
cùng trang lứa và còn thu phục được sự tin tưởng nể vì của các bậc bô lão trong
vùng,Và tuổi thơ của ông gắn liền với sống nước trẻ chăn trâu, do tịn tịn
nganh tàn mải chơi trận có lần ông thị trâu của chú ruột để khao quân nên đã bị
lOMoARcPSD| 58097008
chú ruột đuổi rút kiếm đòi giết Vua đã bỏ chạy đến sông Đại Hoàng thì ngã xuống
sông và đã có con rồng vàng bay lên cứu vua qua sông rồi vua đã phiêu bạc theo
sông nước về với vùng Thái Bình gia nhập nghĩa quân Trần Lãm, sau này Trần
Lãm mất đã giao toàn bộ binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh rồi ông về quê chiêu m
quân binh. Dần dần ông đã trở thành người cầm đầu của cả châu Đại Hoàng thời
ấy. Cùng với đội ngũ bạn thời niên thiếu như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh
Tú, Lưu Cơ, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt
sau 1.000 năm Bắc thuộc, đồng thời cho đúc tiền để khẳng định nền độc lập tự
chủ. Ngay cả cái chết của vua vẫn là bí ẩm của lịch sử.
Ngoài ra thì đến với Ninh Bình một nhân vật nổi tiếng nữa không thể không nhắc
tới với những câu chuyện truyền thuyết và ẩn và đã được phong thánh đó chính
là:
Nguyễn Minh Không. Ông một vị cao tăng đứng đầu tổ chức Phật giáo của
triều đại nhà Lý trong lịch sử, là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở
Việt Nam, được tôn vinh ông tổ nghề đúc đồng cũng ông tổ nghề Đông
y Việt Nam....câu chuyện liên quan tới Từ Đạo Hạnh, tới stích trâu vàng Hồ
Tây, tới chưa bệnh Cho vua.
Cầu Gián Khẩu cây cầu nằm trên quốc l1A xuyên Việt. cây cầu nằm
cửa sông Hoàng Long, nơi con sông này đổ vào sông Đáy. Cầu nằm giữa địa bàn
2 huyện Gia Viễn và Hoa của tỉnh Ninh nh. sao cây cầu này lại có tên
cầu Gián Khẩu thì kính thưa chú, anh chị. Vào thời Nam Bắc Triều Mạc.
Trong lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất vua Mạc Mậu Hợp dám làm chuyện
hôn quân, bạo chúa, cướp vợ bề tôi của mình đthỏa mãn dục vọng . Ông đã lập
kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh
lực nhà Mạc đã theo viên tướng này vquy phục vua làm cho thế lực của Mạc
Mậu Hợp ngày càng suy yếu. Câu chuyện sảy ra vào cuối năm 1592, Chị gái ca
Thị Niên hoàng hậu của Mậu Hợp thế Thị Niên thường được ra vào trong
cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn
Khuê để cướp vợ y”. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi
báo cho Bùi Văn Khuê. Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt
Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không
tới, bèn sai tướng dẫn quân tới hỏi tội. Văn Khuê đã trưng binh chống chả,
cho ngừoi đến xin Trịnh Tùng vua đầu hàng Nam chiều xin quân cứu
viện. Cứ như vậy Liên tiếp hơn 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Tình hình nhà Mạc
ngày càng nguy cấp, khi đó trong triều chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc
Liễn.
lOMoARcPSD| 58097008
Quân Nam triều chia hai đường thủy lục cùng đánh từ Hát Giang. Mạc Ngọc Liễn
dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp lũy trên bờ cố thủ.
Trận chiến diễn ra ác liệt. Tới ngày 14 tháng 12,1592 quân Mạc bị quân Nam
triều phá, Ngọc Liễn bthuyền chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan vỡ. Sau Phan
Ngạn cũng về với Trịnh Tùng, Kế quận công Phan Ngạn Mỹ quận công Bùi
Văn Khuê lại cùng là tướng của Trịnh Tùng, Trịnh Tráng. Sau đó Phan Ngạn lập
mưu giết chết Bùi Văn Khuê đcướp vợ Mỹ quận công. Bà Nguyễn Thị Niên
nén hờn căm, “vui vẻ” nhận lời Phan Ngạn đến dự tiệc rượu trên thuyền, chuốc
cho say Kế quận công rồi quân của bà bịt miệng tên hiếu sắc thả xuống
sông. Trả được thù chồng rồi, bà bảo đưa thuyền ra giữa sông Hoàng Long, gieo
mình tự vẫn. Xác Nguyễn Thị Niên trôi đến Vực Vọng, dân làng Chi Phong
chôn cất và xây đền thờ Bà. Hiện vẫn còn mộ và đền thờ Bà Chúa Vực Vông.
Theo nhiều tài liệu được lưu giữ giòng họ Thái bảo Thường quốc công Nguyễn
Quyện thì chiếc cầu được đặt tên Gián Khẩu chính đca ngợi chiến công
của liệt nữ Nguyễn Thị Niên. Gián Khẩu nghĩa bịt miệng. ChGián (chữ
môn, trong có chữ nhật) là làm cho cách ra. Ở Canh Hoạch, ngày giỗ cụ Nguyễn
Quyện ngày giỗ của cả làng, của Hội Người Cao tuổi đứng ra tổ chức chứ
không chỉ của họ Nguyễn. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Bặc toàn quốc
thì các cụ Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện... là hậu duệ Thái thủy tổ Nguyễn Bặc
thuộc dòng họ cụ Nguyễn Xí; đại thi hào Nguyễn Du là hậu duệ 8 đời của trạng
nguyên Nguyễn Thiến mà các đời trước đó đã vào Hà Tĩnh.
Các tên các danh thắng:
Trành An - Tên Gọi
Tên gọi “Tràng An” xuất phát từ cách đây hơn một ngàn năm, sau khi vua Đinh
Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và đóng đô ở Hoa Lư.
Trong số các thành trì Hoa Lư, một thành đóng vai tquân sự quan trọng
đó là thành Nam. Với nhiệm vụ bảo vệ sự bình cho kinh đô, thành Nam đã được
đặt tên Tràng An – đọc chệch từ chữ Trường Yên nghĩa sự yên bình bền lâu
cho đất nước.
Quả thực, tên gọi này đã phản ánh chính xác cuộc sống “trường yên” của người
dân Tràng An lúc bấy giờ. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân,
ông đã xây dựng lại trật tự kỉ cương luật pháp, lại ngăn chặn quân phương bắc
xâm lược Đời sống của người dân đã trở nên yên n, ấm no. Người người tập
trung lao động sản xuất mà chẳng lo trộm cắp, cướp giật, giết người, thậm chí đi
lOMoARcPSD| 58097008
ra ngoài cũng không cần cài then cửa. Nhiều người đã ví von sự bình an, no ấm
kinh đô Hoa cũng giống chẳng kém kinh thành Trường An phương bắc.
Ngày nay, tên gọi Tràng An không chỉ gói gọn trong phạm vi thành Tràng An cổ
mà đã được đặt tên cho khu du lịch sinh thái Tràng An và toàn bộ quần thể danh
thắng Tràng An bao gồm nhiều di tích lịch sử thiên nhiên khác nhau. Nếu
dịp tới thăm Tràng An, bạn sẽ không chỉ tới thăm cố đô Hoa Lư mà sẽ mất nhiều
ngày để khám phá hết toàn bộ các danh lam thắng cảnh trong đó.
Tam Cốc - Bích Động là quần thể hang động ở vùng đất xã Ninh Hải huyện Hoa
Lư tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Tam Cốc - Bích Động còn được biết đến với những cái tên nổi tiếng như "vịnh
Hạ Long trên cạn" hay "Nam thiên đệ nhị động" một khu du lịch trọng điểm
quốc gia Việt Nam. Toàn khu vực bao gồm hệ thống các hang động núi đá vôi
các di tích lịch sử liên quan đến hành cung Vũ Lâm của triều đại nhà Trần. Quần
thể danh thắng Tràng An - Tam Cốc được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt và đã được tổ chức UNESCO xếp hạng di sản
thế giới.
Tam Cốc: Tam Cốc. Còn dân địa phương ở đây gọi Ba Hang, gồm: Hang Cả,
hang Hai, Hang Ba. Cả đi cả về đi hết 3 hang hết 2 tiếng".
Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường
Yên thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đây là mt di tích lịch s
văn hóa thuộc Quần thể danh thắng Tràng An Tam Cốc - Bích Động đã được xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt UNESCO ng nhận di sản thế giới. Chùa
Bích Động nguyên tên "Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng"- nghĩa ngôi chùa
bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc, năm 1774 chúa
Trịnh Sâm tới đây mới đổi tên là chùa Bích Động
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa lớn với nhiều kỷ lục châu Á Việt Nam
được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa
có hành lang La Hán dài nhất châu Á,[2][3] có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất
Đông Nam Á... Đây ngôi chùa lớn nhất và shữu nhiều kỷ lục nhất Việt
Nam. Các hạng mục xây dựng, mở rộng khu chùa mới được các đại biểu tham
dự đại lễ Phật đản thế giới 2008 làm lễ khánh thành giai đoạn 1, năm 2010 chùa
Bái Đính nơi tổ chức Đại lễ cung nghinh xá lợi Phật đầu tiên từ Ấn Độ về Việt
Nam. Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc - Vesak 2014 do Việt Nam đăng cai đã diễn
ra tại chùa Bái Đính trong tháng 3 năm 2014.
lOMoARcPSD| 58097008
Đền Quán Cháo rêu phong, cổ kính, tọa lạc trên đỉnh dốc nằm sát Quốc lộ 1A
thuộc địa phận phường Tây Sơn, thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh nh, đền tên
chữ Chúc Sơn Tiên Từ (nghĩa là: Đền Tiên núi Cháo) thờ Mẫu Liễu Hạnh
một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam. Truyền thuyết cho rằng nơi đây
nơi Thánh Mẫu hiển linh giúp Vua Quang Trung đưa quân ra dẹp quân Thanh.
Địa danh này từ xa xưa đã đi vào lòng người ngay cả những câu ca dao hay
câu thơ cũng rất được nhiều người chọn lựa làm đề tài viết. Ngôi đền này còn lưu
giữ nhiều bài vị, đtế lễ, thờ cúng rất độc đáo, đặc biệt truyền thuyết vcác
tiên nữ dâng cháo lên nghĩa quân Tây Sơn trước giờ xung trận.
Nói đến đền Quán Cháo, không thể bỏ qua chiến thắng Đống Đa của vua Quang
Trung. Trận đại phá quân Thanh như một hào quang sáng rực trong lịch sử nước
nhà. Di tích lịch sử đền Quán Cháo gắn liền với huyền thoại Thánh mẫu đã biến
thành gái bán hàng cháo, để dâng cháo cho quân lính Tây Sơn cứu giúp
những người nhỡ độ đường ứng đối thơ phú với bao nhiêu tao nhân mặc
khách. Nhờ vậy nghĩa quân Tây Sơn thêm mưu trí, dũng mãnh chiến đấu, quét
sạch quân xâm lược. Chỉ trong 5 ngày xuất quân, 5 đạo quân Tây Sơn đã đánh
tan 29 vạn quân Mãn Thanh.
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp gọi theo tên gọi phòng tuyến Tam Điệp của
nghĩa quân Tây Sơn, được xây dựng vào cuối năm Mậu Thân (1788) để chuẩn bị
lực lượng cho chiến dịch thần tốc, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh
lũ bán nước Lê Chiêu Thống vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789).
Vào cuối năm Mậu Thân (1788), bán nước Chiêu Thống rước 29 vạn
quân Thanh vào xâm lược nước ta. Trước sức mạnh ban đầu của giặc, Ngô Văn
Sở và Ngô Thì Nhậm cùng các tướng lĩnh Bắc Hà rút lui chiến lược về xây dựng
phòng tuyến Tam Điệp Biện Sơn, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy
chỗ hiểm yếu. Phòng tuyến Tam Điệp giới hạn rút quân cuối ng của nghĩa
quân Tây Sơn, nhằm đề phòng, ngăn chặn cuộc tiến công của địch, bảo đảm
mật và an toàn cho hậu phương ở phía Nam. Khi Quang Trung tiến quân ra Bắc,
phòng tuyến Tam Điệp lại là nơi tập kết của nghĩa quân Tây Sơn (từ 20 - 12 năm
Mậu Thân tức 15 tháng 1 năm 1789 đến 30 – 12 năm Mậu Thân tức ngày 25 – 1
– 1789).
Phòng Tuyến Tam Điệp, gồm 3 đỉnh đèo của Tam Điệp một cụm đồn lũy,
Kẽm Đó, lũy ông Ninh, đồn Tam Điệp, chặn ngang đường Thiên từ Bắc vào
Thanh Hóa.
lOMoARcPSD| 58097008
Đường Thiên ra Bắc vào Nam chạy trên 3 đỉnh đèo Tam Điệp, đỉnh cao nhất
khoảng 110m. Thế kỷ 16, lợi dụng địa thế hiểm trở của dãy núi của Tam Điệp,
chính quyền phong kiến Trịnh đã đắp một số thành luỹ cả hai mặt Bắc
Nam đèo Tam Điệp và lấy Tam Điệp làm ranh giới giữa Nam triều và Bắc triều.
Tại Kẽm Đó hai bên đường Thiên được đắp hai đoạn lũy nối liền với vách
núi thành một cửa ải kiên cố. Cách Kẽm Đó khoảng 400m về phía Bắc “lũy
ông Ninh”, nối giữa 2 dãy núi gọi núi Thành, giữa chiến lũy một lối đi,
hai bên có kè đá như “cửa lũy”. Phía Tây chiến lũy có một con hào rộng khoảng
8m, phòng sự tấn công của đối phương từ đường thiên lý vào.
Cách chiến lũy này khoảng 100m “đồn Tam Điệp”, rộng khoảng 1 mẫu bắc bộ,
kiểm soát con đường thiên lý ở phía Bắc cửa ải.
Khi rút lui chiến lược xây dựng phòng tuyến Tam Điệp vào cuối năm Mậu Thân
(1789), nghĩa quân Tây Sơn đã sử dụng những đồn lũy này cho nên nhiều
truyền thuyết vNguyễn Huệ nghĩa quân Tây Sơn đây. Nhân dân địa phương
quan niệm “lũy ông Ninh” là cửa tiền “lũy Quận Kế” là cửa hậu của nghĩa
quân Tây Sơn.
Riêng đồn Tam Điệp được sử dụng từ đời đến đời Tây Sơn đời Nguyễn
thuộc chính quyền Nguyễn Quang Toản khi đã suy yếu, nhưng đã đóng đồn
Tam Điệp để chống lại chính quyền Nguyễn Ánh. Khi triều Nguyễn được thiết
lập cũng sử dụng đồn Tam Điệp để kiểm soát con đường thiên ra Bắc vào Nam.
Tại Kẽm Đó, hai con đường thiên lý còn vết, hai đoạn lũy ngắn nối liền với vách
núi đã bị phá hủy gần hết. Lũy ông Ninh còn khá rõ, dài 135m, chiều rộng 15m,
đường cái, đồn Tam Điệp còn hai dấu vết mờ nhạt ở bờ thành phía Đông.
Hiện nay trên đỉnh đèo Tam Điệp, đèo cao nhất (thuộc phần đất tỉnh Thanh Hóa)
còn một tấm bia ghi bài thơ “Qua Tam Điệp Sơn” (qua núi Tam Điệp) tạc năm
Thiệu Trị thứ 2 (1842), ghi lại một bài thơ của Thiệu Trị làm khi đi tuần du qua
đây.
3. Thanh Hóa
Thanh Hóa, hay còn được gọi xứ Thanh, tỉnh cực Bắc miền Trung Việt
Nam.
Thanh Hóa là một tỉnh lớn về cả diện tích và dân số, đứng thứ 5 về diện tích
thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc nhà nước.
Hiện nay Thanh Hóa :tp. Thanh Hoa, TP. Sầm Sơn, tx. Bỉm Sơn, và 24
huyện, một trong những tỉnh thành đơn vị hành chính nhiều nhất cả nước.
lOMoARcPSD| 58097008
Thanh Hóa tỉnh đầu của phần giữa nước ta, tức cái lưng con rồng. Từ
xương sống Trường Sơn những giẻ xương sườn chảy ra biển: Dãy núi đá
vôi Tam Điệp, đám núi Xước, Quỳnh Lưu, núi Hoàng Sơn, Hoành Sơn. Tỉnh
Thanh Hóa Bắc giáp Ninh Bình với dãy núi đá Tam Điệp, Tây giáp núi Pu
Luông đầu dãy Trường Sơn, Nam giáp Nghệ An với dãy núi Quỳnh Lưu, phía
Đông giáp biển Đông. Với đầy đủ các địa hình Thanh Hóa được gọi là Việt
Nam thu nhỏ.
Khí hậu Thanh Hóa thuộc vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Nhiệt
độ trung bình 23-24oC. Nằm độ cao không lớn, lại nằm kế biển nên mùa
đông không lạnh lắm, mùa dịu mát hơn, giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy đều thuận lợi.
Thanh Hóa tỉnh tiềm năng rất lớn. Những thắng cảnh đặc sắc như bãi
biển Sầm Sơn, động Hồ Công, núi Hàm Rồng… Thanh Hóa có nhiều di tích
gắn với lịch sử của dân tộc như Lam Kinh, thành nhà Hồ. Đến thăm các di
tích này, du khách sẽ hiểu được một giai đoạn hào hùng đầy biến động của
dân tộc.
Đây cũng một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt cổ.
Cách đây khoảng 6.000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di ch
khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây văn hóa Đa Bút.
sau đó nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn
Thanh Hóa đã phát triển rực rỡ. Thời Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh
Hóa thuộc quận Cửu Chân.
Ở thời kỳ tự chủ tThanh Hóa được đổi tên nhiều lần nhưng Thanh Hóa vẫn
là tỉnh có số lần sát nhập và chia tách ít nhất cả nước.
thời Nhà Đinh Tiền Thanh Hóa gọi đạo Ái Châu. thời Nhà
thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi là Phủ Thanh
Hóa. vào thời nhà Trần thì huyện Nông Cống đã được thành lập. m
1403, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Thời N
Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hoá.
Sau khi Nhà Nguyễn lên nắm quyền, vào năm Gia Long thứ nhất (1802), đổi
gọi trấn Thanh a. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh,
bắt đầu gọi tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm Thiệu Trị thứ ba
(1843), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa.[10] Tên gọi Thanh Hóa không đổi từ đó
cho tới ngày nay. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các cấp hành chính
châu, phủ, quận được bãi bỏ. Tỉnh Thanh Hóa lúc này 21 đơn vị hành
chính gồm thị xã Thanh Hóa và 20 huyện.
lOMoARcPSD| 58097008
Thanh Hóa truyền thống văn hóa lâu đời được gọi đất “địa linh nhân
kiệt” đã cung cấp cho đất nước biết bao danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc,
nơi phát tích của các triều Tiền Lê, Hậu Lê, nhà Hồ, chúa Trịnh, chúa Nguyễn
dấu ấn còn ghi lại các vùng quê với các đền đài, miếu mộ, lăng tẩm.
Hiếm vùng đất nào lại sinh ra tới “ba dòng vua”, “hai dòng chúa” như
đất Thanh. mảnh đất anh hùng,nơi được coi phát tích của các vua chúa
phong kiến Việt Nam “Vua Xứ Thanh Thần Xanh Nghệ”… Thanh Hóa
nơi nhiều dân tộc ít người trú. Mỗi dân tộc đều bản sắc văn hóa riêng.
Hò sông Mã là một là điệu dân ca đặc trưng nhất của đất Thanh.
Thanh Hóa cũng nơi truyền thống đấu tranh trong suốt chiều dài của lịch
sử dân tộc. Lịch sử còn ghi cuộc khởi của Triệu, khởi nghĩa Lam Sơn bằng
một chương sáng chói. Những người đi ở, chăn bò, nấu muối, bán dầu đã theo
Thái Tổ khởi nghĩa đánh thắng quân Minh. Khi giặc Pháp tràn vào nước
ta, năm 1883, dân Thanh Hóa ngăn không cho đặt ng sứ. Phạm Bành
Đinh Công Tráng khởi nghĩa.
Đền Sòng Sơn hay đền Sòng trước kia được gọi đền Sùng Trân, thuộc địa
giới làng Cổ Đam, xã Hà Dương, huyện Hà Trung, phủ Tống Sơn (nay thuộc
phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn).
Đền Sòng Sơn được xây dựng thời Cảnh Hưng triều vua Hiển Tông (1740-
1786). Tương truyền, một ông lão cầm chiếc gậy tre khô cắm xuống đất
làng Cổ Đam khấn rằng: “Nếu gậy tre này tươi tốt thì xây đền thờ Liễu
Hạnh công chúa”.
Quả nhiên, gậy tre trở nên xanh tươi, bén rễ, đâm chồi tỏa tốt tươi lạ thường.
Người đời cho là điều lạ linh ứng, linh thiêng mới bảo nhau lập nên đền Sòng
trên mảnh đất ấy.
Đền Sòng ban đầu khi mới xây dựng còn đơn nhỏ. Trải qua quá tnh
lịch sử lâu dài gắn với nhu cầu về sinh hoạt tín ngưỡng của người dân, ngôi
đền ngày càng được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn.
Trải qua thời gian, cùng với sự phong pvề huyền thoại Liễu Hạnh công
chúa, Đền Sòng trở thành nơi linh thiêng, nơi sinh hoạt tín ngưỡng không thể
thiếu của dân địa phương. Danh tiếng ngày một lan xa khiến đền Sòng
được mệnh là ngôi đền "thiêng nhất xứ Thanh", được người dân cả nước
biết đến.
Ngày 26/2 Âm lịch hàng năm được coi ngày hiển linh, hiển thánh của Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, là ngày lễ chính diễn ra lễ hội đền Sòng.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được biết đến như là một trong “Tứ bất tử” của Việt
lOMoARcPSD| 58097008
Nam cùng với Thánh Tản Viên (Sơn Tinh), Phù Đồng Thiên Vương (Thánh
Gióng) và Chử Đồng Tử. Riêng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, một trong những
tín ngưỡng cổ xưa nhất của người Việt thì Mẫu Liễu Hạnh được xem là thần
chủ.
Tuy tới hơn 400 nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh, nhưng không phải nơi nào cũng
được xem là nơi Thánh Mẫu hiển thánh. Nhưng địa danh được tin là nơi Mẫu
Liễu Hạnh đã hiển thánh bao gồm: Phủ Giầy, Phủ Tây Hồ và đền Sòng.
Trong đó đền Sòng ở Thanh Hóa được mệnh danh là “thiêng nhất xứ Thanh”.
Không hổ danh đền thiêng nhất xứ Thanh, hàng ngày rất nhiều người
dân đến đây ntìm về nơi tâm linh Việt. Nhiều người tâm niệm đến đền cũng
như trở về thăm Mẫu, viếng người mẹ linh thiêng, huyền của biết bao thế
hệ những người dân Việt. Đền Cô Chín Giếng
Đền Chín Giếng (hay còn gọi đền Cô Chín) nổi tiếng linh thiêng nhất nhì xứ
Thanh, trước thuộc địa phận phường Bắc Sơn, thị Bỉm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Tên của ngôi đền bắt nguồn từ 9 miệng giếng thiêng quanh năm đùn
nước không bao giờ cạn dưới mặt dòng suối tự nhiên chảy qua đền Sòng
đền Chín Giếng.
Người dân ở đây truyền tụng 9 miệng giếng thiêng là nơi Cô Chín cai ngự,
xung quanh 9 miệng giếng thiêng những câu chuyện huyền bí, kỳ lạ đến
khó tin.
Chín miệng giếng thiêng
Cách đền Sòng 1km về phía đông, ngược dốc rồi rẽ phải chừng 200m đến
chân đền Chín. Con đường dẫn xuống suối trước một thung lũng uốn
mình trong rặng tre già, giờ chỉ còn là một khe hẹp “bó mình” giữa hai quán
nước chật kín những dãy bàn ghế.
Phong cảnh suối thiêng hữu tình chẳng khác nào tranh vẽ. Xung quanh suối
những miệng giếng trong xanh, sâu thăm thẳm đùn nước lên thành từng
nhịp. Chỉ tay xuống suối, anh Huấn - đang làm nhiệm vụ ghi công đức trong
đền - nói: “Trong số 9 giếng, miệng giếng thứ chín sâu nhất quanh năm đùn
nước là nơi Cô Chín đang ngự”.
Ông Hà Văn Châu - người trông coi đền lâu năm, đã chứng kiến nhiều sự đổi
thay xung quanh đền Chín Giếng - cho biết: “Đền Chín được khởi công
cùng đền Sòng dưới thời Cảnh Hưng triều Vua Lê Hiển Tông (1740 1786) và
chính thức tu sửa vào năm 1939. Năm 1993 đền được công nhận di tích lịch
lOMoARcPSD| 58097008
sử - văn hóa cấp quốc gia. Ngôi đền đã lúc bị tàn phá hoàn toàn, ngay cả
những bức tượng cổ cũng bị hủy hoại, thất lạc”.
Ông Châu kể lại: 9 miệng giếng thiêng trước đền đã có từ lâu, xuất hiện trong
truyền thuyết Chín - tức Cửu Thiên Huyền Nữ - con gái thứ 9 của Ngọc
hoàng Thượng đế. Cửu Thiên Huyền Nữ một tiên giáng trần, trước
bán nước cổng đền Ba Dọi, từng theo hầu mẫu Sòng. Ban đầu những kẻ
người trần mắt thịt không tin, nghĩ cô là yêu quái nên quở trách, đánh đuổi
tìm mọi cách diệt trừ. tức giận nên đã về tâu với thiên đình cho thu giam
hồn phách rồi hành cho dở dại dở điên, không những vậy, “làm cho trăm
trứng hiểm nghèo/ khi lội dưới suối khi trèo lên cây Với phép thần thông
quảng đại lại biệt tài xem bói nghìn quẻ, trong những năm chinh chiến loạn
lạc, cô đã phò vua giúp nước bằng cách tiên đoán trận mạc, nhờ đó trăm trận
trăm thắng. Với công lao to lớn, vua đã truyền dân lập đền thờ cô, trước đền
9 miệng giếng tự nhiên do cai quản. Thế nhưng đó cũng chỉ giải
theo tích xưa.
Phải đến mấy chục năm sau, người ta mới thực sự hóa giải được câu hỏi giếng
thiêng xuất hiện từ đâu? Ông Châu suy một hồi lâu rồi tiếp tục câu chuyện:
“Tôi không nhớ chính xác vào năm nào, chỉ nhớ đó một năm hạn hán, khi
nước sinh hoạt khan hiếm, người dân quanh vùng đã đi tìm nguồn nước đào
giếng. Cứ 4-5 người chung nhau đào, họ tìm đến suối Sòng khoan giếng. Đào
liên tục 8 miệng giếng vẫn chưa tìm thấy một giọt nước nào. Kiên trì đặt mũi
khoan tới miệng giếng thứ chín, khoan sâu được 8-9m thì bất ngxuất hiện
một mạch nước lớn đùn lên ào ào. Cả làng được cứu sống nhờ mạch nước này
cũng từ đây xuất hiện 9 miệng giếng thiêng. Sau đó, những đoàn
Nội vthăm dò, đo đạc, nhưng không kết quả chính xác về độ sâu của
giếng. Càng xuống sâu nước càng lạnh. Trực quan địa hình cùng quá trình lặn
xuống lòng sâu, họ kết luận: Dưới giếng một dòng sông ngầm, dđoán
chảy từ dãy núi Tam Điệp (Ninh Bình) ra cửa biển Thần Phù (Nga Sơn).
thời kỳ đầu khi người ta phát hiện khu giếng thiêng này, ở miệng giếng thứ 9
rộng, sâu như một hườm đá được đẽo gọt tỉ mỉ xuất hiện chuối, trắm
từng đàn, con to như bắp đùi người lớn. Người dân đổ đi câu, đánh kích,
vây lưới bắt về bán. Trong số những người bắt bằng kích điện, hai
trường hợp chẳng may bị điện giật chết. Chuyện đánh kích điện chết điện
giật thì không lạ, nhưng người dân nhân việc này tuyên truyền đó thần
báo oán, từ đó việc đánh bắt cá ở đây bặt dừng.
lOMoARcPSD| 58097008
Vào mùa hè, khách hành hương sau khi lên đền Chín đều xuống dòng suối
này tắm nhiều đồn thổi tắm nước suối tiên sẽ trắng da, xanh tóc, khỏe
mạnh phi thường. Nhưng cũng đã tới 2-3 vụ chết đuối đây, “Do nước
giếng không bao giờ cạn, đặc biệt miệng giếng thứ 9 sâu không đáy rất nguy
hiểm, những miệng giếng còn lại có cạn cũng lút đầu người lớn, nên ban quản
đền đã gác tạm tấm bêtông lên miệng giếng, đứng trên cao nhìn xuống ai
cũng tưởng giếng cạn, đáy” - anh Huấn nói. Như vậy, việc người chết
đuối cũng là điều được lý giải. Ở đây còn có câu chuyện, rằng vào mùa mưa,
nước suối dâng cao, sau khi khấn vái trên đền xong xuôi, các con nhang
đem lộc thả xuống suối, trong đó có quả bưởi vàng và những xấp tiền xu 200
đồng đã được đánh dấu theo bản hội. Chẳng biết có phép nhiệm màu nào mà
chỉ mấy ngày sau, quả bưởi đó đã có mặt ở một giếng khác thuộc địa phận xã
Hà Thanh. Cũng trong tháng đó những đồng xu 200 được khắc chữ phía sau
đã được cư dân vùng biển Nga Sơn ở cách đó rất xa tìm thấy trong quá trình
đi biển. Những câu chuyện kỳ lạ đó vẫn còn truyền cho tới ngày nay mà chưa
một lời lý giải xác đáng. lẽ dòng sông ngầm dưới giếng (như các nhà
khoa học đã phán đoán) một sự lý giải căn cứ? Vốn trông đền lâu năm,
ông Châu từng chứng kiến những cảnh dở khóc dở cười: “Có những ông vận
quần áo sang trọng, đến đền bệ vệ, oai nghiêm.
Thế nhưng vừa bước vào cửa điện đã van xin, khóc lóc rồi đập đầu vào chân
điện thờ”. Thời gian gần đây, do quá trình đô thị hóa, nhiều hộ dân đây đã
lấp đi một vài miệng giếng nhỏ ngay dưới chân đền để xây nhà, làm quán.
thế đường đi xuống khu giếng thần trở nên hẹp dần, trong khi lượng khách
hành hương đổ về đây ngày một đông. Ông Châu khẳng định, Ban quản
đền sẽ tiếp tục đầu tư, quy hoạch trong thời gian tới, như xây dựng bãi đỗ xe,
mở rộng đường dẫn xuống suối thiêng... để đền Chín Giếng không chỉ là nơi
linh thiêng mà còn là điểm du lịch hấp dẫn khách thập phương.
Sông Lèn cầu Đò Lèn
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu Đò Lèn (Hà Trung) vị trí chiến
lược hết sức quan trọng trên tuyến đường giao thông huyết mạch Bắc Nam.
Chính vậy, khu vực Đò Lèn với diện tích chưa đầy 3 km2 mục tiêu trọng
điểm bắn phá của đế quốc Mỹ khi xâm phạm bầu trời Thanh Hóa. Sau thất bại
của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã tiến hành “Chiến tranh cục bộ”
đưa quân ồ ạt vào miền Nam phát động “Chiến tranh phá hoại” miền Bắc
bằng không quân. Xác định Đò Lèn mục tiêu trọng điểm bắn phá của đế
quốc Mỹ, Huyện ủy Trung đã chỉ đạo quân, dân trong huyện chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để chiến đấu và chiến thắng. Tất cả xóm làng, bệnh
lOMoARcPSD| 58097008
viện, quan, trường học chủ động chuẩn bị cả về vật chất tinh thần để
chống lại cuộc “chiến tranh phá hoại” của đế quốc Mỹ. Nhân dân tán ra
khỏi khu vực trọng điểm đánh phá, đào hầm hào để trú ẩn. Các em học sinh
đến trường bắt buộc phải rơm đội đầu một chắn bằng nùn rơm
trên lưng. Dân quân tự vệ ngày đêm luyện tập chiến thuật bắn máy bay Mỹ
bằng các loại khí được trang bị. Các tổ chức cứu thương, tiếp đạn, chữa
cháy được thành lập và huấn luyện. Phương án tác chiến giữa dân quân tự v
bộ đội chủ lực pháo phòng không diễn tập phối hợp chặt chẽ. Nhân dân Hà
Trung, tiêu biểu nhân dân các Phong, Ngọc, Ninh, Lâm
giúp các đơn vị bộ đội hàng nghìn ngày công đào đắp trận địa. Lực lượng
phòng không 3 thứ quân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng
chiến đấu.
Ngày 3 4-4-1965, giặc Mỹ tập trung máy bay đánh phá khu vực Đò Lèn,
sau đó là Hàm Rồng hòng cắt đứt con đường tiếp tế và phân tán lực lượng của
quân và dân ta. Sáng ngày 3-4-1965, từng tốp máy bay Mỹ từ phía biển xuất
hiện, gầm rú như xé nát bầu trời, trong chốc nhát bổ nhào ném bom đánh phá
dữ dội khu vực cầu Đò Lèn. Nhằm bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm,
tại trận địa, quân và dân các Hà Phong, Hà Lâm, Ngọc (Hà Trung), Đại
Lộc, Đồng Lộc (Hậu Lộc) tự vệ ga Đò Lèn đã phối hợp với bđội pháo
cao xạ nhanh chóng hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm với máy bay Mỹ.
Cả khu vực Đò Lèn và trận địa dân quân tự vệ ngập chìm trong khói lửa đạn
bom, nhiều đoạn công sbị phá vỡ, một số chiến sĩ hy sinh bị thương ngay
trên mâm pháo. Dân quân tự vệ các xã Hà Ngọc, Hà Phong, Lâm, tự vệ cơ
quan bách hóa, thực phẩm, cơ khí đã lao ra trận địa tiếp đạn, cứu chữa thương
binh, thay thế pháo thủ chiến đấu. Trong trận này một máy bay Mỹ đã bị bắn
rơi.
Không đầy nửa giờ đồng hsau đó, hàng chục máy bay Mỹ lại gầm rít trên
bầu trời Đò Lèn, trút hàng loạt bom đánh phá nơi đây. Một lần nữa mặt đất,
bầu trời khu vực Đò Lèn lại rung chuyển, khói bom, lửa đạn mịt... Lần
này, máy bay địch không chỉ vấp phải sức mạnh bão lửa của pháo phòng không
tầm cao, súng bộ binh tầm thấp bủa vây còn gặp phải sự phản kích của
không quân Việt Nam nên một máy bay nữa của địch bị bắn cháy... Khoảng
10 giờ sáng ngày 3-4, Mỹ phải chấm dứt tấn công khu vực Đò Lèn. Từ kinh
nghiệm chiến đấu trận đầu, quân dân Trung đã tiếp tục chiến đấu quả
cảm trong trận oanh tạc lần thứ 2 của không quân Mỹ vào ngày 4-41965. Lúc
bấy giờ, Mỹ điên cuồng huy động nhiều máy bay hiện đại nhất, chia thành
từng tốp, từng đợt trút hàng trăm, hàng nghìn tấn bom xuống Hàm Rồng, Đò
lOMoARcPSD| 58097008
Lèn các vùng phụ cận. Tại khu vực Đò Lèn, bầu trời ầm ầm rung chuyển
nhưng trên các trận địa pháo vẫn nghe rõ khẩu lệnh “bắn” vang lên đanh thép
của người chỉ huy, các pháo thủ trên mâm pháo vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu
bám chặt mục tiêu, trút lửa đạn vào kẻ thù để huyết mạch giao thông cầu Đò
Lèn được giữ vững, thông suốt.
Trong 2 ngày chiến đấu dũng cảm, quân dân Hà Trung không những chia
lửa với quân dân Hàm Rồng, quân dân Phà Ghép mà còn bắn rơi 5 máy
bay, bắt sống một giặc lái Mỹ. Trong cuộc chiến này đã xuất hiện nhiều tấm
gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, mưu trí như đồng chí Hoàng
Thị Vường, người đảng viên trẻ tuổi đã bình tĩnh nphát súng đầu tiên mở
màn cho phong trào thi đua diệt máy bay Mỹ bằng súng trường bộ binh. Khi
trận đánh diễn ra ác liệt, đồng chí Vường đã vượt qua mưa bom, bão đạn, tới
từng ụ súng, động viên đồng đội và băng bó cho thương binh. Hay như đồng
chí Phạm Hồng Sỹ, xã đội trưởng xã Hà Ngọc chưa tròn 22 tuổi đã vững vàng
chỉ huy các trận địa của dân quân tự vệ chiến đấu ngoan cường; đồng chí
Điệp, đảng ủy viên Ngọc đã chèo thuyền vượt sông tiếp đạn giữa lúc
máy bay địch lồng lộn bắn phá; đồng chí Huấn làm nhiệm vụ thông tin đã lao
mình trong khói lửa để giữ vững liên lạc, khi đường dây điện thoại bị đứt...
Ngoài ra, còn rất nhiều tấm gương tham gia phục vchiến đấu của các mẹ,
các chị, các em thiếu nhi đã bất chấp hiểm nguy vượt qua mưa bom bão đạn
tiếp tế cơm, nước, thăm hỏi động viên, tham gia băng bó, chăm sóc thương
binh... Tất cả cùng góp sức làm nên chiến thắng Đò Lèn vang dội.
Chiến tranh đã lùi vào quá khhơn nửa thế kỷ, nhưng âm hưởng Đò Lèn chiến
thắng vẫn còn vang vọng đến hôm nay. Chiến công này mãi mãi là khúc tráng
ca bất hủ, mốc son lịch shào hùng, chói ngời về cuộc chiến tranh nhân
dân bảo vTổ quốc. Ngày nay, trên con đường đổi mới, với sức vươn của một
vùng đất kiên cường, anh dũng trong chiến tranh, Đò Lèn ngày càng sầm uất,
giàu đẹp, xứng đáng với những chiến công oanh liệt, hào hùng trong lịch sử.
Đền Bà Triệu
nơi thờ tự vị nữ anh hùng dân tộc Việt tên là Triệu Thị Trinh, người đã
công đánh đuổi quân xâm lược Đông Ngô (Trung Quốc) vào giữa thế kthứ
3. Đền nằm trên núi Gai, ngay sát Quốc lộ 1A, đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã
Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 18
km về phía Bắc và cách Hà Nội 137 km về phía Nam.
lOMoARcPSD| 58097008
Năm 226, Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền đã xác nhập đất nước
ta về Đông Ngô. Đúng năm đó Triệu Thị Trinh được sinh ra đời, Thuở nhỏ
cha mẹ đều mất sớm, Triệu đến với anh Triệu Quốc Đạt, một hào
trưởng[4] ở Quan Yên.
Lớn lên, bà người có sức mạnh, giỏi nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi
gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt,[5] giết chị dâu rồi vào
trong núi Nưa (thuộv Như Thanh, Nông Cống ngày nay) chiêu mộ tráng sĩ.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm
quận lỵ Tư Phố[6] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn
của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn.
Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động vùng
đồng bằng con sông này. Sau này Triệu Quốc Đạt mất bà đã đứng lên đứng
đầu nghĩa quân, và đã đánh nhiều trận cho quân Đông Ngô khiếp sợ.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,[9] vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng
Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sGiao Châu, An Nam hiệu úy,
đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận
liền dùng của cải mua chuộc một số nh tụ địa phương đlàm suy yếu
chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về
lực lượng không sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn
cứ Bồ Điền bị bao vây lập, chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam slược, chống đỡ với quân Đông
Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã
Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), c mới 23
tuổi.Có giai thoại nói rằng tướng giặc lợi dụng việc phận nữ nhi đã truất bỏ y
phục trên người khiến Bà Triệu từ đó xấu hổ mà dẫn đến tự tử. Nước Việt lại
bị nhà Đông Ngô đô hộ
Cầu Hàm Rồng.
Cầu Hàm Rồng là cầu đường bộ, đường sắt bắc qua sông Mã, cách thành phố
Thanh Hoá 4 km về phía bắc. Cầu Hàm Rồng cũ do Pháp xây dựng năm 1904
cầu vòm thép không trụ giữa chúng đã coi đây là kỳ quan thế giới
lúc bấy giờ. Cầu này bị Việt Minh phá hủy năm 1946 trong chiến dịch tiêu thổ
kháng chiến. Năm 1962 cầu Hàm Rồng mới được khởi công xây dựng. Khánh
thành ngày 19 tháng 5 năm 1964, cầu gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường
lOMoARcPSD| 58097008
sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Từ tháng 12/2000,
sau khi cầu Hoàng Long khánh thành, cầu Hàm Rồng chỉ dành cho đường sắt.
Cầu Hàm Rồng vị trí giao thông rất quan trọng cầu đường sắt duy nhất
đi qua sông Mã. Đây là cây cầu rất nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam
trọng điểm của cuộc đấu tranh đánh phá bảo vệ giao thông. Không lực Hoa
Kỳ liên tục đánh p với cường độ rất cao với các chiến thuật khác
nhau.Cầu Hàm Rồng vị trí giao thông rất quan trọng không chỉ với nhân
dân tỉnh Thanh Hóa còn vị trí chiến lược quan trọng đối với cả nước.
Những năm 1960, khi đất nước còn chia cắt thành hai miền Nam Bắc, khi
miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội trở thành hậu phương vững chắc
cho miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Đảng, Nhà nước đã khởi công
xây dựng lại cầu Hàm Rồng. Đây là cầu đường sắt, đường bộ duy nhất đi qua
sông nối liền mạch giao thông từ miền Bắc vào miền Trung. Từ đây
khí, đạn dược…được vận chuyển cho các chiến trường Miền Nam. Hàng trăm
nghìn tấn vũ khí, lương thực, thuốc men đã được vận chuyển qua cây cầuy
để chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại
miền Bắc của Mỹ từ 1964-1973, Trung ương Đảng, Quân khu 3 Tỉnh ủy
Thanh Hóa xác định: "Trọng điểm địch đánh phá quân khu vào lúc này
Thanh Hóa. Trọng điểm Thanh Hóa Hàm Rồng. Bảo vệ được cầu Hàm
Rồng góp phần bảo vgiao thông thông suốt . Các đơn vị bảo vệ cầu đã
chiến đấu hàng trăm trận, bắn rơi hơn 100 máy bay các loại. Không quân Việt
Nam tại đây bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Trung đoàn pháo phòng không 228 bảo
vệ cầu Hàm Rồng đã bắn rơi 90 máy bay, được phong danh hiệu Anh hùng
lực lượng trang Nhân dân được mang tên Đoàn Hàm Rồng. Vị thế của
cầu rất đặc biệt làm cho cầu rất khó bị bom đánh trúng: tại hai đầu Bắc
Nam của cầu hai hòn núi (núi Rồng núi Ngọc) đã chắn hết các bom định
ném xuống cầu và là nơi các lực lượng phòng không bảo vệ cầu bắn đón đầu
các máy bay oanh tạc phải bay theo một hướng bắt buộc. Do vậy nên trong
cuộc chiến tranh không quân lần thứ nhất của Mỹ chống miền Bắc Việt Nam
từ năm 1964-1968 tuy bị đánh phá rất ác liệt nhưng Không quân Mỹ không
thể ném bom trúng cầu. Chỉ đến năm 1972 ngay đợt đầu của chiến tranh không
quân lần hai (bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1972) Hoa Kỳ áp dụng bom
thông minh (bom điều khiển bằng laser) đã đánh trúng cây cầu này và đã làm
liệt hoàn toàn cầu Hàm Rồng. Năm 1973 cầu được khôi phục lại, trụ giữa
vẫn dùng lại làm móng cột ống, tháo dỡ dầm thép cũ, thay bằng 2 nhịp 80 m
đơn giản.
lOMoARcPSD| 58097008
Giới quân sự Mỹ đã từng xác định có 60 điểm tắc trên hệ thống giao thông
bắc Việt Nam điểm tắc điển hình chính những cây cầu. Với vtrí trọng
yếu, nằm trên vĩ tuyến 20, có hai bờ cao, nơi dòng sông sâu chảy xiết, là điểm
tắc lý tưởng, cầu Hàm Rồng được Mỹ coi là “điểm nút số một” để cô lập con
đường chi viện từ Bắc vào Nam.
Chính vậy Không lực Hoa Kỳ liên tục đánh phá cầu với cường độ rất cao
với các chiến thuật khác nhau. Với quyết tâm cắt đứt mạch máu giao thông
quan trọng này của ta, bquốc phòng Mỹ đã trực tiếp chỉ đạo phương án đánh
phá Hàm Rồng. Chúng đã huy động 121 lần tốp với 2.924 lần chiếc máy bay
đánh phá 1.096 trận, ném 71.600 tấn bom phá với 11.526 quả, 99 bom n
chậm, bắn 600 tên lửa, 2.840 quả rốckét, 2.178 quả đạn pháo kích, hàng trăm
bom bi và thủy lôi. Tính bình quân mỗi người dân ở đây phải chịu đựng 5 tấn
bom đạn của địch…
sống chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng đã nhiều sự hi sinh mất t
đau thương những cái tên anh hùng đã đi vào lịch sử như những ức
không thể nào xoá nhoà:
Có mặt chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng trong suốt 10 năm (1965-1975), ông
Xuân Giang (SN 1947 tại Xuân Quang, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa)
nguyên Chính trị viên Đại đội 4, Trung đoàn 228 cho biết: “Để đảm bảo mạch
máu giao thông thông suốt phục vụ cho chiến trường miền Nam, trong suốt
thời kỹ Mỹ ném bom đánh phá ác liệt, một số nhịp trên cầu Hàm Rồng đã bị
gãy, chỉ ô nhẹ qua được. Trước tình hình đó, ngoài việc tiếp tục bảo vệ
cầu, nhanh chóng khắc phục sự cố, nhiều phương án vận tải khác đã được đưa
ra, trong đó việc đỡ cho cầu Hàm Rồng bằng cầu luồng cầu tôn. Lực
lượng dân quân, nhân dân địa phương còn tận dụng tre, luồng từ miền núi
chuyển về để xây dựng các cây cầu tạm, ngày đêm vận chuyển hàng trăm
nghìn tấn lương thực, khí đạn dược… chưa một phút nào hàng hóa bị ngừng
chảy vào miền Nam. Có những đêm trăng sáng, đứng trên đồi cao thể nhìn
thấy cả một vùng trận địa hai bên bờ Bắc, Nam cầu Hàm Rồng như một đại
công trường…” – Ông Giang nhớ lại.
Trong câu chuyện kể của mình ông Giang cho biết: Cây cầu Hàm Rồng có ý
nghĩa hết sức đặc biệt, cây cầu vinh dcòn được mang tên ngày sinh của
Bác Hồ (cầu 19/5), tình cảm của quân dân Thanh Hóa hướng về Bác, về
Thủ đô thân yêu, là cây cầu huyết mạch hướng về Miền Nam ruột thịt tiến tới
ngày thống nhất đất nước. Hàm Rồng không chỉ trận đầu đánh thắng giặc
lái Mỹ mà còn gần 3.000 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, vượt
qua mọi hi sinh đbảo vệ con đường huyết mạch chi viện cho miền Nam, đây

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58097008
HÀ NAM – NINH BÌNH – THANH HÓA 1. Hà Nam
Kính Thưa cô chú anh chị hiện tại xe ta đã lăn bánh sang địa phận tỉnh Hà
Nam. Và mỗi khi tới đây là người ta lại có câu thở rằng là gì ạ: "Xưa Kia ba tỉnh
một nhà - trung quy hội tụ là Hà Nam Ninh - về sau dã biệt Ninh Bình - rời xa
Nam Định còn mình Hà Nam. Câu thơ để nói về một địa danh đã tồn tại trong
lịch sử được thành lập vào năm 1975 tiền thân của mảnh đất Hà Nam hiện nay.
Và chải qua suốt cái quá trình hợp hợp tan tan thì đến năm 1996 thì tỉnh hà Nam
đã có diện mạo như ngày nay với 6 đơn vị hành chính gồm TP. phủ Lý. Duy tiên,
Kim Bạc, Lý Nhân, Bình Lục và Thanh Niêm. Và cũng qua cái câu chuyện hợp
hợp tan tan đó cũng gợi cho chúng ta nhớ lại về những cái tên đã cùng tồn tại
trong quá trình lịch sử của đất nước như: Hà Sơn Bình, Nghệ Tĩnh, Cao Bắc
Lạng, Hà Tuyên Thái, Bình Trị Thiên... hay là cái sự kiện gần đây nhất là vào
năm 2008 trong kế hoạc mở rộng và phát triển Tp Hà Nội thì toàn bộ phần đất
của Hà Tây cùng với Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của Hoà Bình đã xác
nhập vào Hà Nội. Và cái câu chuyện hợp hợp tan tan này còn tiếp tục kéo dài đến
tháng 2 năm 2019 trong cái chương trình giao lưu văn hoá toàn quốc, được tổ
chức tại Làng Văn Hoá Văn Lang Phú thọ...
Khi nhắc đến Hà Nam chắc hẳn chúng ta sẽ không thể nào không nhắc tới: Tỉnh
có diện tích nhỏ thứ 2 của Việt Nam sau Bắc Ninh, mảnh đất chiêm trũng, hình
ảnh cây cầu tõm – Bình Lục Hà Nam, làng Vũ Đại ngày nào, hình ảnh Chí Phèo
– Thị Nở, cá kho Làng Vũ Đại, chuối Ngự Tiến Vua, Chùa Bà Đanh, Làng Trống
Đọi Tam, Chùa Long Đọi Sơn, hay gần đây một công trình quy mô tầm cỡ của Phật Giáo Chùa Tam Chúc.
Tại sao lại nói Vắng Tanh Như Chùa Bà Đanh: "Vắng tanh như chùa Bà Đanh"
là câu thành ngữ dân gian để chỉ sự vắng vẻ, đìu hiu. Đó là câu chúng ta vẫn dùng
thường ngày, nhưng nguyên nhân ra đời của nó chắc hẳn không phải bất cứ ai
cũng biết? Vậy tại sao lại có câu nói như vậy ạ: Chùa Bà Đanh này còn gọi "Bảo
Sơn Nữ", tọa lạc trên một vùng đất tại thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim
Bảng, Hà Nam. Để lý giải cho thành ngữ "Vắng tanh như chùa Bà Đanh", nhiều
nhà nghiên cứu đưa ra rất nhiều giả thuyết. Nổi tiếng nhất trong số đó là do chùa
bà Đanh rất linh thiêng. Tên chùa Bà Đanh dựa trên địa danh thôn Đanh xá nơi
chùa tọa lạc và sự vắng vẻ khó hiểu một chốn linh thiêng trang nghiêm bậc nhất
như thế có khi được dẫn giải do vị trí độc đạo và thế khuất vắng của chùa. Bên
cạnh đó người dân địa phương thường kể lại rằng, Bảo Sơn Tự rất linh thiêng,
người đi đường nếu dám cười cợt, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt lOMoAR cPSD| 58097008
nặng nề. Chính vì lẽ đó mà càng ngày càng ít người dám đến thờ cúng do sợ "vạ từ miệng mà ra".
Chùa Bà Đanh là nơi có núi, có sông nhưng lại vô cùng vắng vẻ vì xa khu dân cư
cho nên mới hiếm người qua lại. Trải qua thời gian, tuy nhà cửa có được xây
dựng nhiều hơn nhưng mà vì chùa vẫn nằm riêng lẻ ở một góc cho nên người dân
cũng không có thói quen ghé qua viếng chùa nhiều cho lắm. Chùa Bà Đanh chỉ
đông đúc hơn đôi chút vào ngày Rằm hay Mồng Một khi mọi người vào lễ, còn
ngày thường rất vắng người tới. Thực tế, còn rất nhiều giai thoại được dân gian
truyền miệng nhưng hầu hết đều bị thời gian làm phôi pha hết. Ngày nay, các sự
tích đều mang tính tham khảo, tương đối do có nhiều dị bản khác nhau, khó chính xác hoàn toàn.
Chùa Bà Đanh ngày nay vẫn đẹp lung linh trong vị thế thắng tích bậc nhất đất
Bắc trong hệ thống chùa Phật giáo. Mặt trước, nơi hướng ra sông Đáy, có ngôi
đền kín cửa rêu cũ kỳ bí không rõ bên trong thờ phượng vị Thần hay Thánh nào.
Và không xa nơi ấy, mấy bước chân, núi Ngọc tua tủa rễ cây nghìn năm bổ túc cho nét hay của cổ tự.
Dù chùa bà Đanh dẫu có vắng vẻ, có phần cô tịch nhưng chính điều đó lại làm
nên một vẻ đẹp mà những ngôi chùa khác hiếm có được, đó là sự thanh tịnh, yên
bình đem đến không khí thanh khiết trong lành cho quý Phật tử đến vãn cảnh.
Chùa Tam Chúc – ngôi chùa lớn nhất nhất thế giới ngày nay được xây dựng trên
nền ngôi chùa Tam Chúc cổ tự với niên đại hơn 1000 năm. Đây là ngôi chùa vô
cùng đặc biệt, với cảnh quan mặt hướng hồ lưng tựa núi (Tiền Lục Nhạc – Hậu
Thất Tình). Dù được rất nhiều thợ thủ công lành nghề của cả Phật giáo; Thiên
cúa giáo, Hồi giáo thi công những vẫn mang đậm dấu ấn của phong cách chùa cổ Việt Nam.
Chùa Tam Chúc hợp với chùa Bái Đính – Ninh Bình và chùa Hương tạo nên tam
giác “trục du lịch tâm linh” lớn nhất nước, thuận lợi về mặt địa lý giao thông đi
lại, tiềm năng trong phát triển du lịch. Một trục đường kết nối thằng 3 điểm sẽ
được xây dựng khi đó khoảng cách từ chùa Hương đến chùa Tam Chúc chỉ khoảng 20km. Sự tích chùa Tam Chúc:
Tương truyền rằng Chùa Tam Chúc gắn liền với truyền thuyết về “Tiền Lục nhạc
– hậu Thất Tinh”. Theo đó, trên dãy núi nằm ở hướng Tây Nam hướng về chùa
Hương có 99 ngọn núi. Trong đó có 7 ngọn núi gần với làng Tam Chúc nhất, lOMoAR cPSD| 58097008
được dân làng gọi là núi “Thất Tinh” và ngôi chùa ở đây được gọi là chùa “Thất
Tinh”. Trên 7 ngọn núi này đều xuất hiện một đốm sáng lớn tựa như 7 ngôi sao
tỏa sáng như ánh hào quang. Người người thấy ánh hào quang đó kéo đến núi
Thất Tinh đục đẽo, chất củi thành đống lớn và đốt nhiều ngày hòng lấy đi 7 ngôi
sao. Trong 7 ngôi sao có 4 ngôi sao bị đốt nhiều nên đã mờ dần, chỉ còn lại 3 ngôi
sao còn sót lại. Vì thế ngôi chùa “Thất Tinh” sau này được đổi tên thành chùa
“Ba Sao” ( Chùa Tam Chúc ngày nay).
Và xin kính mời cô chú anh chị có dịp sẽ ghé qua ngôi chùa để có thể tìm hiểu kĩ
hơn về ngôi chùa cũng như về phật giáo.
Còn bây giờ thì về với mảnh đất Hà Nam ta còn có thể có cơ hội thưởng thức các
món ăn đặc sản ở đây như: chuối ngự tiến vua làng Đại Hoàng, Cá Kho làng Vũ
Đại, Bánh Cuốn Phủ Lý, Bún cá rô đồng, chim to dần, mắm cáy Bình Lục…. 2. Ninh Bình
Bên tay phải HDV,tay trái của đoàn là căn biệt thự “song sinh” của đại gia
Thành Thắng của Ninh Bình xây cho 2 người con.
Ninh bimh là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam. Ninh Bình
thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng dù chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh
và Kim Sơn có địa hình bằng phẳng.
Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ.
Vùng đất Ninh Bình xưa là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010 với 3 triều
đại Đinh, Tiền Lê, Tiền Lý và cũng là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời
kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời
sở hữu 2 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh Bình
hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Năm 2015,
Ninh Bình là tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Hồng có 2 thành phố trực thuộc
tỉnh (Ninh Bình, Tam Điệp).
Đến với Ninh Bình thì chúng ta có thể nhắc tới rất nhiều các địa điểm du lịch
cũng như đặc sản nơi đây như cơm cháy, thịt rê... và các khu du lịch tâm linh sinh
thái như: danh thắng Tràng An, tam cốc bích động, Chùa bái Đính, đầm vân
Long... Đặc biệt là phải nhắc đến những di tích thăng trầm một thời tiền sử hào
hùng của dân tộc. Cố Đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến
Trung ương tập quyền ở Việt Nam[1] và là quê hương của vị Anh hùng dân tộc lOMoAR cPSD| 58097008
Đinh Bộ Lĩnh. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968 - 1010), gắn với sự nghiệp của
ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử:
thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà
Nội.[2] Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng
Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô. Các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau
đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở
đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ…[3] Kinh đô Hoa
Lư xưa, nay chỉ còn là Cố đô Hoa Lư với diện tích tự nhiên 13.87 km² nằm trọn
trong Quần thể Di sản Thế giới Tràng An thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình. Và mảnh
đất này thì gắn liền với rất nhiều những câu chuyện lịch sử mang đậm màu sắc
huyền thoại và những bí ẩn như về cuộc đời của vua Đinh Tiên Hoàng người con
của mảnh đất Ninh Bình: Về xuất thân của vua Đinh Tiên Hoàng cũng mang
nhiều bí ẩn và thần thoại: có nhiều giả thiết và nhiều câu chuyện khác nhau, có
truyền thuyết cho rằng thì vua là con của dái cá trong đầm, có nguồn tài liệu thì
cho rằng vua là con của Đinh Công Chứ một vị quan từ thời Dương Đình Nghệ
tức bố vợ của Ngô Quyền đã bị Kiều Công Tiễn giết hại. Nhưng theo Em cảm
thấy hợp lý nhất cũng như nhiều độc giả tán thành nhất vẫn là câu chuyện sau:
Trong cuốn truyện Ngọn cờ lau lịch sử, tác giả Nguyễn Như (viết năm 1920) kể
rằng, Công Trứ và Đàm Thị sánh duyên đã trên dưới chục năm mà chưa có con.
Là người học rộng tài cao, có tư chất nên Công Trứ được trọng dụng giao chức
Thứ Sử, cai quản vùng Châu Hoan.
Sau 6 năm nhậm chức, người vợ Đàm Thị ở quê nhà mới có điều kiện để vào
thăm chồng. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Nào ngờ tai họa lại giáng
xuống giữa đêm đó…,Một tướng tinh (Sao Băng) trên trời cao sa xuống dinh
quan Thứ Sử. Hào quang của ngôi sao mạnh và tỏa rộng, cùng với nắng nóng ban
ngày đã làm khô mọi vật, nên đã xảy ra hỏa hoạn, làm cho tất cả kho tàng, trại
lính và dinh thự của quan Thứ Sử đều bị thiêu rụi. Cũng từ lúc đó, Công Trứ bỗng
dưng bị ốm liệt giường, cấm khẩu. Đàm Thị cùng gia nhân và những người tâm
phúc lo lắng cho rằng: “Đằng nào thì Công Trứ cũng không sống được nữa, bởi
không chết vì triều đình trách tội thì cũng chết vì căn bệnh này” nên mọi người
liền đưa Công Trứ về quê. Về Đại Hữu được một thời gian thì Công Trứ khuất
núi, cũng là lúc Đàm Thị phát hiện mình đã có thai. Một thời gian sau quan quân
triều đình về, truy xét Công Trứ vì tội làm cháy nhà cửa, kho tàng và dinh thự ở
Hoan châu nên tuyên phạt “lưu đày biệt tích và tịch thu toàn bộ gia tư, điền thổ.
Nhưng Công Trứ không còn, quan triều đình lại hỏi đến con của Công Trứ và
phán rằng: “Sau này nếu sinh con trai, khi đứa con đó đủ mười tám tuổi sẽ phải lOMoAR cPSD| 58097008
chịu tội thay cha”. Vợ chồng Đinh Thúc Dự (là em ruột của Đinh Công Trứ) lo
lắng, bàn bạc quyết bảo vệ cháu, nên đã bịa ra câu chuyện rằng Đàm Thị đã bị
con rái cá thành tinh hiếp. Nếu có sinh ra con trai thì cũng là “tạp chủng” chứ
không phải là con của Công Trứ. Đó là cái cớ để Đàm Thị sang nương nhờ bên
ngoại là Đàm Gia Trang. Đủ chín tháng mười ngày, đêm rằm tháng ba năm 924,
Bộ Lĩnh đã cất tiếng khóc chào đời.
Sự thật về thân thế Đinh Tiên Hoàng:
Lọt lòng mẹ Bộ Lĩnh đã có tướng mạo phi phàm, mắt nhanh như chớp, sáng như
sao, mặt to tai lớn, hàm én mày ngài. Càng lớn Bộ Lĩnh càng giống Công Trứ,
nên nỗi lo trong lòng người chú ruột cũng tăng theo năm tháng. Một hôm Thúc
Dự bàn với Đàm Thị là đưa đàn trâu cùng Bộ Lĩnh qua sông Đại Hoàng (sông
Hoàng Long hiện nay), đến khu núi non thung lũng để chơi với trẻ chăn trâu bên
đó. Bề ngoài Thúc Dự tỏ ra ích kỷ, lạnh lùng, đầy đọa Bộ Lĩnh, mang tiếng đuổi
cháu vào rừng chăn trâu cắt cỏ, không được bén mảng về nhà, suốt ngày mò cá
mà ăn vì là “Con rái cá, giống tạp chủng”. Nhưng bên trong, Thúc Dự bí mật
rước một thầy dạy thật giỏi, cả văn lẫn võ tên là Lưu Phúc, cung cấp tiền của,
nhờ Thầy giữ kín không cho Bộ Lĩnh cùng mọi người xung quanh biết, quyết cho
Bộ Lĩnh học văn, luyện võ. Việc quan lưu tại án văn, nên vài năm sau, quan quân
triều đình lại rầm rập kéo về gặp Thúc Dự, vì có tin ngầm báo Bộ Lĩnh đã lớn, là
con ruột của Đinh Công Trứ. Hai vợ chồng Thúc Dự cùng nhau vẽ ra một câu
chuyện khiến quan quân triều đình tin rằng, Bộ Lĩnh đúng là con của một rái cá
như: “Nó đen trũi, lặn ngụp dưới sông Sào Khê, mò cá ăn sống, mắt nó bây giờ
đỏ lòm và lông lá mọc đầy người” hoặc “Khi nó 9-10 tuổi, đã rất giỏi bơi lặn".Ai
cần mua một con ba ba to bằng nào, chỉ cần lấy que vẽ khoanh xuống đất. Nó
nhìn một lượt rồi nhảy tùm xuống nước, chỉ một loáng là nó đã nắm cổ một con
ba ba đúng như hình vẽ. Nó như một con ma rái cá vậy” để có thể qua mặt được
quan quân triều đình. Lý giải trong cuốn truyện này cũng đồng nhất với nhiều tài
liệu sau này của các nhà nghiên cứu lịch sử. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh sinh trưởng
trong một gia đình quan chức, cha là Tiết độ sứ ở vùng Châu Hoan.Khi cha mất,
ông cùng với mẹ và toàn bộ gia nhân về quê sinh sống. Với lứa tuổi đang độ
trưởng thành, cộng với trí thông minh, tài năng bẩm sinh và ý chí mạnh mẽ của
chàng thanh niên con quan có học, Đinh Bộ Lĩnh dễ dàng chiếm được lòng mến
phục của lớp trai trẻ châu Đại Hoàng. Ông đã tập hợp quanh mình nhiều bạn bè
cùng trang lứa và còn thu phục được sự tin tưởng nể vì của các bậc bô lão trong
vùng,Và tuổi thơ của ông gắn liền với sống nước và lũ trẻ chăn trâu, do tịn tịn
nganh tàn mải chơi trận có lần ông thị trâu của chú ruột để khao quân nên đã bị lOMoAR cPSD| 58097008
chú ruột đuổi rút kiếm đòi giết Vua đã bỏ chạy đến sông Đại Hoàng thì ngã xuống
sông và đã có con rồng vàng bay lên cứu vua qua sông rồi vua đã phiêu bạc theo
sông nước về với vùng Thái Bình gia nhập nghĩa quân Trần Lãm, sau này Trần
Lãm mất đã giao toàn bộ binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh rồi ông về quê chiêu mộ
quân binh. Dần dần ông đã trở thành người cầm đầu của cả châu Đại Hoàng thời
ấy. Cùng với đội ngũ bạn bè thời niên thiếu như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh
Tú, Lưu Cơ, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt
sau 1.000 năm Bắc thuộc, đồng thời cho đúc tiền để khẳng định nền độc lập tự
chủ. Ngay cả cái chết của vua vẫn là bí ẩm của lịch sử.
Ngoài ra thì đến với Ninh Bình một nhân vật nổi tiếng nữa không thể không nhắc
tới với những câu chuyện truyền thuyết và bí ẩn và đã được phong thánh đó chính là:
Nguyễn Minh Không. Ông là một vị cao tăng đứng đầu tổ chức Phật giáo của
triều đại nhà Lý trong lịch sử, là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở
Việt Nam, được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng và cũng là ông tổ nghề Đông
y Việt Nam....câu chuyện liên quan tới Từ Đạo Hạnh, tới sự tích trâu vàng Hồ
Tây, tới chưa bệnh Cho vua.
Cầu Gián Khẩu là cây cầu nằm trên quốc lộ 1A xuyên Việt. Là cây cầu nằm ở
cửa sông Hoàng Long, nơi con sông này đổ vào sông Đáy. Cầu nằm giữa địa bàn
2 huyện Gia Viễn và Hoa Lư của tỉnh Ninh Bình. Và vì sao cây cầu này lại có tên
là cầu Gián Khẩu thì kính thưa cô chú, anh chị. Vào thời Nam Bắc Triều Lê Mạc.
Trong lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất có vua Mạc Mậu Hợp là dám làm chuyện
hôn quân, bạo chúa, cướp vợ bề tôi của mình để thỏa mãn dục vọng . Ông đã lập
kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh
lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê làm cho thế lực của Mạc
Mậu Hợp ngày càng suy yếu. Câu chuyện sảy ra vào cuối năm 1592, Chị gái của
Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong
cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn
Khuê để cướp vợ y”. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi
báo cho Bùi Văn Khuê. Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt
Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không
tới, bèn sai tướng dẫn quân tới hỏi tội. Văn Khuê đã trưng binh chống chả, và
cho ngừoi đến xin Trịnh Tùng và vua lê đầu hàng Nam chiều và xin quân cứu
viện. Cứ như vậy Liên tiếp hơn 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Tình hình nhà Mạc
ngày càng nguy cấp, khi đó trong triều chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc Liễn. lOMoAR cPSD| 58097008
Quân Nam triều chia hai đường thủy lục cùng đánh từ Hát Giang. Mạc Ngọc Liễn
dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp lũy trên bờ cố thủ.
Trận chiến diễn ra ác liệt. Tới ngày 14 tháng 12,1592 quân Mạc bị quân Nam
triều phá, Ngọc Liễn bỏ thuyền chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan vỡ. Sau Phan
Ngạn cũng về với Trịnh Tùng, Kế quận công Phan Ngạn và Mỹ quận công Bùi
Văn Khuê lại cùng là tướng của Trịnh Tùng, Trịnh Tráng. Sau đó Phan Ngạn lập
mưu giết chết Bùi Văn Khuê để cướp vợ Mỹ quận công. Bà Nguyễn Thị Niên
nén hờn căm, “vui vẻ” nhận lời Phan Ngạn đến dự tiệc rượu trên thuyền, chuốc
cho say Kế quận công rồi hô quân của bà bịt miệng tên hiếu sắc và thả xuống
sông. Trả được thù chồng rồi, bà bảo đưa thuyền ra giữa sông Hoàng Long, gieo
mình tự vẫn. Xác Bà Nguyễn Thị Niên trôi đến Vực Vọng, dân làng Chi Phong
chôn cất và xây đền thờ Bà. Hiện vẫn còn mộ và đền thờ Bà Chúa Vực Vông.
Theo nhiều tài liệu được lưu giữ ở giòng họ Thái bảo Thường quốc công Nguyễn
Quyện thì chiếc cầu được đặt tên là Gián Khẩu chính là để ca ngợi chiến công
của liệt nữ Nguyễn Thị Niên. Gián Khẩu có nghĩa là bịt miệng. Chữ Gián (chữ
môn, trong có chữ nhật) là làm cho cách ra. Ở Canh Hoạch, ngày giỗ cụ Nguyễn
Quyện là ngày giỗ của cả làng, của Hội Người Cao tuổi đứng ra tổ chức chứ
không chỉ là của họ Nguyễn. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Bặc toàn quốc
thì các cụ Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện... là hậu duệ Thái thủy tổ Nguyễn Bặc
thuộc dòng họ cụ Nguyễn Xí; đại thi hào Nguyễn Du là hậu duệ 8 đời của trạng
nguyên Nguyễn Thiến mà các đời trước đó đã vào Hà Tĩnh.
Các tên các danh thắng: Trành An - Tên Gọi
Tên gọi “Tràng An” xuất phát từ cách đây hơn một ngàn năm, sau khi vua Đinh
Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và đóng đô ở Hoa Lư.
Trong số các thành trì ở Hoa Lư, có một thành đóng vai trò quân sự quan trọng
đó là thành Nam. Với nhiệm vụ bảo vệ sự bình cho kinh đô, thành Nam đã được
đặt tên Tràng An – đọc chệch từ chữ Trường Yên có nghĩa là sự yên bình bền lâu cho đất nước.
Quả thực, tên gọi này đã phản ánh chính xác cuộc sống “trường yên” của người
dân Tràng An lúc bấy giờ. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân,
ông đã xây dựng lại trật tự kỉ cương và luật pháp, lại ngăn chặn quân phương bắc
xâm lược Đời sống của người dân đã trở nên yên ổn, ấm no. Người người tập
trung lao động sản xuất mà chẳng lo trộm cắp, cướp giật, giết người, thậm chí đi lOMoAR cPSD| 58097008
ra ngoài cũng không cần cài then cửa. Nhiều người đã ví von sự bình an, no ấm
ở kinh đô Hoa Lư cũng giống chẳng kém gì kinh thành Trường An ở phương bắc.
Ngày nay, tên gọi Tràng An không chỉ gói gọn trong phạm vi thành Tràng An cổ
mà đã được đặt tên cho khu du lịch sinh thái Tràng An và toàn bộ quần thể danh
thắng Tràng An bao gồm nhiều di tích lịch sử và thiên nhiên khác nhau. Nếu có
dịp tới thăm Tràng An, bạn sẽ không chỉ tới thăm cố đô Hoa Lư mà sẽ mất nhiều
ngày để khám phá hết toàn bộ các danh lam thắng cảnh trong đó.
Tam Cốc - Bích Động là quần thể hang động ở vùng đất xã Ninh Hải huyện Hoa
Lư tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Tam Cốc - Bích Động còn được biết đến với những cái tên nổi tiếng như "vịnh
Hạ Long trên cạn" hay "Nam thiên đệ nhị động" là một khu du lịch trọng điểm
quốc gia Việt Nam. Toàn khu vực bao gồm hệ thống các hang động núi đá vôi và
các di tích lịch sử liên quan đến hành cung Vũ Lâm của triều đại nhà Trần. Quần
thể danh thắng Tràng An - Tam Cốc được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp
hạng là di tích quốc gia đặc biệt và đã được tổ chức UNESCO xếp hạng di sản thế giới.
Tam Cốc: Tam Cốc. Còn dân địa phương ở đây gọi là Ba Hang, gồm: Hang Cả,
hang Hai, Hang Ba. Cả đi cả về đi hết 3 hang hết 2 tiếng".
Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường
Yên thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch sử
văn hóa thuộc Quần thể danh thắng Tràng An Tam Cốc - Bích Động đã được xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt và UNESCO công nhận là di sản thế giới. Chùa
Bích Động nguyên có tên "Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng"- nghĩa là ngôi chùa
bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc, năm 1774 chúa
Trịnh Sâm tới đây mới đổi tên là chùa Bích Động
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa lớn với nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam
được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa
có hành lang La Hán dài nhất châu Á,[2][3] có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất
Đông Nam Á... Đây là ngôi chùa lớn nhất và sở hữu nhiều kỷ lục nhất ở Việt
Nam. Các hạng mục xây dựng, mở rộng khu chùa mới được các đại biểu tham
dự đại lễ Phật đản thế giới 2008 làm lễ khánh thành giai đoạn 1, năm 2010 chùa
Bái Đính là nơi tổ chức Đại lễ cung nghinh xá lợi Phật đầu tiên từ Ấn Độ về Việt
Nam. Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc - Vesak 2014 do Việt Nam đăng cai đã diễn
ra tại chùa Bái Đính trong tháng 3 năm 2014. lOMoAR cPSD| 58097008
Đền Quán Cháo rêu phong, cổ kính, tọa lạc trên đỉnh dốc nằm sát Quốc lộ 1A
thuộc địa phận phường Tây Sơn, thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình, đền có tên
chữ là Chúc Sơn Tiên Từ (nghĩa là: Đền Tiên núi Cháo) thờ Mẫu Liễu Hạnh –
một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam. Truyền thuyết cho rằng nơi đây là
nơi Thánh Mẫu hiển linh giúp Vua Quang Trung đưa quân ra dẹp quân Thanh.
Địa danh này từ xa xưa đã đi vào lòng người và ngay cả những câu ca dao hay
câu thơ cũng rất được nhiều người chọn lựa làm đề tài viết. Ngôi đền này còn lưu
giữ nhiều bài vị, đồ tế lễ, thờ cúng rất độc đáo, đặc biệt là truyền thuyết về các
tiên nữ dâng cháo lên nghĩa quân Tây Sơn trước giờ xung trận.
Nói đến đền Quán Cháo, không thể bỏ qua chiến thắng Đống Đa của vua Quang
Trung. Trận đại phá quân Thanh như một hào quang sáng rực trong lịch sử nước
nhà. Di tích lịch sử đền Quán Cháo gắn liền với huyền thoại Thánh mẫu đã biến
thành cô gái bán hàng cháo, để dâng cháo cho quân lính Tây Sơn và cứu giúp
những người cơ nhỡ độ đường và ứng đối thơ phú với bao nhiêu tao nhân mặc
khách. Nhờ vậy nghĩa quân Tây Sơn thêm mưu trí, dũng mãnh chiến đấu, quét
sạch quân xâm lược. Chỉ trong 5 ngày xuất quân, 5 đạo quân Tây Sơn đã đánh
tan 29 vạn quân Mãn Thanh.
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp là gọi theo tên gọi phòng tuyến Tam Điệp của
nghĩa quân Tây Sơn, được xây dựng vào cuối năm Mậu Thân (1788) để chuẩn bị
lực lượng cho chiến dịch thần tốc, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh và bè
lũ bán nước Lê Chiêu Thống vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789).
Vào cuối năm Mậu Thân (1788), bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống rước 29 vạn
quân Thanh vào xâm lược nước ta. Trước sức mạnh ban đầu của giặc, Ngô Văn
Sở và Ngô Thì Nhậm cùng các tướng lĩnh Bắc Hà rút lui chiến lược về xây dựng
phòng tuyến Tam Điệp và Biện Sơn, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy
chỗ hiểm yếu. Phòng tuyến Tam Điệp là giới hạn rút quân cuối cùng của nghĩa
quân Tây Sơn, nhằm đề phòng, ngăn chặn cuộc tiến công của địch, bảo đảm bí
mật và an toàn cho hậu phương ở phía Nam. Khi Quang Trung tiến quân ra Bắc,
phòng tuyến Tam Điệp lại là nơi tập kết của nghĩa quân Tây Sơn (từ 20 - 12 năm
Mậu Thân tức 15 tháng 1 năm 1789 đến 30 – 12 năm Mậu Thân tức ngày 25 – 1 – 1789).
Phòng Tuyến Tam Điệp, gồm có 3 đỉnh đèo của Tam Điệp và một cụm đồn lũy,
Kẽm Đó, lũy ông Ninh, đồn Tam Điệp, chặn ngang đường Thiên lý từ Bắc vào Thanh Hóa. lOMoAR cPSD| 58097008
Đường Thiên lý ra Bắc vào Nam chạy trên 3 đỉnh đèo Tam Điệp, đỉnh cao nhất
khoảng 110m. Thế kỷ 16, lợi dụng địa thế hiểm trở của dãy núi của Tam Điệp,
chính quyền phong kiến Lê – Trịnh đã đắp một số thành luỹ ở cả hai mặt Bắc
Nam đèo Tam Điệp và lấy Tam Điệp làm ranh giới giữa Nam triều và Bắc triều.
Tại Kẽm Đó ở hai bên đường Thiên lý được đắp hai đoạn lũy nối liền với vách
núi thành một cửa ải kiên cố. Cách Kẽm Đó khoảng 400m về phía Bắc là “lũy
ông Ninh”, nối giữa 2 dãy núi gọi là núi Thành, ở giữa chiến lũy có một lối đi,
hai bên có kè đá như “cửa lũy”. Phía Tây chiến lũy có một con hào rộng khoảng
8m, phòng sự tấn công của đối phương từ đường thiên lý vào.
Cách chiến lũy này khoảng 100m là “đồn Tam Điệp”, rộng khoảng 1 mẫu bắc bộ,
kiểm soát con đường thiên lý ở phía Bắc cửa ải.
Khi rút lui chiến lược xây dựng phòng tuyến Tam Điệp vào cuối năm Mậu Thân
(1789), nghĩa quân Tây Sơn đã sử dụng những đồn lũy này cho nên có nhiều
truyền thuyết về Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn ở đây. Nhân dân địa phương
quan niệm “lũy ông Ninh” là cửa tiền và “lũy Quận Kế” là cửa hậu của nghĩa quân Tây Sơn.
Riêng đồn Tam Điệp được sử dụng từ đời Lê đến đời Tây Sơn đời Nguyễn và
thuộc chính quyền Nguyễn Quang Toản khi đã suy yếu, nhưng đã đóng đồn ở
Tam Điệp để chống lại chính quyền Nguyễn Ánh. Khi triều Nguyễn được thiết
lập cũng sử dụng đồn Tam Điệp để kiểm soát con đường thiên lý ra Bắc vào Nam.
Tại Kẽm Đó, hai con đường thiên lý còn vết, hai đoạn lũy ngắn nối liền với vách
núi đã bị phá hủy gần hết. Lũy ông Ninh còn khá rõ, dài 135m, chiều rộng 15m,
đường cái, đồn Tam Điệp còn hai dấu vết mờ nhạt ở bờ thành phía Đông.
Hiện nay trên đỉnh đèo Tam Điệp, đèo cao nhất (thuộc phần đất tỉnh Thanh Hóa)
còn một tấm bia ghi bài thơ “Qua Tam Điệp Sơn” (qua núi Tam Điệp) tạc năm
Thiệu Trị thứ 2 (1842), ghi lại một bài thơ của Thiệu Trị làm khi đi tuần du qua đây. 3. Thanh Hóa
Thanh Hóa, hay còn được gọi là xứ Thanh, là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam.
Thanh Hóa là một tỉnh lớn về cả diện tích và dân số, đứng thứ 5 về diện tích
và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc nhà nước.
Hiện nay Thanh Hóa có :tp. Thanh Hoa, TP. Sầm Sơn, tx. Bỉm Sơn, và 24
huyện, là một trong những tỉnh thành có đơn vị hành chính nhiều nhất cả nước. lOMoAR cPSD| 58097008
Thanh Hóa là tỉnh đầu của phần giữa nước ta, tức là cái lưng con rồng. Từ
xương sống Trường Sơn có những giẻ xương sườn chảy ra biển: Dãy núi đá
vôi Tam Điệp, đám núi Xước, Quỳnh Lưu, núi Hoàng Sơn, Hoành Sơn. Tỉnh
Thanh Hóa Bắc giáp Ninh Bình với dãy núi đá Tam Điệp, Tây giáp núi Pu
Luông đầu dãy Trường Sơn, Nam giáp Nghệ An với dãy núi Quỳnh Lưu, phía
Đông giáp biển Đông. Với đầy đủ các địa hình Thanh Hóa được gọi là Việt Nam thu nhỏ.
Khí hậu Thanh Hóa thuộc vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Nhiệt
độ trung bình 23-24oC. Nằm ở độ cao không lớn, lại nằm kế biển nên mùa
đông không lạnh lắm, mùa hè dịu mát hơn, giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy đều thuận lợi.
Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng rất lớn. Những thắng cảnh đặc sắc như bãi
biển Sầm Sơn, động Hồ Công, núi Hàm Rồng… Thanh Hóa có nhiều di tích
gắn với lịch sử của dân tộc như Lam Kinh, thành nhà Hồ. Đến thăm các di
tích này, du khách sẽ hiểu được một giai đoạn hào hùng đầy biến động của dân tộc.
Đây cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt cổ.
Cách đây khoảng 6.000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di chỉ
khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Và
sau đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn
ở Thanh Hóa đã phát triển rực rỡ. Thời Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh
Hóa thuộc quận Cửu Chân.
Ở thời kỳ tự chủ thì Thanh Hóa được đổi tên nhiều lần nhưng Thanh Hóa vẫn
là tỉnh có số lần sát nhập và chia tách ít nhất cả nước.
Ở thời Nhà Đinh và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái Châu. Ở thời Nhà Lý
thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi là Phủ Thanh
Hóa. Và vào thời nhà Trần thì huyện Nông Cống đã được thành lập. Năm
1403, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Thời Nhà
Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hoá.
Sau khi Nhà Nguyễn lên nắm quyền, vào năm Gia Long thứ nhất (1802), đổi
gọi là trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh,
bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm Thiệu Trị thứ ba
(1843), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa.[10] Tên gọi Thanh Hóa không đổi từ đó
cho tới ngày nay. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các cấp hành chính
là châu, phủ, quận được bãi bỏ. Tỉnh Thanh Hóa lúc này có 21 đơn vị hành
chính gồm thị xã Thanh Hóa và 20 huyện. lOMoAR cPSD| 58097008
Thanh Hóa có truyền thống văn hóa lâu đời được gọi là đất “địa linh nhân
kiệt” đã cung cấp cho đất nước biết bao danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc,
nơi phát tích của các triều Tiền Lê, Hậu Lê, nhà Hồ, chúa Trịnh, chúa Nguyễn
mà dấu ấn còn ghi lại ở các vùng quê với các đền đài, miếu mộ, lăng tẩm.
Hiếm có vùng đất nào lại sinh ra tới “ba dòng vua”, “hai dòng chúa” như ở
đất Thanh. mảnh đất anh hùng,nơi được coi là phát tích của các vua chúa
phong kiến Việt Nam “Vua Xứ Thanh – Thần Xanh Nghệ”… Thanh Hóa là
nơi có nhiều dân tộc ít người cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng.
Hò sông Mã là một là điệu dân ca đặc trưng nhất của đất Thanh.
Thanh Hóa cũng là nơi có truyền thống đấu tranh trong suốt chiều dài của lịch
sử dân tộc. Lịch sử còn ghi cuộc khởi của bà Triệu, khởi nghĩa Lam Sơn bằng
một chương sáng chói. Những người đi ở, chăn bò, nấu muối, bán dầu đã theo
Lê Thái Tổ khởi nghĩa đánh thắng quân Minh. Khi giặc Pháp tràn vào nước
ta, năm 1883, dân Thanh Hóa ngăn không cho đặt công sứ. Phạm Bành và
Đinh Công Tráng khởi nghĩa.
Đền Sòng Sơn hay đền Sòng trước kia được gọi là đền Sùng Trân, thuộc địa
giới làng Cổ Đam, xã Hà Dương, huyện Hà Trung, phủ Tống Sơn (nay thuộc
phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn).
Đền Sòng Sơn được xây dựng thời Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông (1740-
1786). Tương truyền, có một ông lão cầm chiếc gậy tre khô cắm xuống đất
làng Cổ Đam mà khấn rằng: “Nếu gậy tre này tươi tốt thì xây đền thờ Liễu Hạnh công chúa”.
Quả nhiên, gậy tre trở nên xanh tươi, bén rễ, đâm chồi tỏa lá tốt tươi lạ thường.
Người đời cho là điều lạ linh ứng, linh thiêng mới bảo nhau lập nên đền Sòng trên mảnh đất ấy.
Đền Sòng ban đầu khi mới xây dựng còn đơn sơ bé nhỏ. Trải qua quá trình
lịch sử lâu dài gắn với nhu cầu về sinh hoạt tín ngưỡng của người dân, ngôi
đền ngày càng được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn.
Trải qua thời gian, cùng với sự phong phú về huyền thoại Liễu Hạnh công
chúa, Đền Sòng trở thành nơi linh thiêng, nơi sinh hoạt tín ngưỡng không thể
thiếu của cư dân địa phương. Danh tiếng ngày một lan xa khiến đền Sòng
được mệnh là là ngôi đền "thiêng nhất xứ Thanh", được người dân cả nước biết đến.
Ngày 26/2 Âm lịch hàng năm được coi là ngày hiển linh, hiển thánh của Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, là ngày lễ chính diễn ra lễ hội đền Sòng.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được biết đến như là một trong “Tứ bất tử” của Việt lOMoAR cPSD| 58097008
Nam cùng với Thánh Tản Viên (Sơn Tinh), Phù Đồng Thiên Vương (Thánh
Gióng) và Chử Đồng Tử. Riêng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, một trong những
tín ngưỡng cổ xưa nhất của người Việt thì Mẫu Liễu Hạnh được xem là thần chủ.
Tuy có tới hơn 400 nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh, nhưng không phải nơi nào cũng
được xem là nơi Thánh Mẫu hiển thánh. Nhưng địa danh được tin là nơi Mẫu
Liễu Hạnh đã hiển thánh và bao gồm: Phủ Giầy, Phủ Tây Hồ và đền Sòng.
Trong đó đền Sòng ở Thanh Hóa được mệnh danh là “thiêng nhất xứ Thanh”.
Không hổ danh là đền thiêng nhất xứ Thanh, hàng ngày có rất nhiều người
dân đến đây như tìm về nơi tâm linh Việt. Nhiều người tâm niệm đến đền cũng
như trở về thăm Mẫu, viếng người mẹ linh thiêng, huyền bí của biết bao thế
hệ những người dân Việt. Đền Cô Chín Giếng
Đền Chín Giếng (hay còn gọi đền Cô Chín) nổi tiếng linh thiêng nhất nhì xứ
Thanh, trước thuộc địa phận phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Tên của ngôi đền bắt nguồn từ 9 miệng giếng thiêng quanh năm đùn
nước không bao giờ cạn dưới mặt dòng suối tự nhiên chảy qua đền Sòng và đền Chín Giếng.
Người dân ở đây truyền tụng 9 miệng giếng thiêng là nơi Cô Chín cai ngự, và
xung quanh 9 miệng giếng thiêng là những câu chuyện huyền bí, kỳ lạ đến khó tin. Chín miệng giếng thiêng
Cách đền Sòng 1km về phía đông, ngược dốc rồi rẽ phải chừng 200m là đến
chân đền Cô Chín. Con đường dẫn xuống suối trước là một thung lũng uốn
mình trong rặng tre già, giờ chỉ còn là một khe hẹp “bó mình” giữa hai quán
nước chật kín những dãy bàn ghế.
Phong cảnh suối thiêng hữu tình chẳng khác nào tranh vẽ. Xung quanh suối
là những miệng giếng trong xanh, sâu thăm thẳm đùn nước lên thành từng
nhịp. Chỉ tay xuống suối, anh Huấn - đang làm nhiệm vụ ghi công đức trong
đền - nói: “Trong số 9 giếng, miệng giếng thứ chín sâu nhất quanh năm đùn
nước là nơi Cô Chín đang ngự”.
Ông Hà Văn Châu - người trông coi đền lâu năm, đã chứng kiến nhiều sự đổi
thay xung quanh đền Chín Giếng - cho biết: “Đền Cô Chín được khởi công
cùng đền Sòng dưới thời Cảnh Hưng triều Vua Lê Hiển Tông (1740 1786) và
chính thức tu sửa vào năm 1939. Năm 1993 đền được công nhận là di tích lịch lOMoAR cPSD| 58097008
sử - văn hóa cấp quốc gia. Ngôi đền đã có lúc bị tàn phá hoàn toàn, ngay cả
những bức tượng cổ cũng bị hủy hoại, thất lạc”.
Ông Châu kể lại: 9 miệng giếng thiêng trước đền đã có từ lâu, xuất hiện trong
truyền thuyết Cô Chín - tức Cửu Thiên Huyền Nữ - con gái thứ 9 của Ngọc
hoàng Thượng đế. Cửu Thiên Huyền Nữ là một tiên cô giáng trần, trước cô
bán nước ở cổng đền Ba Dọi, từng theo hầu mẫu Sòng. Ban đầu những kẻ
người trần mắt thịt không tin, nghĩ cô là yêu quái nên quở trách, đánh đuổi và
tìm mọi cách diệt trừ. Vì tức giận nên cô đã về tâu với thiên đình cho thu giam
hồn phách rồi hành cho dở dại dở điên, không những vậy, cô “làm cho trăm
trứng hiểm nghèo/ khi lội dưới suối khi trèo lên cây Với phép thần thông
quảng đại lại có biệt tài xem bói nghìn quẻ, trong những năm chinh chiến loạn
lạc, cô đã phò vua giúp nước bằng cách tiên đoán trận mạc, nhờ đó trăm trận
trăm thắng. Với công lao to lớn, vua đã truyền dân lập đền thờ cô, trước đền
có 9 miệng giếng tự nhiên do cô cai quản. Thế nhưng đó cũng chỉ là lý giải theo tích xưa.
Phải đến mấy chục năm sau, người ta mới thực sự hóa giải được câu hỏi giếng
thiêng xuất hiện từ đâu? Ông Châu suy tư một hồi lâu rồi tiếp tục câu chuyện:
“Tôi không nhớ chính xác vào năm nào, chỉ nhớ đó là một năm hạn hán, khi
nước sinh hoạt khan hiếm, người dân quanh vùng đã đi tìm nguồn nước đào
giếng. Cứ 4-5 người chung nhau đào, họ tìm đến suối Sòng khoan giếng. Đào
liên tục 8 miệng giếng vẫn chưa tìm thấy một giọt nước nào. Kiên trì đặt mũi
khoan tới miệng giếng thứ chín, khoan sâu được 8-9m thì bất ngờ xuất hiện
một mạch nước lớn đùn lên ào ào. Cả làng được cứu sống nhờ mạch nước này
và cũng từ đây xuất hiện 9 miệng giếng thiêng. Sau đó, có những đoàn ở Hà
Nội về thăm dò, đo đạc, nhưng không có kết quả chính xác về độ sâu của
giếng. Càng xuống sâu nước càng lạnh. Trực quan địa hình cùng quá trình lặn
xuống lòng sâu, họ kết luận: Dưới giếng có một dòng sông ngầm, dự đoán
chảy từ dãy núi Tam Điệp (Ninh Bình) ra cửa biển Thần Phù (Nga Sơn). Ở
thời kỳ đầu khi người ta phát hiện khu giếng thiêng này, ở miệng giếng thứ 9
rộng, sâu như một hườm đá được đẽo gọt tỉ mỉ xuất hiện cá chuối, cá trắm
từng đàn, có con to như bắp đùi người lớn. Người dân đổ xô đi câu, đánh kích,
vây lưới bắt cá về bán. Trong số những người bắt cá bằng kích điện, có hai
trường hợp chẳng may bị điện giật chết. Chuyện đánh kích điện chết vì điện
giật thì không lạ, nhưng người dân nhân việc này tuyên truyền đó là cá thần
báo oán, từ đó việc đánh bắt cá ở đây bặt dừng. lOMoAR cPSD| 58097008
Vào mùa hè, khách hành hương sau khi lên đền Cô Chín đều xuống dòng suối
này tắm vì có nhiều đồn thổi tắm nước suối tiên sẽ trắng da, xanh tóc, khỏe
mạnh phi thường. Nhưng cũng đã có tới 2-3 vụ chết đuối ở đây, “Do nước
giếng không bao giờ cạn, đặc biệt miệng giếng thứ 9 sâu không đáy rất nguy
hiểm, những miệng giếng còn lại có cạn cũng lút đầu người lớn, nên ban quản
lý đền đã gác tạm tấm bêtông lên miệng giếng, đứng trên cao nhìn xuống ai
cũng tưởng giếng cạn, có đáy” - anh Huấn nói. Như vậy, việc có người chết
đuối cũng là điều được lý giải. Ở đây còn có câu chuyện, rằng vào mùa mưa,
nước suối dâng cao, sau khi khấn vái trên đền xong xuôi, các con nhang có
đem lộc thả xuống suối, trong đó có quả bưởi vàng và những xấp tiền xu 200
đồng đã được đánh dấu theo bản hội. Chẳng biết có phép nhiệm màu nào mà
chỉ mấy ngày sau, quả bưởi đó đã có mặt ở một giếng khác thuộc địa phận xã
Hà Thanh. Cũng trong tháng đó những đồng xu 200 được khắc chữ phía sau
đã được cư dân vùng biển Nga Sơn ở cách đó rất xa tìm thấy trong quá trình
đi biển. Những câu chuyện kỳ lạ đó vẫn còn truyền cho tới ngày nay mà chưa
có một lời lý giải xác đáng. Có lẽ dòng sông ngầm dưới giếng (như các nhà
khoa học đã phán đoán) là một sự lý giải có căn cứ? Vốn trông đền lâu năm,
ông Châu từng chứng kiến những cảnh dở khóc dở cười: “Có những ông vận
quần áo sang trọng, đến đền bệ vệ, oai nghiêm.
Thế nhưng vừa bước vào cửa điện đã van xin, khóc lóc rồi đập đầu vào chân
điện thờ”. Thời gian gần đây, do quá trình đô thị hóa, nhiều hộ dân ở đây đã
lấp đi một vài miệng giếng nhỏ ngay dưới chân đền để xây nhà, làm quán. Vì
thế đường đi xuống khu giếng thần trở nên hẹp dần, trong khi lượng khách
hành hương đổ về đây ngày một đông. Ông Châu khẳng định, Ban quản lý
đền sẽ tiếp tục đầu tư, quy hoạch trong thời gian tới, như xây dựng bãi đỗ xe,
mở rộng đường dẫn xuống suối thiêng... để đền Chín Giếng không chỉ là nơi
linh thiêng mà còn là điểm du lịch hấp dẫn khách thập phương. Sông Lèn cầu Đò Lèn
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu Đò Lèn (Hà Trung) có vị trí chiến
lược hết sức quan trọng trên tuyến đường giao thông huyết mạch Bắc Nam.
Chính vì vậy, khu vực Đò Lèn với diện tích chưa đầy 3 km2 là mục tiêu trọng
điểm bắn phá của đế quốc Mỹ khi xâm phạm bầu trời Thanh Hóa. Sau thất bại
của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã tiến hành “Chiến tranh cục bộ”
đưa quân ồ ạt vào miền Nam và phát động “Chiến tranh phá hoại” miền Bắc
bằng không quân. Xác định Đò Lèn là mục tiêu trọng điểm bắn phá của đế
quốc Mỹ, Huyện ủy Hà Trung đã chỉ đạo quân, dân trong huyện chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để chiến đấu và chiến thắng. Tất cả xóm làng, bệnh lOMoAR cPSD| 58097008
viện, cơ quan, trường học chủ động chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần để
chống lại cuộc “chiến tranh phá hoại” của đế quốc Mỹ. Nhân dân sơ tán ra
khỏi khu vực trọng điểm đánh phá, đào hầm hào để trú ẩn. Các em học sinh
đến trường bắt buộc phải có mũ rơm đội đầu và một lá chắn bằng nùn rơm
trên lưng. Dân quân tự vệ ngày đêm luyện tập chiến thuật bắn máy bay Mỹ
bằng các loại vũ khí được trang bị. Các tổ chức cứu thương, tiếp đạn, chữa
cháy được thành lập và huấn luyện. Phương án tác chiến giữa dân quân tự vệ
và bộ đội chủ lực pháo phòng không diễn tập phối hợp chặt chẽ. Nhân dân Hà
Trung, tiêu biểu là nhân dân các xã Hà Phong, Hà Ngọc, Hà Ninh, Hà Lâm
giúp các đơn vị bộ đội hàng nghìn ngày công đào đắp trận địa. Lực lượng
phòng không 3 thứ quân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 3 và 4-4-1965, giặc Mỹ tập trung máy bay đánh phá khu vực Đò Lèn,
sau đó là Hàm Rồng hòng cắt đứt con đường tiếp tế và phân tán lực lượng của
quân và dân ta. Sáng ngày 3-4-1965, từng tốp máy bay Mỹ từ phía biển xuất
hiện, gầm rú như xé nát bầu trời, trong chốc nhát bổ nhào ném bom đánh phá
dữ dội khu vực cầu Đò Lèn. Nhằm bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm,
tại trận địa, quân và dân các xã Hà Phong, Hà Lâm, Hà Ngọc (Hà Trung), Đại
Lộc, Đồng Lộc (Hậu Lộc) và tự vệ ga Đò Lèn đã phối hợp với bộ đội pháo
cao xạ nhanh chóng hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm với máy bay Mỹ.
Cả khu vực Đò Lèn và trận địa dân quân tự vệ ngập chìm trong khói lửa đạn
bom, nhiều đoạn công sự bị phá vỡ, một số chiến sĩ hy sinh và bị thương ngay
trên mâm pháo. Dân quân tự vệ các xã Hà Ngọc, Hà Phong, Hà Lâm, tự vệ cơ
quan bách hóa, thực phẩm, cơ khí đã lao ra trận địa tiếp đạn, cứu chữa thương
binh, thay thế pháo thủ chiến đấu. Trong trận này một máy bay Mỹ đã bị bắn rơi.
Không đầy nửa giờ đồng hồ sau đó, hàng chục máy bay Mỹ lại gầm rít trên
bầu trời Đò Lèn, trút hàng loạt bom đánh phá nơi đây. Một lần nữa mặt đất,
bầu trời khu vực Đò Lèn lại rung chuyển, khói bom, lửa đạn mù mịt... Lần
này, máy bay địch không chỉ vấp phải sức mạnh bão lửa của pháo phòng không
tầm cao, súng bộ binh tầm thấp bủa vây mà còn gặp phải sự phản kích của
không quân Việt Nam nên một máy bay nữa của địch bị bắn cháy... Khoảng
10 giờ sáng ngày 3-4, Mỹ phải chấm dứt tấn công khu vực Đò Lèn. Từ kinh
nghiệm chiến đấu trận đầu, quân và dân Hà Trung đã tiếp tục chiến đấu quả
cảm trong trận oanh tạc lần thứ 2 của không quân Mỹ vào ngày 4-41965. Lúc
bấy giờ, Mỹ điên cuồng huy động nhiều máy bay hiện đại nhất, chia thành
từng tốp, từng đợt trút hàng trăm, hàng nghìn tấn bom xuống Hàm Rồng, Đò lOMoAR cPSD| 58097008
Lèn và các vùng phụ cận. Tại khu vực Đò Lèn, bầu trời ầm ầm rung chuyển
nhưng trên các trận địa pháo vẫn nghe rõ khẩu lệnh “bắn” vang lên đanh thép
của người chỉ huy, các pháo thủ trên mâm pháo vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu
bám chặt mục tiêu, trút lửa đạn vào kẻ thù để huyết mạch giao thông cầu Đò
Lèn được giữ vững, thông suốt.
Trong 2 ngày chiến đấu dũng cảm, quân và dân Hà Trung không những chia
lửa với quân và dân Hàm Rồng, quân và dân Phà Ghép mà còn bắn rơi 5 máy
bay, bắt sống một giặc lái Mỹ. Trong cuộc chiến này đã xuất hiện nhiều tấm
gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, mưu trí như đồng chí Hoàng
Thị Vường, người đảng viên trẻ tuổi đã bình tĩnh nổ phát súng đầu tiên mở
màn cho phong trào thi đua diệt máy bay Mỹ bằng súng trường bộ binh. Khi
trận đánh diễn ra ác liệt, đồng chí Vường đã vượt qua mưa bom, bão đạn, tới
từng ụ súng, động viên đồng đội và băng bó cho thương binh. Hay như đồng
chí Phạm Hồng Sỹ, xã đội trưởng xã Hà Ngọc chưa tròn 22 tuổi đã vững vàng
chỉ huy các trận địa của dân quân tự vệ và chiến đấu ngoan cường; đồng chí
Điệp, đảng ủy viên xã Hà Ngọc đã chèo thuyền vượt sông tiếp đạn giữa lúc
máy bay địch lồng lộn bắn phá; đồng chí Huấn làm nhiệm vụ thông tin đã lao
mình trong khói lửa để giữ vững liên lạc, khi đường dây điện thoại bị đứt...
Ngoài ra, còn rất nhiều tấm gương tham gia phục vụ chiến đấu của các mẹ,
các chị, các em thiếu nhi đã bất chấp hiểm nguy vượt qua mưa bom bão đạn
tiếp tế cơm, nước, thăm hỏi động viên, tham gia băng bó, chăm sóc thương
binh... Tất cả cùng góp sức làm nên chiến thắng Đò Lèn vang dội.
Chiến tranh đã lùi vào quá khứ hơn nửa thế kỷ, nhưng âm hưởng Đò Lèn chiến
thắng vẫn còn vang vọng đến hôm nay. Chiến công này mãi mãi là khúc tráng
ca bất hủ, là mốc son lịch sử hào hùng, chói ngời về cuộc chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trên con đường đổi mới, với sức vươn của một
vùng đất kiên cường, anh dũng trong chiến tranh, Đò Lèn ngày càng sầm uất,
giàu đẹp, xứng đáng với những chiến công oanh liệt, hào hùng trong lịch sử. Đền Bà Triệu
là nơi thờ tự vị nữ anh hùng dân tộc Việt tên là Triệu Thị Trinh, người đã có
công đánh đuổi quân xâm lược Đông Ngô (Trung Quốc) vào giữa thế kỷ thứ
3. Đền nằm trên núi Gai, ngay sát Quốc lộ 1A, đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã
Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 18
km về phía Bắc và cách Hà Nội 137 km về phía Nam. lOMoAR cPSD| 58097008
Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền đã xác nhập đất nước
ta về Đông Ngô. Đúng năm đó Triệu Thị Trinh được sinh ra đời, Thuở nhỏ
cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[4] ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi
gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt,[5] bà giết chị dâu rồi vào ở
trong núi Nưa (thuộv Như Thanh, Nông Cống ngày nay) chiêu mộ tráng sĩ.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm
quận lỵ Tư Phố[6] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn
của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn.
Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng
đồng bằng con sông này. Sau này Triệu Quốc Đạt mất bà đã đứng lên đứng
đầu nghĩa quân, và đã đánh nhiều trận cho quân Đông Ngô khiếp sợ.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,[9] vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng
Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy,
đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận
liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và
chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về
lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn
cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông
Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã
Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23
tuổi.Có giai thoại nói rằng tướng giặc lợi dụng việc phận nữ nhi đã truất bỏ y
phục trên người khiến Bà Triệu từ đó xấu hổ mà dẫn đến tự tử. Nước Việt lại
bị nhà Đông Ngô đô hộ Cầu Hàm Rồng.
Cầu Hàm Rồng là cầu đường bộ, đường sắt bắc qua sông Mã, cách thành phố
Thanh Hoá 4 km về phía bắc. Cầu Hàm Rồng cũ do Pháp xây dựng năm 1904
là cầu vòm thép không có trụ ở giữa và chúng đã coi đây là kỳ quan thế giới
lúc bấy giờ. Cầu này bị Việt Minh phá hủy năm 1946 trong chiến dịch tiêu thổ
kháng chiến. Năm 1962 cầu Hàm Rồng mới được khởi công xây dựng. Khánh
thành ngày 19 tháng 5 năm 1964, cầu gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường lOMoAR cPSD| 58097008
sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Từ tháng 12/2000,
sau khi cầu Hoàng Long khánh thành, cầu Hàm Rồng chỉ dành cho đường sắt.
Cầu Hàm Rồng có vị trí giao thông rất quan trọng là cầu đường sắt duy nhất
đi qua sông Mã. Đây là cây cầu rất nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam là
trọng điểm của cuộc đấu tranh đánh phá và bảo vệ giao thông. Không lực Hoa
Kỳ liên tục đánh phá với cường độ rất cao và với các chiến thuật khác
nhau.Cầu Hàm Rồng có vị trí giao thông rất quan trọng không chỉ với nhân
dân tỉnh Thanh Hóa mà còn có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả nước.
Những năm 1960, khi đất nước còn chia cắt thành hai miền Nam – Bắc, khi
miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành hậu phương vững chắc
cho miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Đảng, Nhà nước đã khởi công
xây dựng lại cầu Hàm Rồng. Đây là cầu đường sắt, đường bộ duy nhất đi qua
sông Mã nối liền mạch giao thông từ miền Bắc vào miền Trung. Từ đây vũ
khí, đạn dược…được vận chuyển cho các chiến trường Miền Nam. Hàng trăm
nghìn tấn vũ khí, lương thực, thuốc men đã được vận chuyển qua cây cầu này
để chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong giai đoạn chiến tranh phá hoại
miền Bắc của Mỹ từ 1964-1973, Trung ương Đảng, Quân khu 3 và Tỉnh ủy
Thanh Hóa xác định: "Trọng điểm địch đánh phá quân khu vào lúc này là
Thanh Hóa. Trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng. Bảo vệ được cầu Hàm
Rồng là góp phần bảo vệ giao thông thông suốt . Các đơn vị bảo vệ cầu đã
chiến đấu hàng trăm trận, bắn rơi hơn 100 máy bay các loại. Không quân Việt
Nam tại đây bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Trung đoàn pháo phòng không 228 bảo
vệ cầu Hàm Rồng đã bắn rơi 90 máy bay, được phong danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang Nhân dân và được mang tên Đoàn Hàm Rồng. Vị thế của
cầu rất đặc biệt làm cho cầu rất khó bị bom đánh trúng: tại hai đầu Bắc và
Nam của cầu có hai hòn núi (núi Rồng và núi Ngọc) đã chắn hết các bom định
ném xuống cầu và là nơi các lực lượng phòng không bảo vệ cầu bắn đón đầu
các máy bay oanh tạc phải bay theo một hướng bắt buộc. Do vậy nên trong
cuộc chiến tranh không quân lần thứ nhất của Mỹ chống miền Bắc Việt Nam
từ năm 1964-1968 tuy bị đánh phá rất ác liệt nhưng Không quân Mỹ không
thể ném bom trúng cầu. Chỉ đến năm 1972 ngay đợt đầu của chiến tranh không
quân lần hai (bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1972) Hoa Kỳ áp dụng bom
thông minh (bom điều khiển bằng laser) đã đánh trúng cây cầu này và đã làm
tê liệt hoàn toàn cầu Hàm Rồng. Năm 1973 cầu được khôi phục lại, trụ giữa
vẫn dùng lại làm móng cột ống, tháo dỡ dầm thép cũ, thay bằng 2 nhịp 80 m đơn giản. lOMoAR cPSD| 58097008
Giới quân sự Mỹ đã từng xác định có 60 điểm tắc trên hệ thống giao thông ở
bắc Việt Nam và điểm tắc điển hình chính là những cây cầu. Với vị trí trọng
yếu, nằm trên vĩ tuyến 20, có hai bờ cao, nơi dòng sông sâu chảy xiết, là điểm
tắc lý tưởng, cầu Hàm Rồng được Mỹ coi là “điểm nút số một” để cô lập con
đường chi viện từ Bắc vào Nam.
Chính vì vậy Không lực Hoa Kỳ liên tục đánh phá cầu với cường độ rất cao
và với các chiến thuật khác nhau. Với quyết tâm cắt đứt mạch máu giao thông
quan trọng này của ta, bộ quốc phòng Mỹ đã trực tiếp chỉ đạo phương án đánh
phá Hàm Rồng. Chúng đã huy động 121 lần tốp với 2.924 lần chiếc máy bay
đánh phá 1.096 trận, ném 71.600 tấn bom phá với 11.526 quả, 99 bom nổ
chậm, bắn 600 tên lửa, 2.840 quả rốckét, 2.178 quả đạn pháo kích, hàng trăm
bom bi và thủy lôi. Tính bình quân mỗi người dân ở đây phải chịu đựng 5 tấn bom đạn của địch…
Và sống và chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng đã có nhiều sự hi sinh mất mát
đau thương và những cái tên anh hùng đã đi vào lịch sử như những ký ức không thể nào xoá nhoà:
Có mặt chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng trong suốt 10 năm (1965-1975), ông
Lê Xuân Giang (SN 1947 tại xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa)
nguyên Chính trị viên Đại đội 4, Trung đoàn 228 cho biết: “Để đảm bảo mạch
máu giao thông thông suốt phục vụ cho chiến trường miền Nam, trong suốt
thời kỹ Mỹ ném bom đánh phá ác liệt, một số nhịp trên cầu Hàm Rồng đã bị
gãy, chỉ ô tô nhẹ là qua được. Trước tình hình đó, ngoài việc tiếp tục bảo vệ
cầu, nhanh chóng khắc phục sự cố, nhiều phương án vận tải khác đã được đưa
ra, trong đó có việc đỡ cho cầu Hàm Rồng bằng cầu luồng và cầu tôn. Lực
lượng dân quân, nhân dân địa phương còn tận dụng tre, luồng từ miền núi
chuyển về để xây dựng các cây cầu tạm, ngày đêm vận chuyển hàng trăm
nghìn tấn lương thực, vũ khí đạn dược… chưa một phút nào hàng hóa bị ngừng
chảy vào miền Nam. Có những đêm trăng sáng, đứng trên đồi cao có thể nhìn
thấy cả một vùng trận địa hai bên bờ Bắc, Nam cầu Hàm Rồng như một đại
công trường…” – Ông Giang nhớ lại.
Trong câu chuyện kể của mình ông Giang cho biết: Cây cầu Hàm Rồng có ý
nghĩa hết sức đặc biệt, là cây cầu vinh dự còn được mang tên ngày sinh của
Bác Hồ (cầu 19/5), là tình cảm của quân dân Thanh Hóa hướng về Bác, về
Thủ đô thân yêu, là cây cầu huyết mạch hướng về Miền Nam ruột thịt tiến tới
ngày thống nhất đất nước. Ở Hàm Rồng không chỉ có trận đầu đánh thắng giặc
lái Mỹ mà còn có gần 3.000 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, vượt
qua mọi hi sinh để bảo vệ con đường huyết mạch chi viện cho miền Nam, đây