Kiểm tra giữa kỳ: ý thức của con người - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Để làm rõ cho câu “Ý thức của con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn gópphần sáng tạo ra thế giới” thì chúng ta sẽ phải phân tích vấn đề theo hai mặt, đó là: mặtlý luận và mặt thức tiễn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021 Sinh viên: MSSV: Mã lớp học phần: Ngày sinh:
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh rằng, ý thức của con người không
chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới BÀI LÀM
Để làm rõ cho câu “Ý thức của con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp
phần sáng tạo ra thế giới” thì chúng ta sẽ phải phân tích vấn đề theo hai mặt, đó là: mặt
lý luận và mặt thức tiễn.
I) VỀ MẶT LÝ LUẬN:
Ý thức là gì?
Như vậy, theo định nghĩa của triết học Mác-Lênin, ý thức là một phạm trù song
song với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách
quan vào bộ óc con người và có sự cải biên và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Bản chất của ý thức:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan; là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc người.
+ Trong mối quan hệ với sự vật, ý thức chỉ là hình ảnh phản ánh sự vật, không phải là bản thân sự vật
+ Thế nào là “ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”? Điều này có
thể được hiểu như sau:Ý thức được xem là hình ảnh về thế giới khách quan nhưng
hình ảnh ấy lại bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức biểu
hiện nhưng nó lại không thể còn giống nguyên như thế giới khách quan mà nó đã
được cải biên thông qua lăng kính chủ quan của con người. Và theo tư tưởng của
Mác thì: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”
+ Còn về mặt đặc tính năng động, sáng tạo của ý thức thì đây là đặc trưng bản chất
nhất của ý thức. Đặc tính này gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội cũng như là đặc
tính căn bản cho thấy trình độ phản ánh ý thức của con người cao hơn so với phản
ánh tâm lý của động vật. Những điều này được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm
– sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chắt lọc và xử lí
thông tin, dữ liệu cũng như lưu trữ thông tin trên cơ sở những gì đã có sẵn. Từ đó,
có thể tạo ra những thông tin mới và khám phá ra được ý nghĩa của thông tin đã 1
được tiếp nhận. Bên cạnh đó, đặc tính này còn được thể hiện trong quá trình con
người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, .. trong đời sống tinh thần
của mình hay khải quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư
tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Vai trò của ý thức đối với vật chất:
- Trong quan hệ đối với vật chất thì ý thức được ra đời là nhờ có vật chất và ý thức
có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Khi nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người vì ý thức ở đây là ý
thức của con người. Nếu muốn thay đổi hiện thực, con người phải trực tiếp tiến
hành những hoạt động vật chất thay vì hướng đến ý thức bởi bản thân ý thức tự nó
sẽ không trực tiếp thay đổi được hiện thực. Tuy nhiên, mọi hoạt động của con
người đều do ý thức quyết định, vì vậy, ý thức sẽ không trực tiếp tạo ra sự thay đổi
mà vai trò của nó là trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan và từ cơ
sở đó thì con người có thể xác định được mục tiêu, đưa ra phương hướng, xây dựng
kế hoạch, lựa chọn phương án tối ưu,... Và cuối cùng thì con người có thể thực hiện
được mục tiêucuar mình. Qua đây, ý thức đã thể hiện được sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Có hai hướng mà sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất có thể xảy ra, đó là:
tích cực và tiêu cực. Khi con người có nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì lúc đó hành động của con người sẽ được
coi là phù hợp với các quy luật khách quan. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Con
người còn phải có năng lực vượt qua những thử thách trong quá trình hiện thức hóa
mục tiêu của mình. Nếu hai điều trên được con người kết hợp ăn ý thì cuối cùng
thế giới được cải tạo – đây mới là sự tác động tích cực của ý thức. Mặt khác, nếu ý
thức của con người phản ánh khồn đúng với hiện thực khách quan, bản chất, quy
luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng đi này của con người đã đi ngược lại với
các quy luật khách quan, từ đó sẽ dẫn đến tác động tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Vì vậy, ý thức có vai trò quyết định hành động, hoạt động thực tiễn của con
người là đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quá
thông qua việc định hướng cho hoạt động của con người.
Tóm lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động
này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức
vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
Vai trò của nhận thức, lý luận đối với thực tiễn:
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: 2
+ Thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức: Con người
quan hệ với thế giới không phảo bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Và chính trong
quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người mới được
hình thành và phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn.
Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Thông qua thực tiễn mà kiểm chứng nhận
thức đúng hay sai. Nếu nhận thức là đúng thì nó sẽ phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
+ Lý luận khái quát kinh nghiệm, chỉ ra quy luật vận động của thực tiễn: Lý luận
có nguồn gốc từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn, nhưng lý
luận vẫn có tính độc lập đối với thực tiễn. Lý luận được sinh ra là để khái quát kinh
nghiệm thực tiễn, chỉ ra tính bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển
của thực tiễn. Do đó lý luận dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao.
+ Lý luận dự báo, định hướng cho hoạt động thực tiễn: Lý luận khoa học giúp con
người nắm bắt quy luật vận động của thực tiễn.Nắm quy luật thực chất là nắm các
mối quan hệ bản chất, tất yếu, quyết định chiềuhướng vận động, phát triển của thực
tiễn. Do vậy, lý luận có khả năng dự báo đượcsự vận động, phát triển của thực tiễn.
Lý luận khoa học dự kiến sự vận động vàphát triển của sự vật, hiện tượng trong
tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mớicho sự phát triển.
+ Lý luận giáo dục liên kết, tập hợp lực lượng, chỉ đạo và cải tạo thực tiễn: Lý luận
không chỉ là sự giải thích thế giới, điều quan trọng hơn là cải tạo thế giới, phục vụ
cho cuộc sống của con người. Ngoài khả năng nhìn thấy trước, dự báo tương lai, lý
luận khoa học còn bao hàm cả ý nghĩa tự giác hình thành cái tương lai đó. Lý luận
có vai trò giáo dục, tuyên truyền giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định phương
pháp, biện pháp thực hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn cải
tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của các cá nhân và xã hội.
II) VỀ MẶT THỰC TIỄN:
Ý thức là sản phẩm của quá trình hoạt động cải tạo thế giới của con người. Vì vậy, quá
trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo,
diễn ra theo 3 giai đoạn sau:
- Đầu tiên là sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Quá trình
này diễn ra theo hai chiều, được định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết
- Tiếp theo là chuyển hóa đối tượng trong tư duy thành dạng hình ảnh trong tinh
thần. Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa:
mã hóa các đối tượng vật chất để tạo thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
- Cuối cùng sẽ là đưa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, hay còn được
hiểu là quá trình hiện thực hóa ý tưởng. Việc này thực hiện được là nhờ thông
qua hoạt động thực tiễn biến quan niệm thành thực tại. Trong quá trình này con 3
người sẽ lựa chọn những phương pháp, công cụ,... nhằm tác động vào hiện thực
khách quan để thực hiện mục đích của mình.
Sự tác động của ý thức xã hội là vô cùng lớn đối với con người; là kim chỉ nan, là
động lực cho hoạt động thực tiễn. Vai trò chỉ đạo của ý thức được biểu hiện dưới vai
trò của khoa học, văn hóa và tư tưởng là góp phần quyểt định sự thành công hay thất
bại của thực tiễn và các tác động tiêu cực hay tích cực của ý thức đối với sự phát triển
của tự nhiên và xã hội.
CÁC MINH CHỨNG THỰC TIỄN:
- Chủ nghĩa cộng sản là sự sáng tạo ra của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản:
Chủ nghĩa cộng sản là kết quả sự sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được trang bị bằng lý luận của
CN Mác-Lênin. Cách mạng là đổi mới, là sáng tạo. Cách mạng đã thực sự làm
đổi thay cơ bản cơ cấu xã hội Việt Nam vốn đã tồn tại từ lâu, đưa đến một sự
thay đổi lớn cho dân tộc và quần chúng dân nhân. Cách mạng tư tưởng góp
phần không nhỏ đưa dân tộc ta thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xây dựng cuộc
sống ấm nó, hạnh phúc, xây dựng chủ nghĩa công sản. Trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, Đảng vẫn đóng vai trò quyết định
sự đi lên, phát triển của đất nước thông qua sự lãnh đạo bằng các đường lối,
chủ trương đúng đắn, sáng tạo. Trong bối cảnh tình hình đã có nhiều sự biến
chuyển, khi đất nước đã có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, mặt bằng
dân trí được nâng cao, mọi mặt đời sống đã hội nhập sâu với thế giới, xu thế
toàn cầu hoá đóng vai trò chủ đạo, thì các đường lối, chủ trương, chính sách đã
chứng minh được điều chỉnh phù hợp và nhận được sự đồng thuận cao của toàn
dân trong các vấn đề trọng đại của đất nước. Đó là kết quả của tri thức và tri
thức là khoa học, thể hiện sự không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho
mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó
cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.
- Sản phẩm làm ra có một phần chất xám chính là ý thức con người tham gia vào quá
trình tạo nên sản phẩm :
Ngày nay loài người có sức sáng tạo to lớn, đạt được những thành công, tạo ra
các phát minh vượt trội là do con người phát huy được tối đa sức mạnh của
tinh thần, đó chính là nền kinh tế tri thức. Sản phẩm làm ra có một phần chất
xám. Mỗi sản phẩm tạo ra là sự đúc kết của tri thức của con người, tri thức
tham gia cấu thành và tạo nên sản phẩm. Tác động của ý thức, mà chủ yếu là
tri thức đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất
bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển
của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu
hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.
- Tư tưởng hướng dẫn quần chúng nhân dân xóa bỏ chế độ cũ tạo ra chế độ mới: 4
Sự thay đổi trong mô hình xã hội cũng là một minh chứng thực tiễn của luận
điểm trên. Các cuộc CM bao giờ cũng được hướng dẫn bởi tư tưởng CM, lấy tư
tưởng CM làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng CM xâm nhập vào quần
chúng, được quần chúng ủng hộ thì sẽ tạo ra động lực thúc đẩy quần chúng
xóa bỏ XH cũ, xây dựng XH mới. Điều này có thể được thấy rất rõ ràng trong
cuộc CM của CN tư bản, tư tưởng tư sản đã hướng dẫn quần chúng nhân dân
xóa bỏ XH phong kiến, sáng tạo và xây dựng nên CN tư bản. 5