/11
lOMoARcPSD| 61601779
CHUYÊN ĐỀ: TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu hỏi
1: Anh/Chị hãy trình bày tình cảm cấp cao của con người cho biết cách giáo
dục các loại tình cảm ấy?
Trả lời
Tình cảm hay sự yêu thích là một “trạng thái hoặc trạng thái của tinh thần hoặc thể
xác” thường được kết hợp với một cảm giác hoặc kiểu tình yêu. đã làm phát sinh
một số nhánh của triết học và tâm lý học liên quan đến cảm xúc, bệnh tật, ảnh hưởng và
trạng thái.
“Tình cảm” được sử dụng phổ biến đbiểu thị một cảm giác hoặc một loại tình
yêu, không chỉ là thiện chí hoặc tình bạn. Các nhà văn viết về đạo đức thường sử dụng
từ này để chỉ các trạng thái cảm giác riêng biệt, cả kéo dài và co thắt. Một số người đối
lập nó với niềm đam mê như được thoát khỏi yếu tố gợi cảm đặc biệt.
Ngay cả một sự thể hiện tình cảm rất đơn giản cũng có thể có nhiều phản ứng cảm xúc
khác nhau, từ bối rối đến ghê tởm, thích thú khó chịu. cũng tác động vật
khác nhau đối với người cho và người nhận.
Dựa trên sthỏa mãn hay không thỏa mãn của hai loại nhu cầu nhu cầu sinh học
nhu cầu hội, chúng ta thể chia tình cảm thành 2 loại: Tình cảm cấp thấp Tình
cảm cấp cao.
Tình cảm cấp cao nảy sinh do sự thỏa mãn hay không thỏa n các nhu cầu
hội. Tình cảm cấp cao phản ánh thái độ của con người với những mặt biểu hiện khác
nhau của đời sống xã hội.
Tình cảm cao cấp bao gồm:
Tình cảm đạo đức tình cảm liên quan đến sthỏa mãn hay không thỏa mãn
những nhu cầu đạo đức của con người. biểu thị thái độ của con người với các yêu
cầu đạo đức trong xã hội, trong quan hệ giữa con người với con người, với cộng đồng,
với hội như tình bạn, tình đồng chí, tình yêu tổ quốc, v.v. Khi con người không
tình cảm đạo đức tích cực thì sẽ nảy sinh tính tàn ác, tàn phá hội. Tình cảm trí tuệ
lOMoARcPSD| 61601779
Tình cảm trí tuệ thái đrung cảm của con người đối với việc nhận thức các hiện
tượng của tự nhiên đời sống hội. Một con người tình cảm ttuệ thường thể
hiện sự ham hiểu biết, óc hoài nghi khoa học và nhạy cảm với cái mới. Khi con người
tình cảm trí tuệ thì sẽ mong muốn nhận thức thế giới đồng thời mong muốn cải
tạo thế giới, khẳng định năng lực của bản thân.
Tình cảm thẩm mỹ là loại tình cảm thường biểu hiện khi người ta rung cảm trong
việc tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa
mãn đến nhu cầu vcái đẹp. Đánh giá tình cảm thẩm mỹ bằng các thị hiếu thẩm mỹ,
trạng thái khoái cảm nghệ thuật. Tình cảm thẩm được quy định bởi hội phán
ánh trình đphát triển của hội. Mức độ cao của tình cảm thẩm mỹ con người không
chỉ rung cảm với cái đẹp của hình thức cả cái đẹp trong nội dung đời sống tác
phẩm nghệ thuật. Như vậy, cái đẹp là cái mà cuộc sống biểu hiện hay cái làm ta nhớ lại
về cuộc sống.
Tình cảm hoạt động những loại tình cảm được sinh ra tchính bản thân hoạt
động của con người, những thay đổi của hoạt động, những thành công hay thất bại,
những khó khăn v.v... Con người tình cảm hoạt động thường thể hiện tình yêu lao
động, tôn trọng người lao động và các giá trị mà người lao động tạo ra. Mức độ cao của
tình cảm hoạt động đó là sự say mê làm việc, sáng tạo và cống hiến.
Việc phân chia các loại tình cảm trên đây chỉ tương đối, không sự tách biệt
hoàn toàn giữa các loại tình cảm này chúng luôn sự đan xen lẫn nhau, tác động
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau cần thiết phải giáo dục tổng hợp các loại tình cảm trên.
Từ việc hiểu được nội dung, ý nghĩa của các loại tình cảm, chúng ta cần phải xây dựng
những hoạt động phù hợp với loại tình cảm để tác động giáo dục hiệu quả nhất đến con
người, đặc biệt là hình thành được những xúc cảm, tình cảm tích cực.
* Cách giáo dục tình cảm cấp cao của con người:
Giáo dục quá trình tổ chức ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi
nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngời dạy và người học theo hướng tích cực.
nghĩa góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động ý thức từ
lOMoARcPSD| 61601779
bên ngoài, góp phần đáp ứng các yêu cầu tồn tại phát triển của con người trong
hội đương đại.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội
(bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác) đến con người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục thể xem như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức,
hành vi con người (giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi).
Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân
cách của cá nhân:
- Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp học,
trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể
- Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn
phương pháp, phương tiện hình thức giáo dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp
với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.
- Tổ chức các hoạt động, giao lưu
- Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức gíao dục...
Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của hội
hiện tại còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn đi trước, đón
đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dbáo về gia tốc phát triển của hội,
thiết kế nên hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị
tương ứng.
Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá
trình phát triển nhân cách:
Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường hoạt động các nhân đều có ảnh
hưởng đến sphát triển nhân cách các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố giáo dục
lại có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển
nhân cách.
Đối với di truyền
lOMoARcPSD| 61601779
- Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người trong
chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn, trẻ được di truyền cấu tạo cột sống, bàn
tay thanh quản ... nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó thể đi thẳng đứng
bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ.
- Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan vận động cơ thể.
- Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát huy năng
khiếu thành năng lực cụ thể.
- Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những khó
khăn của người khuyết tật trong sphát triển nhân cách (phục hồi chức năng hoặc hướng
dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn góp phần tăng cường nhận thức
trong hội về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn
xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình.
Đối với môi trường
- Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức
bảo vệ môi trường của con người, khắc phục được smất cân bằng sinh thái, làm cho
môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.
- Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế
hội, chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa của giáo dục.
- Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà
trường và các nhóm bạn bè, khu phố..., để các môi trường nhỏ tạo nên những tác động
lành mạnh. tích cực đến sự phát triển nhân cách con người. Hiện nay công tác giáo dục
xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh
phúc; nhà trường một môi trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân
khu vực văn hóa của một xã hội văn minh tiến bộ.
Đối với hoạt động cá nhân
- Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát
huy những phẩm chất năng lực nhân (sân chơi ở các nhà văn a cho mọi lứa tuổi,
các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương,.); xây dựng những động cơ
lOMoARcPSD| 61601779
đúng đắn của nhân khi tham gia hoạt động, giao tiếp đồng thời hướng dẫn nhân
lựa chọn các hoạt động và giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công
tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hgiao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn
với nhau đồng thời tổ chức định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ
đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách.
- Giáo dục tạo tiền đề cho tgiáo dục của nhân. Tự giáo dục thể hiện tính chủthể
của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của
giáo dục thành phẩm chất năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo
dục thì các phẩm chất năng lực của họ sẽ hình thành mức độ thấp hoặc thậm chí
không thể hình thành. Tnh độ, khả năng tự giáo dục của nhân phần lớn bắt nguồn
từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn đầy đủ sẽ giúp con người hình
thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát
triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ những người biết tự giáo dục mới những người
thực sự có giáo dục.”
Giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc hành thành và phát triển nhân cách con
người. Giáo dục tính tiên tiến thể đi trước vạch đường cho nhân cách do vậy
nếu được giáo dục một cách tốt nhất ngay từ trong nhà trường sẽ giúp cho thế hệ trẻ có
những định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, có nhận thức và thái độ hành vi hợp lý,..
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật bẩm sinh hoặc bệnh tật đem
lại cho con người như trường hợp của thầy Nguyễn Ngọc Ký tuy không còn đôi tay
nhưng vẫn trở thành giáo viên, hay như nghệ sỹ ghi ta tài năng Văn Vượng bị mù từ bé
nhưng nhờ có phương pháp giáo dục đúng đắn mà trở thành tài năng ấm nhạc... Đây là
cơ sở để tổ chức các trường dạy trẻ em khuyết tật, trẻ em thiệt thòi ... Ngoài ra giáo dục
còn giúp các e có tư chất tốt phát triển: như các trường năng khiếu, trường đào tạo chất
lượng cao.
Môi trường hội ngoài những ảnh hưởng tích cực, còn gây ra những tiêu cực.
Giáo dục khả năng giúp học sinh phòng ngừa, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực,
động viên được tính tự giác rèn luyện học tập của học sinh.
lOMoARcPSD| 61601779
Giáo dục nhân cách không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công việc cụ
thể, mọi hành vi thái đọ, lối sống của người lớn tác động trực tiếp đến hình thành
nhân cách trẻ nhỏ, từ đó ảnh hưởng tới tương lai. Do đó, ngoài giáo dục trong nhà trường,
giáo dục trong gia đình là rất cần thiết.
Muốn xây dựng tình cảm cấp cao của con người một cách thuần nhất, quý giá đối
với xã hội thì cần phát triển con người một cách toàn diện, cần thường xuyên quan tâm
xây dựng cái cốt lõi có ý nghĩa xã hội của tính cách. Mặt khác, khi giáo dục thế htrẻ
cần phải tạo điều kiện đtrẻ bộc lộ tính cách của mình một cách đầy đủ, nét nhất.
Đồng thời, cần hình dung thật rõ hình ảnh lý tưởng vmặt tâm lý đạo đức của tính cách
con người Việt Nam trong thời đại mới cần phải dựa vào đó xây dựng chương
trình giáo dục. Người lớn, trước hết bmẹ, thầy giáo cần phải tấm gương cho
thế hệ trẻ trong lời nói cũng như trong việc làm, trong thái độ cũng như hành vi. Bởi vì,
không có gì thuyết phục trẻ em bằng chính sự gương mẫu của người lớn.
Câu 2: Từ các khía cạnh biểu hiện của phẩm chất ý chí, Anh/Chị hãy cho biết sinh
viên hiện nay có những ưu điểm và hạn chế nào về ý chí?
Trả lời
Ý chí của con người được thể hiện trong một hành động nhất định. Hành động này
phải mang tính mục đích và kết quả của hành động có ý nghĩa với cả cá nhân và xã hội.
Do đó, ý chí mặt năng động của ý thức, giúp con người điều khiển điều chỉnh
những hoạt động của nhân, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại nhằm đạt được mục
đích đề ra.
- Ý chí được coi mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong
thực tiễn, ở đó con người tự giác thực hiện mục đích của hành động, đấu tranh động cơ,
lựa chọn các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thực hiện đến cùng mục đích
đặt ra.
- Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, khẳng định năng lực trí tuệ của mỗi
con người và khả năng thực hiện được hành động ý chí.
lOMoARcPSD| 61601779
- Ý chí thể hiện mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều
chỉnh hành vi tích cực nhất của con người.
Giá trị chân chính của ý chí không phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu ch
yếu là nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vươn tới.
Các phẩm chất ý chí của nhân cách
Trong quá trình thực hiện hành động để đạt đến mục đích đặt ra tcon người sẽ
hình thành cho mình những phẩm chất ý chí để thực hiện hành động đó, có ý nghĩa
rất lớn cho đời sống và lao động của cá nhân. Ý chí được thể hiện qua các mặt sau:
Tính mục đích: Mỗi con người có ý chí cần biết xác định mục đích cho hoạt động
của mình và cuộc sống của mình một cách tự giác. Tính mục đích giúp con người điều
chỉnh hành vi trong quá trình hoạt động. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới
quan và nhân sinh quan, nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.
Tính độc lập: Con người có tính độc lập nghĩa là người đó có năng lực quyết định
thực hiện hành động dự kiến theo quan điểm và niềm tin của chính mình, không chịu
ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Con người biết lắng nghe ý kiến, chấp nhận lời
khuyên của người khác khi những lời khuyên đó đúng đắn có sự ng lọc theo
niềm tin của cá nhân. Tính độc lập không phải là sự bảo thủ, cố chấp, phủ nhận tất cả ý
kiến của người khác.
Tính quyết đoán: khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát không
những dao động không cần thiết dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc kĩ càng. Khi đưa ra
quyết định, con người tin tưởng sâu sắc về các quyết định của mình là đúng đắn và tiến
hành thực hiện các quyết định đó. Tuy nhiên, người có tính quyết đoán là những người
biết lắng nghe người khác, kiến thức, tự tin chứ không phải những người hành
động theo cảm tính, thiếu suy nghĩ, thiếu chín chắn. Tính kiên cường: Tính kiên cường
của ý chí nói lên cường độ ý chí cho phép con người có những quyết định đúng đắn, kịp
thời trong những hoàn cảnh khó khăn kiên trì thực hiện đến ng mục đích đã xác
định.
lOMoARcPSD| 61601779
Tính bền bỉ: Thể hiện ở sự khắc phục khó khăn, trở ngại khách quan chủ quan
để đạt được mục đích đề ra. Người tính bền bỉ luôn là người nỗ lực cố gắng, lạc quan
cho dù gặp những khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Bền bỉ không nghĩa là lì lợm,
bướng bỉnh, theo đuổi mục đích quáng. Tính bền bỉ một phẩm chất ý chí rất cần
thiết trong giáo dục sự nghiệp trồng người không phải một việc làm đơn giản, dễ
dàng.
Tính tự chủ: Là khả năng làm chủ hành vi của bản thân mình, kìm hãm những xúc
cảm, hoạt động không cần thiết. Người tự chủ thắng được những thúc đẩy không mong
muốn, những tác động tính xung động, những xúc động trong mình, biết tự phê
phán mình tránh đi những hành vi không suy nghĩ. Tính tchủ rất cần thiết với người
giáo viên nó tránh đi sự nóng giận, cục cằn cũng như những trạng thái tâm tiêu cực
như chán nản, thất vọng khi làm việc với học sinh, với đồng nghiệp.
Tính dũng cảm: Đó khả năng sẵn sàng nhanh chóng vượt tới mục đích, bất
chấp khó khăn, nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích của bản thân:
Việc phân chia các đặc tính trên có ý nghĩa về mặt khoa học, trên thực tế các phẩm
chất ý chí này luôn gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên ý chí cao của con
người.
* Những ưu điểm và hạn chế về ý chí của sinh viên hiện nay:
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều những đặc điểm tâm nổi bật, chịu sự chi phối
của hoạt động chủ đạo. Bài tiểu luận đề cập đến sinh viên, những người hoạt động
chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao
đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên -
sinh viên là sự phát triển tự ý thức, bồi dưỡng ý chí. Nhờ đó, sinh viên những hiểu
biết, thái độ, khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản
thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường
cao đẳng, đại học phạm, họ nhận thức ràng về những năng lực, phẩm chất của
mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ
sẽ xác định ràng mục tiêu học tập, rèn luyện thể hiện bằng hành động học tập hàng
lOMoARcPSD| 61601779
ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh
giá phát triển sinh viên thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết
quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của
họ.
sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đ
cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em
sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được
trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, h
thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống,
hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên,
trong đó phải đcập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách
chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Sinh viên lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ lớp người
giàu nghị lực, giàu ước hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng
đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống cách thức giáo dục khác nhau,
không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy
nghĩ hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính ch cực hoạt
động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình,
phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm khắc
phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV.
Ý chí của sinh viên còn thể hiện qua những lần ôn thi, hầu hết những bạn học sinh
chăm ngoan, siêng năng luôn ý chí cao trong những lúc ôn thi, họ dành những khoảng
thời gian rảnh để học bài, cho dù có gặpi khó thì bạn cũng không nản lòng mà tìm ra
đáp án. Ngày nay, công nghệ phát triển, rất nhiều dụ về ý chí được lan truyền lên
mạng. Các dụ về ý chí những tấm gương sáng cho các bạn thiếu ý chí trong học
tập, ý chí của con người là vô tận, chỉ cần bạn muốn, ý chí sẽ đưa bạn vượt qua mọi trở
ngại mà đi đến đích, để ta nhìn thấy thành quả của mình một cách trọn vẹn nhất.
lOMoARcPSD| 61601779
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ý chí được thể hiện phụ thuộc chặt chẽ vào
động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nếu động cơ có hiệu lực cao thì họ sẽ thể
hiện một sự nỗ lực ý chí lớn để đạt được động cơ đó.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc những người trình độ nhất
định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là s
thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những
cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển
công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với
các nền văn htrên thế giới, kcả văn hphương Đông và phương Tây. Việc học tập,
tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác cần thiết. Tuy nhiên, do
đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lkết hợp với sbồng bột, thiếu kinh
nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không
phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc không có lợi cho
bản thân họ. Bên cạnh đó, ý chí học tập của sinh viên hiện nay đang mất dần vì đam
nghiện game. Điều đó sẽ dẫn đến việc đang học online nhưng lại không nghe bài
giảng mà chỉ đam mê chơi game, ý chí về việc học tập của học sinh, về tính tự giác học
tập ngày càng giảm. Sự thiếu ý chí còn thể hiện việc, các bạn thấy đề cương ôn tập
dài quá hay bởi vì không tìm được đáp án mà nản lòng, họ bỏ qua các bài tập khó hoặc
thể chỉ học vẹt, ôn tập cho để đi thi lấy điểm. Hoạt động khoa học hoạt động
không dễ, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì của người thực hiện. Nếu động cơ nghiên cứu của
sinh viên chỉ dừng mức nhận thức, động tiềm năng chưa tính hiệu lực thì sự
thiếu nỗ lực ý chí cần thiết để có được động cơ nghiên cứu mới ở mức rất thấp.
Hiện nay, các sinh viên thường vừa học vừa làm thêm bên ngoài, các công việc
hầu như không liên quan lắm đến ngành của bản thân, công việc thường là bán thời
gian. một điều đáng lo ngại rằng việc đi làm thêm sẽ dẫn đến việc các sinh viên lơ
việc học. Họ mất đi ý thức học tập ca bản thân lẫn ý cmà mình đã đra từ lúc đầu.
Thậm chí, có những ngày, lịch học làm việc xen kẽ nhau dẫn đến sự mệt mỏi. Giữa
lOMoARcPSD| 61601779
việc học và làm việc thì đa số những bạn thiếu ý chí sẽ chọn việc làm và chỉ học để lấy
bằng.
Những sinh viên mải theo những ham muốn trước mắt quên đi nhiệm vụ
hiện tại của mình rất nhiều. Hậu quả của việc thiếu ý chí trong học tập là cùng lớn,
các bạn ncó điều kiện sẽ nghĩ mình không cần học cả, cha mẹ lo cho nh
nhưng họ không thể theo ta cả đời được. Cuộc sống sẽ trở nên khó khăn, vất vả hơn
những người ý thức học tập kém. Cuộc sống của họ sẽ bị đồng tiền chi phối, thậm
chí, nếu không có một tư tưởng vững vàng, họ sẽ sa lầy vào con đường tệ nạn xã hội.
Lứa tuổi sinh viên những nét tâm điển hình, đây thế mạnh của họ so với
các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm
trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), nhu cầu, khát
vọng thành đạt, nhiều ước thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song,
do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp
thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện
và phấn đấu của sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Thị Bừng, Các thuộc tính điển hình của tâm lý nhân cách, Nxb. Đại học Sư phạm, 2008.
2 Đinh Thuỳ Dung, Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành phát triển nhân cách, 2022, Trang
tin điện tử Luật Dương Gia https://luatduonggia.vn/phan-tich-vai-tro-cua-yeu-to-giao-duc-
doivoi-su-hinh- thanh-phat-trien-nhan-
cach/#3_Vai_tro_cua_giao_duc_doi_voi_su_hinh_thanh_va_phat_trien_nhan_cach
3 Giáo trình tâm lý học đại cương
4 Nguyễn Văn Lượt, Nghiên cứu ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học,
Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2007.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601779
CHUYÊN ĐỀ: TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG Câu hỏi
1: Anh/Chị hãy trình bày tình cảm cấp cao của con người và cho biết cách giáo
dục các loại tình cảm ấy? Trả lời
Tình cảm hay sự yêu thích là một “trạng thái hoặc trạng thái của tinh thần hoặc thể
xác” thường được kết hợp với một cảm giác hoặc kiểu tình yêu. Nó đã làm phát sinh
một số nhánh của triết học và tâm lý học liên quan đến cảm xúc, bệnh tật, ảnh hưởng và trạng thái.
“Tình cảm” được sử dụng phổ biến để biểu thị một cảm giác hoặc một loại tình
yêu, không chỉ là thiện chí hoặc tình bạn. Các nhà văn viết về đạo đức thường sử dụng
từ này để chỉ các trạng thái cảm giác riêng biệt, cả kéo dài và co thắt. Một số người đối
lập nó với niềm đam mê như được thoát khỏi yếu tố gợi cảm đặc biệt.
Ngay cả một sự thể hiện tình cảm rất đơn giản cũng có thể có nhiều phản ứng cảm xúc
khác nhau, từ bối rối đến ghê tởm, thích thú và khó chịu. Nó cũng có tác động vật lý
khác nhau đối với người cho và người nhận.
Dựa trên sự thỏa mãn hay không thỏa mãn của hai loại nhu cầu là nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội, chúng ta có thể chia tình cảm thành 2 loại: Tình cảm cấp thấp và Tình cảm cấp cao.
Tình cảm cấp cao nảy sinh do sự thỏa mãn hay không thỏa mãn các nhu cầu xã
hội. Tình cảm cấp cao phản ánh thái độ của con người với những mặt biểu hiện khác
nhau của đời sống xã hội.
Tình cảm cao cấp bao gồm:
Tình cảm đạo đức là tình cảm liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn
những nhu cầu đạo đức của con người. Nó biểu thị thái độ của con người với các yêu
cầu đạo đức trong xã hội, trong quan hệ giữa con người với con người, với cộng đồng,
với xã hội như tình bạn, tình đồng chí, tình yêu tổ quốc, v.v. Khi con người không có
tình cảm đạo đức tích cực thì sẽ nảy sinh tính tàn ác, tàn phá xã hội. Tình cảm trí tuệ lOMoAR cPSD| 61601779
Tình cảm trí tuệ là thái độ rung cảm của con người đối với việc nhận thức các hiện
tượng của tự nhiên và đời sống xã hội. Một con người có tình cảm trí tuệ thường thể
hiện sự ham hiểu biết, óc hoài nghi khoa học và nhạy cảm với cái mới. Khi con người
có tình cảm trí tuệ thì sẽ có mong muốn nhận thức thế giới đồng thời mong muốn cải
tạo thế giới, khẳng định năng lực của bản thân.
Tình cảm thẩm mỹ là loại tình cảm thường biểu hiện khi người ta rung cảm trong
việc tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa
mãn đến nhu cầu về cái đẹp. Đánh giá tình cảm thẩm mỹ bằng các thị hiếu thẩm mỹ,
trạng thái khoái cảm nghệ thuật. Tình cảm thẩm mĩ được quy định bởi xã hội và phán
ánh trình độ phát triển của xã hội. Mức độ cao của tình cảm thẩm mỹ là con người không
chỉ rung cảm với cái đẹp của hình thức mà cả cái đẹp trong nội dung đời sống và tác
phẩm nghệ thuật. Như vậy, cái đẹp là cái mà cuộc sống biểu hiện hay cái làm ta nhớ lại về cuộc sống.
Tình cảm hoạt động là những loại tình cảm được sinh ra từ chính bản thân hoạt
động của con người, những thay đổi của hoạt động, những thành công hay thất bại,
những khó khăn v.v... Con người có tình cảm hoạt động thường thể hiện tình yêu lao
động, tôn trọng người lao động và các giá trị mà người lao động tạo ra. Mức độ cao của
tình cảm hoạt động đó là sự say mê làm việc, sáng tạo và cống hiến.
Việc phân chia các loại tình cảm trên đây chỉ là tương đối, không có sự tách biệt
hoàn toàn giữa các loại tình cảm này mà chúng luôn có sự đan xen lẫn nhau, tác động
và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và cần thiết phải giáo dục tổng hợp các loại tình cảm trên.
Từ việc hiểu được nội dung, ý nghĩa của các loại tình cảm, chúng ta cần phải xây dựng
những hoạt động phù hợp với loại tình cảm để tác động giáo dục hiệu quả nhất đến con
người, đặc biệt là hình thành được những xúc cảm, tình cảm tích cực.
* Cách giáo dục tình cảm cấp cao của con người:
Giáo dục là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi
nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngời dạy và người học theo hướng tích cực.
nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ lOMoAR cPSD| 61601779
bên ngoài, góp phần đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội
(bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác) đến con người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức,
hành vi con người (giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi).
Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân: -
Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp học,
trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể -
Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn
phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp
với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể. -
Tổ chức các hoạt động, giao lưu -
Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức gíao dục...
Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội
hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. Vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn đi trước, đón
đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát triển của xã hội,
thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.
Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá
trình phát triển nhân cách:
Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường và hoạt động các nhân đều có ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố giáo dục
lại có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách. Đối với di truyền lOMoAR cPSD| 61601779
- Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong
chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn, trẻ được di truyền cấu tạo cột sống, bàn
tay và thanh quản ... nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có thể đi thẳng đứng
bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ.
- Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể.
- Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát huy năng
khiếu thành năng lực cụ thể.
- Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những khó
khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi chức năng hoặc hướng
dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn góp phần tăng cường nhận thức
trong xã hội về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn
xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình. Đối với môi trường
- Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức
bảo vệ môi trường của con người, khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái, làm cho
môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.
- Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế xã
hội, chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa của giáo dục.
- Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà
trường và các nhóm bạn bè, khu phố..., để các môi trường nhỏ tạo nên những tác động
lành mạnh. tích cực đến sự phát triển nhân cách con người. Hiện nay công tác giáo dục
xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh
phúc; nhà trường là một môi trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là
khu vực văn hóa của một xã hội văn minh tiến bộ.
Đối với hoạt động cá nhân
- Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát
huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các nhà văn hóa cho mọi lứa tuổi,
các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương,.); xây dựng những động cơ lOMoAR cPSD| 61601779
đúng đắn của cá nhân khi tham gia hoạt động, giao tiếp đồng thời hướng dẫn cá nhân
lựa chọn các hoạt động và giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công
tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn
bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ
đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách.
- Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục của cá nhân. Tự giáo dục thể hiện tính chủthể
của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của
giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo
dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm chí
không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn
từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình
thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát
triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người
thực sự có giáo dục.”
Giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc hành thành và phát triển nhân cách con
người. Giáo dục có tính tiên tiến và có thể đi trước vạch đường cho nhân cách do vậy
nếu được giáo dục một cách tốt nhất ngay từ trong nhà trường sẽ giúp cho thế hệ trẻ có
những định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, có nhận thức và thái độ hành vi hợp lý,..
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật bẩm sinh hoặc bệnh tật đem
lại cho con người như trường hợp của thầy Nguyễn Ngọc Ký tuy không còn đôi tay
nhưng vẫn trở thành giáo viên, hay như nghệ sỹ ghi ta tài năng Văn Vượng bị mù từ bé
nhưng nhờ có phương pháp giáo dục đúng đắn mà trở thành tài năng ấm nhạc... Đây là
cơ sở để tổ chức các trường dạy trẻ em khuyết tật, trẻ em thiệt thòi ... Ngoài ra giáo dục
còn giúp các e có tư chất tốt phát triển: như các trường năng khiếu, trường đào tạo chất lượng cao.
Môi trường xã hội ngoài những ảnh hưởng tích cực, còn gây ra những tiêu cực.
Giáo dục có khả năng giúp học sinh phòng ngừa, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực,
động viên được tính tự giác rèn luyện học tập của học sinh. lOMoAR cPSD| 61601779
Giáo dục nhân cách không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công việc cụ
thể, mọi hành vi thái đọ, lối sống của người lớn có tác động trực tiếp đến hình thành
nhân cách trẻ nhỏ, từ đó ảnh hưởng tới tương lai. Do đó, ngoài giáo dục trong nhà trường,
giáo dục trong gia đình là rất cần thiết.
Muốn xây dựng tình cảm cấp cao của con người một cách thuần nhất, quý giá đối
với xã hội thì cần phát triển con người một cách toàn diện, cần thường xuyên quan tâm
xây dựng cái cốt lõi có ý nghĩa xã hội của tính cách. Mặt khác, khi giáo dục thế hệ trẻ
cần phải tạo điều kiện để trẻ bộc lộ tính cách của mình một cách đầy đủ, rõ nét nhất.
Đồng thời, cần hình dung thật rõ hình ảnh lý tưởng về mặt tâm lý đạo đức của tính cách
con người Việt Nam trong thời đại mới và cần phải dựa vào đó mà xây dựng chương
trình giáo dục. Người lớn, trước hết là bố mẹ, thầy cô giáo cần phải là tấm gương cho
thế hệ trẻ trong lời nói cũng như trong việc làm, trong thái độ cũng như hành vi. Bởi vì,
không có gì thuyết phục trẻ em bằng chính sự gương mẫu của người lớn.
Câu 2: Từ các khía cạnh biểu hiện của phẩm chất ý chí, Anh/Chị hãy cho biết sinh
viên hiện nay có những ưu điểm và hạn chế nào về ý chí? Trả lời
Ý chí của con người được thể hiện trong một hành động nhất định. Hành động này
phải mang tính mục đích và kết quả của hành động có ý nghĩa với cả cá nhân và xã hội.
Do đó, ý chí là mặt năng động của ý thức, giúp con người điều khiển và điều chỉnh
những hoạt động của cá nhân, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại nhằm đạt được mục đích đề ra.
- Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong
thực tiễn, ở đó con người tự giác thực hiện mục đích của hành động, đấu tranh động cơ,
lựa chọn các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thực hiện đến cùng mục đích đặt ra.
- Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, khẳng định năng lực trí tuệ của mỗi
con người và khả năng thực hiện được hành động ý chí. lOMoAR cPSD| 61601779
- Ý chí thể hiện mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều
chỉnh hành vi tích cực nhất của con người.
Giá trị chân chính của ý chí không phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu mà chủ
yếu là nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vươn tới.
Các phẩm chất ý chí của nhân cách
Trong quá trình thực hiện hành động để đạt đến mục đích đặt ra thì con người sẽ
hình thành cho mình những phẩm chất ý chí để thực hiện hành động đó, nó có ý nghĩa
rất lớn cho đời sống và lao động của cá nhân. Ý chí được thể hiện qua các mặt sau:
Tính mục đích: Mỗi con người có ý chí cần biết xác định mục đích cho hoạt động
của mình và cuộc sống của mình một cách tự giác. Tính mục đích giúp con người điều
chỉnh hành vi trong quá trình hoạt động. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới
quan và nhân sinh quan, nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.
Tính độc lập: Con người có tính độc lập nghĩa là người đó có năng lực quyết định
và thực hiện hành động dự kiến theo quan điểm và niềm tin của chính mình, không chịu
ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Con người biết lắng nghe ý kiến, chấp nhận lời
khuyên của người khác khi những lời khuyên đó là đúng đắn và có sự sàng lọc theo
niềm tin của cá nhân. Tính độc lập không phải là sự bảo thủ, cố chấp, phủ nhận tất cả ý kiến của người khác.
Tính quyết đoán: là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát không
những dao động không cần thiết dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc kĩ càng. Khi đưa ra
quyết định, con người tin tưởng sâu sắc về các quyết định của mình là đúng đắn và tiến
hành thực hiện các quyết định đó. Tuy nhiên, người có tính quyết đoán là những người
biết lắng nghe người khác, có kiến thức, tự tin chứ không phải là những người hành
động theo cảm tính, thiếu suy nghĩ, thiếu chín chắn. Tính kiên cường: Tính kiên cường
của ý chí nói lên cường độ ý chí cho phép con người có những quyết định đúng đắn, kịp
thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện đến cùng mục đích đã xác định. lOMoAR cPSD| 61601779
Tính bền bỉ: Thể hiện ở sự khắc phục khó khăn, trở ngại khách quan và chủ quan
để đạt được mục đích đề ra. Người có tính bền bỉ luôn là người nỗ lực cố gắng, lạc quan
cho dù gặp những khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Bền bỉ không có nghĩa là lì lợm,
bướng bỉnh, theo đuổi mục đích mù quáng. Tính bền bỉ là một phẩm chất ý chí rất cần
thiết trong giáo dục vì sự nghiệp trồng người không phải là một việc làm đơn giản, dễ dàng.
Tính tự chủ: Là khả năng làm chủ hành vi của bản thân mình, kìm hãm những xúc
cảm, hoạt động không cần thiết. Người tự chủ thắng được những thúc đẩy không mong
muốn, những tác động có tính xung động, những xúc động ở trong mình, biết tự phê
phán mình tránh đi những hành vi không suy nghĩ. Tính tự chủ rất cần thiết với người
giáo viên vì nó tránh đi sự nóng giận, cục cằn cũng như những trạng thái tâm lý tiêu cực
như chán nản, thất vọng khi làm việc với học sinh, với đồng nghiệp.
Tính dũng cảm: Đó là khả năng sẵn sàng và nhanh chóng vượt tới mục đích, bất
chấp khó khăn, nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích của bản thân:
Việc phân chia các đặc tính trên có ý nghĩa về mặt khoa học, trên thực tế các phẩm
chất ý chí này luôn gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên ý chí cao của con người.
* Những ưu điểm và hạn chế về ý chí của sinh viên hiện nay:
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối
của hoạt động chủ đạo. Bài tiểu luận đề cập đến sinh viên, những người có hoạt động
chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao
đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên -
sinh viên là sự phát triển tự ý thức, bồi dưỡng ý chí. Nhờ đó, sinh viên có những hiểu
biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản
thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường
cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của
mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ
sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng lOMoAR cPSD| 61601779
ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh
giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết
quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ.
Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề
cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em
sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được
trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ
thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống,
hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên,
trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách
chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người
giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng
đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau,
không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy
nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt
động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình,
phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc
phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV.
Ý chí của sinh viên còn thể hiện qua những lần ôn thi, hầu hết những bạn học sinh
chăm ngoan, siêng năng luôn có ý chí cao trong những lúc ôn thi, họ dành những khoảng
thời gian rảnh để học bài, cho dù có gặp bài khó thì bạn cũng không nản lòng mà tìm ra
đáp án. Ngày nay, công nghệ phát triển, rất nhiều ví dụ về ý chí được lan truyền lên
mạng. Các ví dụ về ý chí là những tấm gương sáng cho các bạn thiếu ý chí trong học
tập, ý chí của con người là vô tận, chỉ cần bạn muốn, ý chí sẽ đưa bạn vượt qua mọi trở
ngại mà đi đến đích, để ta nhìn thấy thành quả của mình một cách trọn vẹn nhất. lOMoAR cPSD| 61601779
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ý chí được thể hiện phụ thuộc chặt chẽ vào
động cơ nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nếu động cơ có hiệu lực cao thì họ sẽ thể
hiện một sự nỗ lực ý chí lớn để đạt được động cơ đó.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất
định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự
thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những
cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển
công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với
các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập,
tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do
đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh
nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không
phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho
bản thân họ. Bên cạnh đó, ý chí học tập của sinh viên hiện nay đang mất dần vì đam mê
và nghiện game. Điều đó sẽ dẫn đến việc đang học online nhưng lại không nghe bài
giảng mà chỉ đam mê chơi game, ý chí về việc học tập của học sinh, về tính tự giác học
tập ngày càng giảm. Sự thiếu ý chí còn thể hiện ở việc, các bạn thấy đề cương ôn tập
dài quá hay bởi vì không tìm được đáp án mà nản lòng, họ bỏ qua các bài tập khó hoặc
có thể chỉ học vẹt, ôn tập cho có để đi thi lấy điểm. Hoạt động khoa học là hoạt động
không dễ, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì của người thực hiện. Nếu động cơ nghiên cứu của
sinh viên chỉ dừng ở mức nhận thức, động cơ tiềm năng chưa có tính hiệu lực thì sự
thiếu nỗ lực ý chí cần thiết để có được động cơ nghiên cứu mới ở mức rất thấp.
Hiện nay, các sinh viên thường vừa học vừa làm thêm bên ngoài, các công việc
hầu như không liên quan lắm đến ngành của bản thân, vì công việc thường là bán thời
gian. Có một điều đáng lo ngại rằng việc đi làm thêm sẽ dẫn đến việc các sinh viên lơ
là việc học. Họ mất đi ý thức học tập của bản thân lẫn ý chí mà mình đã đề ra từ lúc đầu.
Thậm chí, có những ngày, lịch học và làm việc xen kẽ nhau dẫn đến sự mệt mỏi. Giữa lOMoAR cPSD| 61601779
việc học và làm việc thì đa số những bạn thiếu ý chí sẽ chọn việc làm và chỉ học để lấy bằng.
Những sinh viên vì mải theo những ham muốn trước mắt mà quên đi nhiệm vụ
hiện tại của mình rất nhiều. Hậu quả của việc thiếu ý chí trong học tập là vô cùng lớn,
các bạn nhà có điều kiện sẽ nghĩ mình không cần học gì cả, có cha mẹ lo cho mình
nhưng họ không thể theo ta cả đời được. Cuộc sống sẽ trở nên khó khăn, vất vả hơn
những người có ý thức học tập kém. Cuộc sống của họ sẽ bị đồng tiền chi phối, thậm
chí, nếu không có một tư tưởng vững vàng, họ sẽ sa lầy vào con đường tệ nạn xã hội.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với
các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm
trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát
vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song,
do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp
thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện
và phấn đấu của sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
Lê Thị Bừng, Các thuộc tính điển hình của tâm lý nhân cách, Nxb. Đại học Sư phạm, 2008. 2
Đinh Thuỳ Dung, Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành phát triển nhân cách, 2022, Trang
tin điện tử Luật Dương Gia https://luatduonggia.vn/phan-tich-vai-tro-cua-yeu-to-giao-duc-
doivoi-su-hinh- thanh-phat-trien-nhan-
cach/#3_Vai_tro_cua_giao_duc_doi_voi_su_hinh_thanh_va_phat_trien_nhan_cach 3
Giáo trình tâm lý học đại cương 4
Nguyễn Văn Lượt, Nghiên cứu ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học,
Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2007.