Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại theo Bộ luật tố
tụng hình sự 2015?
1. Khởi tố theo yêu cầu của bị hai
Để bảo đảm quyền con người, quyền bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 quy định một số tội được khởi tố theo yêu cầu bị hại iều 155). Tuy
nhiên, trong số các tội đó, tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại đến sức khỏe cho người khác
theo Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015, trên thực tế nhiều năm qua, tội này bị các đối tượng
phạm tội lợi dụng nhiều nhất, gây khó khăn cản trở không nhở cho công tác điều tra, xử tội
phạm của các đơn vị, địa phương. Thông thường, các đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do tội phạm có tổ chức gây ra, hoặc các đối tượng đâm
thuê, chém mướn hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, sau khi phạm tội, chúng dùng nhiều thủ đoạn
nhằm trốn tránh pháp luật như: mua chuộc, đe dọa, khống chế người bị hại để không tố giác tội
phạm, hoặc đã tố giác thì rút đơn.
Thậm chí, nếu không căn cứ để rút đơn (vì hậu quả thương tật rơi o khung tăng nặng),
chúng mua chuộc hoặc đe dọa, không chế bị hại, để họ từ chối giám định thương tật, y khó
khăn rất lớn trong việc x của các quan tố tụng khi không xử được, bọn tội phạm
càng được thể lộng hành y bức xúc trong công luận. vậy, ngoài những nội dung đã nêu
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khi hướng dẫn triển khai thực hiện cần nghiên cứu,
biện pháp cưỡng chế cần thiết với những trường hợp bị hại từ chối giám định mới thể khắc
phục triệt để kẽ hở này, tạo điều kiện thuận lợi để xử lý nghiêm khắc đối với người phạm tội, góp
phần tích cực trong việc ổn định trật tự, an toàn xã hội.
2. Quy định của pháp luật về khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Bộ luật tố tụng hình sự quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nghĩa
là cơ quan có thẩm quyền phải nhận được yêu cầu của bị hại mới được khởi tố vụ án, nếu không
việc khởi tố này trái pháp luật. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhằm tạo điều kiện cho
người phạm tội hội để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế
gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết đối với bị hại.
Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại
khoản 1 các điều luật của Bộ luật hình sự khi yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị
hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
So với quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2003 về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại, quy định này điểm mới bổ sung thêm trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Đồng thời, sửa đổi phạm vi về quyền rút yêu
cầu khởi tố của bị hại. Nếu khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại được rút
yêu cầu khởi tố vụ án trước ngày mở phiên tòa thẩm thì khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm
2015 không giới hạn thời điểm bị hại rút yêu cầu khởi tố, mà chỉ quy định “trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”.
3. Trường hợp khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại
Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự vtội phạm
quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 226 của Bộ luật
hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) khi yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là
người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết, cụ thể:
Trường hợp 1: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1
Điều 134).
Trường hợp 2: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135).
Trường hợp 3: Tội cố ý y thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt
quá giới hạn phòng vchính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
(Khoản 1 Điều 136).
Trường hợp 4: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1
Điều 138).
Trường hợp 5: Tội ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Trường hợp 6: Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
Trường hợp 7: Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
Trường hợp 8: Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
Trường hợp 9: Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
Trường hợp 10: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226).
4. Hậu quả pháp lý khi bị hại rút đơn yêu cầu
Khoản 2, 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định hậu quả pháp lý khi người bị hại rút
đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể như sau:
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ;
- Trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do
bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
5. Vướng mắc khi tiến hành khởi tố, giải quyết vụ án theo yêu cầu của bị hại
- Bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án:
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, các vụ án về tội: “Cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” luôn chiếm t lệ cao trong các tội chỉ được khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Đối với vụ án cố ý gây thương tích thì yêu cầu bắt buộc
đối với quan điều tra phải xác định được t lệ thương tích của bị hại, bởi chỉ khi xác định
được phần trăm tỉ lệ thương tích của bị hại thì quan điều tra mới căn cứ để khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, nhiều trường hợp quan tiến hành tố tụng không thể
xử lý được vì bị hại không hợp tác, từ chối giám định để xác định tỷ lệ thương tích gây khó khăn
trong việc giải quyết vụ án.
Điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015 đã quy định về biện pháp dẫn giải thể áp dụng
đối với bị hại không hợp tác, từ chối giám định:
Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của quan
thẩm quyền tiến hành tố tụng không do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách
quan”.
Đây biện pháp cưỡng chế nhằm khắc phục trường hợp bị hại từ chối việc giám định gây khó
khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định y
vướng mắc đó là: Thực hiện dẫn giải bị hại đi giám định nhưng bị hại vẫn cương quyết từ chối
việc giám định, tỏ thái độ bất hợp tác với quan tiến hành tố tụng với do quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, vì vậy việc giám định không thể tiến hành được.
- Giới hạn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại:
Trường hợp vụ án nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án,
những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau đã phát sinh
vướng mắc trong việc xác định những người không yêu cầu khởi tố vụ án được coi bị hại
không, trường hợp nàykhởi tố vụ án hình sự hay không. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không bảo vệ được quyền, lợi ích của người bị hại yêu
cầu khởi tố và ngược lại nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự lại ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
của người bị hại không có yêu cầu khởi tố. Giải quyết vấn đề này có các quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Vụ án nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu
khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu thì không khởi tố vụ án hình sự không đảm
bảo được đầy đủ tất cả yêu cầu của các bị hại về việc khởi tố vụ án, do đó không thể khởi tố vụ
án. Quan điểm thứ hai cho rằng: Chỉ cần có yêu cầu khởi tố vụ án của một hoặc một số bị hại thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bị hại.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp này quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án hình
sự để điều tra giải quyết toàn diện các vấn đề trong vụ án, xác định đầy đủ trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội, phải đặt lợi ích của tất cả bị hại bên cạnh lợi ích của từng bị hại cũng
như lợi ích chung của xã hội trong việc xử lý hành vi phạm tội.
- Trường hợp vụ án nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu
khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số người phạm tội trường hợp này cơ quan điều
tra có khởi tố tất cả người phạm tội hay không? Với trường hợp này thì cũng có nhiều quan điểm
khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố đối với tất cả bị can như
thế mới đảm bảo giải quyết triệt để vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bị hại. Quan
điểm thứ hai: quan điều tra phải tôn trọng quyền tự định đoạt của bị hại, chỉ giải quyết đối
với bị can bị bị hại yêu cầu khởi tố, không giải quyết đối với bị can không bị bị hại yêu cầu xử lý
trách nhiệm hình sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp y quan điều tra sẽ khởi tố vụ án khởi tố tất cả
các bị can, bởi theo quy định “khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại”, bị hại chỉ
quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, không quyền yêu cầu khởi tố bị can thẩm quyền
thuộc về quan điều tra. Khi đã khởi tố thì vụ án phải được giải quyết công bằng nghiêm
minh theo quy định của pháp luật. Tất cả các bị can đều phải bị xem xét trách nhiệm pháp lý, đối
với việc bị hại không yêu cầu khởi tố đối với bị can o sẽ xem xét một tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với bị can đó.

Preview text:

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015?
1. Khởi tố theo yêu cầu của bị hai
Để bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 quy định một số tội được khởi tố theo yêu cầu bị hại (Điều 155). Tuy
nhiên, trong số các tội đó, tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại đến sức khỏe cho người khác
theo Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015, trên thực tế nhiều năm qua, tội này bị các đối tượng
phạm tội lợi dụng nhiều nhất, gây khó khăn cản trở không nhở cho công tác điều tra, xử lý tội
phạm của các đơn vị, địa phương. Thông thường, các đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do tội phạm có tổ chức gây ra, hoặc các đối tượng đâm
thuê, chém mướn hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, sau khi phạm tội, chúng dùng nhiều thủ đoạn
nhằm trốn tránh pháp luật như: mua chuộc, đe dọa, khống chế người bị hại để không tố giác tội
phạm, hoặc đã tố giác thì rút đơn.
Thậm chí, nếu không có căn cứ để rút đơn (vì hậu quả thương tật rơi vào khung tăng nặng),
chúng mua chuộc hoặc đe dọa, không chế bị hại, để họ từ chối giám định thương tật, gây khó
khăn rất lớn trong việc xử lý của các cơ quan tố tụng và khi không xử lý được, bọn tội phạm
càng được thể lộng hành gây bức xúc trong công luận. Vì vậy, ngoài những nội dung đã nêu
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khi hướng dẫn triển khai thực hiện cần nghiên cứu, có
biện pháp cưỡng chế cần thiết với những trường hợp bị hại từ chối giám định mới có thể khắc
phục triệt để kẽ hở này, tạo điều kiện thuận lợi để xử lý nghiêm khắc đối với người phạm tội, góp
phần tích cực trong việc ổn định trật tự, an toàn xã hội.
2. Quy định của pháp luật về khởi tố theo yêu cầu của bị hại
Bộ luật tố tụng hình sự quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nghĩa
là cơ quan có thẩm quyền phải nhận được yêu cầu của bị hại mới được khởi tố vụ án, nếu không
việc khởi tố này là trái pháp luật. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại nhằm tạo điều kiện cho
người phạm tội có cơ hội để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế
gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết đối với bị hại.
Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại
khoản 1 các điều luật của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị
hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
So với quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 2003 về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại, quy định này có điểm mới là bổ sung thêm trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là
một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Đồng thời, sửa đổi phạm vi về quyền rút yêu
cầu khởi tố của bị hại. Nếu khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại được rút
yêu cầu khởi tố vụ án trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm
2015 không giới hạn thời điểm bị hại rút yêu cầu khởi tố, mà chỉ quy định “trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”.
3. Trường hợp khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại
Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm
quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật
hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là
người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết, cụ thể:
Trường hợp 1: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 134).
Trường hợp 2: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135).
Trường hợp 3: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136).
Trường hợp 4: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138).
Trường hợp 5: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139).
Trường hợp 6: Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).
Trường hợp 7: Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).
Trường hợp 8: Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).
Trường hợp 9: Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)
Trường hợp 10: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226).
4. Hậu quả pháp lý khi bị hại rút đơn yêu cầu
Khoản 2, 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định hậu quả pháp lý khi người bị hại rút
đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể như sau:
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ;
- Trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do
bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
5. Vướng mắc khi tiến hành khởi tố, giải quyết vụ án theo yêu cầu của bị hại
- Bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án:
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, các vụ án về tội: “Cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” luôn chiếm tỷ lệ cao trong các tội chỉ được khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Đối với vụ án cố ý gây thương tích thì yêu cầu bắt buộc
đối với cơ quan điều tra phải xác định được tỷ lệ thương tích của bị hại, bởi chỉ khi xác định
được phần trăm tỉ lệ thương tích của bị hại thì cơ quan điều tra mới có căn cứ để khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thể
xử lý được vì bị hại không hợp tác, từ chối giám định để xác định tỷ lệ thương tích gây khó khăn
trong việc giải quyết vụ án.
Điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015 đã quy định về biện pháp dẫn giải có thể áp dụng
đối với bị hại không hợp tác, từ chối giám định:
Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”.
Đây là biện pháp cưỡng chế nhằm khắc phục trường hợp bị hại từ chối việc giám định gây khó
khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định này có
vướng mắc đó là: Thực hiện dẫn giải bị hại đi giám định nhưng bị hại vẫn cương quyết từ chối
việc giám định, tỏ thái độ bất hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng với lý do có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, vì vậy việc giám định không thể tiến hành được.
- Giới hạn giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại:
Trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án,
những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau đã phát sinh
vướng mắc trong việc xác định những người không yêu cầu khởi tố vụ án có được coi là bị hại
không, trường hợp này có khởi tố vụ án hình sự hay không. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không bảo vệ được quyền, lợi ích của người bị hại có yêu
cầu khởi tố và ngược lại nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự lại ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
của người bị hại không có yêu cầu khởi tố. Giải quyết vấn đề này có các quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu
khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu thì không khởi tố vụ án hình sự vì không đảm
bảo được đầy đủ tất cả yêu cầu của các bị hại về việc khởi tố vụ án, do đó không thể khởi tố vụ
án. Quan điểm thứ hai cho rằng: Chỉ cần có yêu cầu khởi tố vụ án của một hoặc một số bị hại thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bị hại.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố vụ án hình
sự để điều tra và giải quyết toàn diện các vấn đề trong vụ án, xác định đầy đủ trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội, phải đặt lợi ích của tất cả bị hại bên cạnh lợi ích của từng bị hại cũng
như lợi ích chung của xã hội trong việc xử lý hành vi phạm tội.
- Trường hợp vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu
khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số người phạm tội trường hợp này cơ quan điều
tra có khởi tố tất cả người phạm tội hay không? Với trường hợp này thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố đối với tất cả bị can như
thế mới đảm bảo giải quyết triệt để vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bị hại. Quan
điểm thứ hai: Cơ quan điều tra phải tôn trọng quyền tự định đoạt của bị hại, chỉ giải quyết đối
với bị can bị bị hại yêu cầu khởi tố, không giải quyết đối với bị can không bị bị hại yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp này cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án và khởi tố tất cả
các bị can, bởi vì theo quy định “khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại”, bị hại chỉ có
quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, không có quyền yêu cầu khởi tố bị can mà thẩm quyền
thuộc về cơ quan điều tra. Khi đã khởi tố thì vụ án phải được giải quyết công bằng và nghiêm
minh theo quy định của pháp luật. Tất cả các bị can đều phải bị xem xét trách nhiệm pháp lý, đối
với việc bị hại không yêu cầu khởi tố đối với bị can nào sẽ xem xét là một tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với bị can đó.