Kiến thức cơ bản và các quy luật - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

- Trình bày và phân tích được: vấn đề cơ bản của triết học, các phạm trù vậtchất, ý thức, vận động, không gian, thời gian. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.......................................................................................3
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất.........................................................3
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.............................................................6
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức......................................................................10
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.........................................................................11
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật...................................11
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật..................................................................13
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG........35
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng....................................35
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức.......................................................................36
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức..............................................37
4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức...................................................................39
5. Tính cht của chân lý.............................................................................................41
1
Mục tiêu chương 2
Về kiến thức
- Trình bày phân tích được: vấn đề bản của triết học, các phạm trù vật
chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian.
- Diễn đạt chính xác, cho được các dẫn chứng, dụ để làm sáng tỏ nội dung
bản của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù, 3 quy luật
cơ bản.
- Xác định đúng các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và vai trò của mỗi dạng đối
với nhận thức.
- Phân biệt kết nối được sự liên hệ trong các giai đoạn của quá trình nhận
thức bằng các ví dụ.
Về kỹ năng
- Biết đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái vận động, trong các mối liên hệ
vốn có.
- Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích, giải thích bản chất một số sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể trong cuộc sống, trong đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội.
- Thiết lập xây dựng các mối quan hệ gia đình, hội, công việc một cách
chủ động, tích cực.
Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá các sự vật, các vấn đề một cách khách quan trong sự vận
động, biến đổi; trong các mối liên hệ chung – riêng, nhân – quả, bản chất – hiện
tượng, khả năng hiện thực… của sự vật, vấn đề đó, hạn chế sự suy luận phiến
diện, cảm tính.
- Tự tin vào năng lực nhận thức, năng lực hoạt động của bản thân.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng hạt nhân luận triết học của thế giới quan
khoa học Mác - Lênin; hệ thống luận, phương pháp luận được xác lập trên
sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề bản của
triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nguyên của chủ nghĩa duy vật đã
được giải thích một cách biện chứng trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lý
này, chỉ một thế giới vật chất không ngừng vận động, thế giới vật chất
số mối liên hệ, biến đổi, phát triển không ngừng. Nội dung của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến nguyên về sự phát triển thể hiện trong ba quy luật sáu
cặp phạm trù.
2
Ý thức con người chỉ hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất, tác động trở
lại thế giới đó thông qua hoạt động thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật còn bao gồm luận nhận thức. Theo luận ấy, sự
phản ánh thế giới vật chất bởi con người với hai giai đoạn nhận thứccảm tính
và lý tính. sở, động lực, mục đích của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn cũng
đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm
trù vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, sở của
mọi tồn tại một bản nguyên tinh thần. Đó thể ý chí thượng đế, “ý niệm
tuyệt đối”, hoặc những quan niệm có tính chất siêu nhiên…
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới vật chất. Trong
thời cổ đại đó các quan niệm của Talét cho rằng bản nguyên thế giới nước,
Heraclít cho rằng bản nguyên thế giới lửa, Pitagor cho rằng bản nguyên thế
giới là con số, Empeđốclơ cho rằng bản nguyên thế giới là đất, nước, lửa, không
khí.
Bước tiến trên con đường đi tìm một thực thể khả năng đại diện một cách
phổ quát hơn cho sự tồn tại của thế giới được đánh dấu bởi Anaximander. Ông
cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất
mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được ông gọi apeirôn. Sự
tương tác các mặt vốn có trong apeirôn tạo nên toàn bộ thế giới.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về
các nhà nguyên tử luận Lơxíp Đêmôcrít. Theo hai ông thì thực thể của thế
giới là nguyên tử.
Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt trong thế kỷ XVII XVIII, nền khoa học tự
nhiên thực nghiệm châu Âu, nhờ ứng dụng được những thành tựu của học
và toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, quan điểm siêu hình máy
móc vẫn chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi
hiện tượng của thế giới tự nhiên bằng sự tác động qua lại giữa lực hấp dẫn
lực đẩy của các phần tử của vật thể. Theo đó, thì các phân tử của vật trong quá
trình vận động cái bất biến. Cái thay đổi chỉ trạng thái không gian tập
hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự
phân biệt về lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí không
gian. Niềm tin vào các chân lý cơ học của Niutơn, đã khiến các nhà khoa học lúc
ấy đồng nhất vật chất với khối lượng. Vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của
3
vận động học. Nguồn gốc của vận động nằm bên ngoài vật chất, từ đó dẫn
đến thừa nhận cái hích của thượng đế.
1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những phát minh mới trong khoa
học tự nhiên, con người mới được những hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về
nguyên tử. Năm 1895, Rơnghen phát hiện tia X, một loại sóng điện từ hình
mắt thường không thể nhìn thấy được. Năm 1896, ccơren phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ. Quá trình phóng xạ, nguyên tố phóng xạ biến thành
nguyên tố khác. Điều đó chứng tỏ các nguyên tố hóa học không phải là bất biến
thể chuyển hóa lẫn nhau. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử
chứng minh điện tử một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử,
chứng tỏ nguyên tử không phải giới hạn cuối cùng. Nhờ phát minh này, lần
đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là khối lượng tĩnh mà thay đổi theo tốc độ vận động của nó.
Những thành tựu trên của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
làm cho các hiểu biết về vật chất đến thời điềm đó không còn chính xác, đúng
đắn. Yêu cầu đặt ra là, các nhà triết học duy vật biện chứng phải phát triển học
thuyết về vật chất dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên.
1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác khi quy vật chất
về một hay một vài dạng cụ thể của nó; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phân
biệt tính khái quát của phạm trù vật chất sự tồn tại vật chất những dạng cụ
thể; chỉ ra sự tồn tại khách quan; chỉ ra tính vô tận, hạn, tính không thể sáng
tạo ra không thể tiêu diệt được của vật chất; chỉ ra tính thống nhất của thế
giới tính vật chất của nó; chỉ ra các hình thức tồn tại của vật chất, đó
không gian, thời gian và phương thức tồn tại của vật chất là vận động.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ( tồn tại không lệ thuộc vào con người)
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
1
.
Những nội dung rút ra từ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất một phạm trù triết học (khái niệm rộng nhất) để phân biệt với
vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày, giới
1 Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.151.
4
hạn, có sinh ra có mất đi. Vật thể cụ thểnhững biểu hiện của vật chất (
sinh có diệt). Vật chất tận, hạn, không giới hạn, không được sinh ra
và không bị mất đi.
Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất thực tại khách quan, tức tồn tại
khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người.
Vật chất cái gây nên cảm giác con người khi bằng cách nào đó tác động
lên giác quan của con người. Thậm chí, đối tượng bằng dụng cụ khoa học
nhưng cũng chưa biết; nhưng nếu tồn tại khách quan, bên ngoài, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý thức của con người thể phản ánh được vật chất. (con người nhận thức
được vật chất)
*Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất đã giải quyết được vấn đề bản của triết học trên
quan điểm duy vật; khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất; xác nhận, chứng minh thêm cho tính triệt để của chủ nghĩa duy
vật Mácxít; ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm
kiếm những dạng hoặc các hình thức mới của vật chất.
1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất
Các phạm trù vận động, không gian, thời gian trả lời trực tiếp vấn đề vật chất
tồn tại bằng cách nào, tồn tại ở đâu?
Trong sự phân biệt với các khoa học chuyên biệt, triết học không nghiên cứu
những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất. Triết học chỉ
tập trung làm những đặc trưng phổ quát nhất của vận động của vật chất trong
không gian và thời gian.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, (trả lời câu hỏi vật
chất tồn tại bằng cách nào) vận động mọi sự biến đổi nói chung. Ăngghen
định nghĩa vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy.
5
Hộp 2.1. Vũ trụ vô cùng vô tận
2000 tỉ số thiên trong trụ. Con số này vẫn còn quá nhỏ, bởi chúng ta sẽ còn
phát hiện thêm nhiều thiên nữa nếu công nghệ trong tương lai phát triển hơn. Ước
tính có khoảng 100 - 400 tỉ ngôi sao được chứa ở trong 1 thiên hà, cùng với hơn 100 tỉ
hành tinh. Thiên Milky Way khoảng 100 tỷ ngôi sao. Nếu nhân với con s2000
tỉ thì sẽ khoảng ngôi sao trong toàn trụ. Ngôi sao như Mặt trời 200.000 tỷ tỷ
kích thước không lớn, nhưng có thể chứa được khoảng 1 triệu Trái Đất bên trong.
Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng. Mỗi giây ánh sáng có thể
đi được 30 vạn km và quãng đường của 1 năm ánh sáng khoảng 1 vạn tỉ km.
Nguồn: (Nhóm tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn)
Vận động thuộc tính vốn của vật chất, phương thức tồn tại của vật
chất. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận
động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Với cách là thuộc tính
bên trong, vốn của vật chất, nên vận động là sự tự vận động, được tạo nên do
sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Vật
chất không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với phương
thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
*Các hình thức cơ bản của vận động
Vận động cơ học: Là sự dịch chuyển của vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt điện…
Vận động hóa học: Là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp
phân giải các chất.
Vận động sinh học: Là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
Vận động hội: Sự thay đổi, thay thế của các quá trìnhhội, các hình thái
kinh tế xã hội.
Các hình thức vận động trên khác nhau về chất. Từ vận động học đến vận
động hội sự khác nhau về trình độ. Các hình thức vận động cao bao hàm
các hình thức vận động thấp nhưng không trường hợp ngược lại. Mỗi sự vật
thể gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc
trưng bằng một hình thức vận động cơ bản nhất.
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất, bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Đứng imsự vận động trạng thái cân bằng. Đó
trạng thái sự vật hiện tượng vẫn còn nó, chưa chuyển hóa thành cái khác.
Không hiện tượng đứng im tương đối thì không sự vật nào tồn tại được.
Ăngghen chỉ ra rằng vận động riêng biệt xu hướng chuyển thành cân bằng,
vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt.
* Không gian và thời gian
Ngay từ xa xưa người ta đã hiểu rằng, bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng
đều chiếm một vị trí nhất định, vào một khung cảnh nhất định trong tương
6
Hộp 2.2. Tự đứng lên
Khi sinh con, hươu cao cổ mẹ trong thế đứng. Hươu con chào đời bằng một rơi
hơn 3m xuống đất nằm ngay tại chỗ. Sau vài phút, hươu mẹ đá vào người con mình
cho đến khi chịu đứng dậy mới thôi. Mỏi chân, hươu con nằm, hươu mẹ lại thúc con
đứng lên. Cho đến khi thực sự đứng được, hươu mẹ lại đẩy cho con ngã để nó phải nỗ lực
tự đứng dậy trên đôi chân còn non nớt.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
quan về mặt kích thước so với các khách thể khác… các hình thức tồn tại như
vậy của vật thể được gọi là không gian.
Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn
được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của các hiện tượng; ở sự
kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật
được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Không gian thời gian gắn chặt chẽ với nhau, cả hai đều thuộc tính cố
hữu của vật chất. Chúng đều là hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian thời gian các tính chất: tính khách quan vật chất tồn tại
khách quan, tính vĩnh cữu tận, tính ba chiều của không gian tính một
chiều của thời gian.
1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận sự tồn
tại của nó làm tiền đề.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó thể hiện:
Thứ nhất, chỉ một thế giới duy nhất thống nhất thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều mối liên hệ thống nhất với
nhau. Biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, hạn tận, không bị sinh ra
không bị mất đi. Trong thế giới không khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau, nguồn gốc, nguyên nhân kết
quả của nhau.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức một thuộc tính của vật chất sống đặc biệt tổ chức cao, đó bộ
não của con người. Ý thức có hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội.
*Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm bộ óc của con người; sự tác động của
thế giới bên ngoài, của hoàn cảnh xung quanh lên bộ óc để bộ óc phản ánh. Ý
thức là chức năng của bộ óc. Hoạt động của ý thức diễn ra trên sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc.
Sự tác động của thế giới bên ngoài và bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. Phản
ánh sự lưu giữ tái tạo những đặc điểm của một sự vật này một sự vật
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Chỉ vật chất phát triển cao
7
bộ óc con người thì mới sinh ra ý thức, còn toàn bộ thế giới vật chất chỉ
năng lực phản ánh.
Các hình thức phản ánh
giới sinh hình thức phản ánh vật lý, hóa học. Hai loại phản ánh này
mang tính chất thụ động, chưa có sự chọn lọc, định hướng.
giới hữu sinh hình thức phản ánh sinh học. Loại phản ánh này đã sự
lựa chọn, định hướng để thích nghi với môi trường. Phản ánh sinh học thể hiện ở
tính kích thích trong cơ thể do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở
động vật hệ thần kinh. Những động vật cấp cao bộ não thì thể hiện hình
thức phản ánh tâm lý động vật.
Con người thể hiện trình độ phản ánh ý thức (phản ánh sáng tạo). Hình thức
phản ánh này chỉ nảy sinh và xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
*Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc hội của ý thức gồm lao động, ngôn ngữ cùng với những quan
hệ xã hội thể hiện trong 2 hình thức đó.
Chính thông qua hoạt động lao động con người mới có thể phản ánh được thế
giới khách quan, mới ý thức được về thế giới đó. Con người ý thức chính
nhờ con người chủ động tác động vào thế giới đó. Qua đó, con người khám phá
ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,
tưởng cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ, nói như
C.Mác, là cái vỏ vật chất của duy, hiện thực trực tiếp củatưởng. Không
có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếpquan trọng nhất quyết định sự ra đời phát
triển của ý thức lao động, thực tiễn hội. Ý thức sản phẩm hội,
một hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Hình ảnh đó không còn
nguyên vẹn đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu…) của con người.
Ý thức sự phản ánh hiện thực khách quan một cách năng động, sáng tạo.
Con người một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Sáng tạo của ý thức
sáng tạo của phản ánh, theo quy luật trong khuôn khổ của sự phản ánh,
kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không
đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên
cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức
8
Quá trình ý thức quá trình thống nhất của ba mặt sau: a) Sự trao đổi thông
tin giữa chủ thể đối tượng mang tính hai chiều, chọn lọc, định hướng; b)
hình hóa đối tượng trong duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, hóa các
đối tượng vật chất thành thành các ý tưởng tinh thần; c) Quá trình hiện thực hóa
mô hình trong tư duy thông qua họat động thực tiễn.
2.3. Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về
cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
*Kết cấu theo chiều ngang. Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… trong đó tri thức là nhân tố bản, cốt lõi. Tri thức
kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, sự phản ánh thế giới
khách quan.
Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới, nghĩa
phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức
mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con
người không chỉ đem lại sự hiểu biết về thế giới, còn đem lại tình cảm của
con người đối với thế giới. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người
và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri
thức biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc, phải thông qua tình cảm
thì tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của
mình.
*Kết cấu theo chiều dọc. Đó lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người. Nó bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính tự ý thức. Tự ý thức ý thức hướng về
bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhờ tự ý thức con
người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đề ra.
Tiềm thức những quyết định, hoạt động tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm
soát của lý trí dựa trên những kinh nghiệm, hành động lặp lại nhiều lần.
Vô thức là các quá trình trong tâm trí diễn ra một cách tự động không phải do
trí điều khiển. Lĩnh vực thức lĩnh vực của các hiện tượng tâm nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó..
* Vấn đề "trí tuệ nhân tạo"
Ý thức máy tính điện tử hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người
máy thông minh" chỉ những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn
con người một thực thể hội năng động, được hình thành trong tiến trình
9
lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy móc không thể
sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ
con người ý thức mới thực hiện được qua đó lập trình cho máy móc thực
hiện.
Hộp 2.3. Nghĩ về trí tuệ nhân tạo
Anh/ Chị cảm thấy như thế nào khi biết truyện ngắn cùng thi vị đượm buồn, làm
Anh/ Chị rất xúc động, lại được viết bởi trí tuệ nhân tạo?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ bản sao, biểu hiện khác của ý
thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính
độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò
to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất ý thức mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức thể hiện:
- Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, nên ý thức - một thuộc tính của
bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
- Ý thức cái phản ánh thế giới vật chất, hình ảnh về thế giới vật chất nên
nội dung của nó do vật chất quyết định.
- Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
- Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được biểu hiện ở vai
trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại hội đối với ý thức hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến
cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm
muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Ý thức thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng
nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
10
- Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Vai trò của ý thức thể hiệnchỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai
hành động do tư tưởng chỉ đạo.
- hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhấttrong
thời đại kinh tế tri thức, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo qui
luật khách quan. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, phải xuất phát
từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
- Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, không được gán cho
đối tượng cái mà nó không có.
- Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản
thân sự vật hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ vốn của nó, tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng.
- Phải coi trọng vai trò của ý thức, phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại,
bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Triết học Mác - Lênin, định nghĩa học thuyết về các mốiPhép biện chứng
liên hệ phổ biến về sự phát triển; khoa học về các quy luật vận động
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
11
Hộp 2.4. Nhà vua với đôi chân đau
Ngày xưa, vị vua nọ cai trị ở một vương quốc phồn vinh. Ngày kia, sau khi ngao du sơn thủy, lúc
trở lại hoàng cung, vị vua phàn nàn chân mình rất đau, bởi vì đây lần đầu tiên ông phải trải qua một
cuộc hành trình dài và chặng đường rất gồ ghề, lởm chởm đá. Sau đó, vị vua hạ lệnh:
- Cho bọc da tất cả con đường trong vương quốc của ta. Chúng ta cần hàng ngàn bộ da bò nhiều
công sức để làm. Người nữ hầu nghe vậy, nói:
- Bệ hạ đâu cần tốn kém, vất vả nhiều thế. Chỉ cần dùng một miếng da nhỏ để bọc hai bàn chân của
ngài lại là được thôi mà.
Nhà vua ngạc nhiên, nhưng rồi ông cũng đồng ý làm một đôi giày.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Biện chứngquan điểm, phương pháp xem xét sự vật trong mối quan hệ qua
lại, trong sự ràng buộc, vận động, phát sinh tiêu vong của chúng. Phương
pháp duy này không chỉ nhìn thấy sự tồn tại còn nhìn thấy cả sự sinh
thành tiêu vong; không chỉ thấy trạng thái tĩnh còn thấy trạng thái động,
không chỉ “thấy cây” mà còn “thấy rừng”.
Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế
giới vật chất. Trong lĩnh vực hội, biện chứng khách quan chính mối quan
hệ qua lại giữa xã hội và tự nhiên, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của xã hội đều mang
tính kế thừa và là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Biện chứng chủ quan khái niệm dùng để duy biện chứng biện chứng
của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Biện
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh
những quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan biện chứng chủ quan mối quan hệ thống
nhất với nhau. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện
chứng chủ quan. Bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng
như thế nào thì duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh
đúng như thế ấy.
Tính độc lập tương đối của biện chứng chủ quan với biện chứng khách quan
được thể hiện chỗ quá trình duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy
luật mang tính mục đích và sáng tạo của con người.
1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Một cách khái quát, phép biện chứng học thuyết về các mối liên hệ phổ
biến về sự phát triển; khoa học về các quy luật vận động phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng sự khác nhau với phương pháp biện chứng. Phương pháp
biện chứng hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức hoạt
động cải tạo thực tiễn xuất phất từ lý luận biện chứng.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu
giữa thế giới quan duy vật phương pháp luận biện chứng; giữa luận nhận
thức và lôgíc biện chứng.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự
giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra
các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
12
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật trạng thái tồn tại
tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể
hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong
trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau luôn vận động, phát
triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát
triển?...
Để trả lời các câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù ba quy luật bản. Hai nguyên khái quát
chung tính biện chứng của thế giới. Các cặp phạm trù phản ánh mối liên hệ, sự
tác động biện chứng phổ biến nhất giữa các mặt của sự vật, hiện tượng tính
quy luật trong từng cặp. Các quy luật bản nghiên cứu mối liên hệ khuynh
hướng phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách
thức và khuynh hướng của sự vận động, phát triển của thế giới ấy.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm về mối liên hệ
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong mối liên hệ qua lại thì nhân tốquy
định mối liên hệ ấy?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng
trong thế giới tồn tại tách rời nhau. Giữa chúng không sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau. chăng chỉ những liên hệ hời hợt, bên ngoài, ngẫu nhiên;
phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Theo quan điểm này thì hội chỉ là tập hợp đơn giản của những cá thể, giới tự
nhiên vô sinh độc lập với giới tự nhiên hữu sinh…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất.
Các sự vật hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó, vừa tách biệt nhau, vừa
sự liên hệ tác động qua lại, thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau. Chính
sự tác động giữa nhân mới cần có hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi. Các
nhân tố sinh thái sinh ảnh hưởng tới trạng thái sinh của các thể như khi
nhiệt độ xuống quá thấp làm chết nhiều động vật biến nhiệt như ếch nhái, bò sát.
Trả lời câu hỏi thứ hai, quan điểm duy tâm cho rằng cơ sở của mối liên hệ, tác
động qua lại giữa các sự vật hiện tượng nằm ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở
ý thức, tư tưởng của con người. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định cơ sở
của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng tính thống nhất vật chất của thế
13
giới. Các sự vật, hiện tượng dù có khác nhau thì chúng đều là những dạng tồn tại
của thế giới vật chất. Ngay cả tưởng, ý thức thì nội dung của chúng cũng chỉ
là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Mối liên hệ sự ràng buộc, tác động hỗ trợ, quy định lẫn nhau giữa các yếu
tố trong một sự vật hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Mối
liên hệ phổ biến là mối liên hệ có ở nhiều sự vật hiện tượng.
*Những tính chất của mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan: sự tồn tại của mối liên hệ không phụ thuộc vào ý thức,
duy của con người. Con người chỉ thể nhâ n thức n dụng mối liên đó
vào thực tiễn, hoạt đô ng của mình.
Tính phổ biến: bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng mối liên hệ với sự vật
hiện tượng khác. Tùy theo điều kiện nhất định, mối liên hệ biểu hiện dưới những
hình thức riêng biệt, cụ thể.
Tính đa dạng: có các mối liên hệ bên trong- bên ngoài, mối liên hệ chủ
yếu -thứ yếu, mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới - mối liên hệ bao quát
một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó; có mối liên hệ trực
triếp - gián tiếp Sự vật nào cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn,
giữa các giai đoạn cũng có mối liên hệ với nhau.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Khi nhận thức sự vật phải đặt đối tượng trong chỉnh thể mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự
vật đó, tránh phiến diện.
Phải phân loại đúng các mối liên hệ, rút ra được các mặt, các mối liên hệ bản
chất, tất yếu của đối tượng, trên sở đó tác động đến đối tượng một cách phù
hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến lên.
Để cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp các mối liên hệ
khác nhau thì yêu cầu về giải pháp khác nhau.
các mối liên hệ tồn tại, thể hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
gắn với không gian, thời gian cụ thể nên trong hoạt động nhận thức thực tiễn
phải đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận
chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đối lập với quan điểm giáo điều, chung chung, phiến
diện, không có trọng tâm, trọng điểm.
14
Hộp 2.5. Vòng luẩn quẩn của các nước nghèo
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
*Khái niệm phát triển
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình nảy sinh khi trả lời câu hỏi: sự
phát triển diễn ra như thế nào, bằng cách nào. Quan điểm duy vật quan điểm
duy tâm nảy sinh khi trả lời câu hỏi: cái gì là nguồn gốc của sự phát triển?
Quan điểm siêu hình cho rằng, phát triển của sự vật chỉ sự tăng lên hay
giảm đi về lượng, không sự thay đổi về mặt chất; nếu sự thay đổi về mặt
chất thì sự thay đổi đó cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không sự ra
đời cái mới. Sự phát triển chỉ một quá trình tiến lên liên tục, không có những
bước quanh co, phức tạp. Trong toàn bộ quá trình tồn tại, các sự vật nhất thành
bất biến.
Khi đề cập tới nguồn gốc phát triển, quan điểm duy tâm thường tìm nguồn
gốc đó ở các lực lượng siêu tự nhiên, hoặc ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: phát triển một phạm trù triết học
dùng để khái quát những quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự vận động, nếu xem xét từng trường hợp biệt thì những vận động đi
lên, vận động tuần hoàn, thậm chí vận động đi xuống. Song, nếu xét cả quá
trình với không gian rộng và thời gian dài, thì vận động đi lên khuynh hướng
chung của mọi sự vật. Theo quan điểm duy vật biện chứng, thì phát triển một
trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của
mối liên hệ; làm cho cả cấu tổ chức, phương thức tồn tại, vận động của sự
vật, cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Cũng chính vì vậy
mà sự phát triển không tính trực tuyến, diễn ra bằng con đường quanh co,
phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự
vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận
động, phát triển của sự vật.
15
Thu nhập thấp
Tích lũy thấp
Trình độ kỹ thuật
thấp
Năng suất thấp
Tiêu dùng thấp
Nguồn: <https://chienluocsong.com/kinh-te-phat-trien-p2-vong-luan-quan/>
*Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan: phát triển thuộc tính vốn của sự vật, nguồn gốc của
phát triển nằm ngay trong sự vật, do vào mâu thuẫn bên trong sự vật quy định,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Khuynh hướng phát triển diễn ramọi lúc, mọi nơi, cả trong
tự nhiên, hội duy. Trong giới cơ, phát triển biểu hiện dưới hình thức
biến đổi các yếu tố làm xuất hiện các hợp chất. Trong sinh vật phát triển thể hiện
ở khả năng thích nghi trước sự biến đổi của môi trường. Trong hội phát triển
thể hiện sự thay thế các phương thức sản xuất, các nền văn minh. Trong
duy, phát triển thể hiện chỗ những giới hạn nhận thức của thế hệ trước được
thế hệ sau giải quyết.
Tính đa dạng, phong phú: phát triển khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng, song từng sự vật lại có quá trình không giống nhau. Tồn tại ở không
gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ không như nhau. Trong quá trình
phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng, của những yếu
tố, điều kiện khác. Sự tác động như thế, thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức hành động, chủ thể phải tuân thủ nguyên tắc phát triển,
tránh tưởng bảo thủ, trì trệ, đặt sự vật trạng thái đứng im, không vận động,
không phát triển. Sở như vậy vận động bản chất khách quan của các quá
trình tự nhiên, xã hội, tư duy.
Nhờ đặt đối tượng trong trạng thái vận động, ta thể phát hiện ra các xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng; phán đoán, nhận định được khuynh //
trong tương lai của sự vật, cả những tính quanh co phức tạp như một hiện tượng
phổ biến của quá trình phát triển. như vậy con người mới chủ động trong
hoạt động, tránh được rủi ro, thất bại. Nghĩa là, con người tự giác trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của mình.
Quan điểm phát triển cũng đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, dễ
bằng lòng với thực tại, ngại đổi mới. Vì phát triển diễn ra trong tiến trình quanh
co, phức tạp nên trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp khó
khăn, thất bại cần sự kiên định, giữ vững lập trường, vượt qua trở ngại, tin tưởng
vào tương lai phía trước.
16
Hộp 2.6. Con đường phát triển bản thân
2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phạm trù những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, bản nhất của các sự vật hiện tượng thuộc
một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm
vi khoa học đó nghiên cứu. dụ, trong toán học phạm trù số, hình, điểm,
mặt phẳng, v.v… Trong vật lý học các phạm trù khối lượng, vận tốc, gia tốc,
lực, v.v… Trong kinh tế họccác phạm trù hàng hóa, giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi
nhuận, v.v…
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như , , ,vật chất ý thức vận động
đứng im mâu thuẫn số lượng chất lượng nguyên nhân kết quả, , , , , , v.v. những
khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
bản phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, hội
và tư duy.
Mọi sự vật, hiện tượng đều nguyên nhân xuất hiện, đều quá trình vận
động, biến đổi, đều mâu thuẫn, nội dung hình thức.v.v.; tức đều
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm
trù của phép biện chứng duy vật. Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể
phạm trù của phép biện chứng mối quan hệ biện chứng với nhau, đó
mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Với cách khoa học về mối liên hệ phổ biến sự phát triển, phép biện
chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự
17
Đưa ra mục tiêu
ngắn/ dài hạn
Gắn kết mục tiêu
cá nhân với:
- Mục tiêu tổ chức
- Hướng phát triển
Áp dụng:
Kiến thức
Kỹ năng và
Rèn luyện
Chịu áp lực, chấp nhận
thử thách. Tự đánh giá:
điểm mạnh, yếu
Thử thách với
các dự án mới
Làm việc nhóm, chia sẻ
ý tưởng, có thêm kỷ
năng mới, kiến thức mới
Được nhìn nhận
khả năng bản thân
Đánh giá
thành quả
Cơ hội
thăng tiến
Đặt các mục
tiêu mới
Hiểu rõ
bản thân
Nguồn: (Sưu tầm có hiệu chỉnh)
nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng và cái chung,
nguyên nhân kết quả, tất nhiên ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản
chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
2.2.1. Cái riêng, cái chung
* Khái niệm
Cái riêng phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
nhất định. Chẳng hạn, một hiện tượng kinh tế, một giai đoạn hội, một con
người…
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có ở
nhiều sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, cạnh tranh thuộc tính chung của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Cái đơn nhấtphạm trù dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn ở một
sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó không lặp lại sự vật, hiện tượng
nào khác. Như vậy cái đơn nhất dấu hiệu đặc trưng của cái riêng. Chẳng hạn,
nhãn hiệu của mỗi doanh nghiệp là cái đơn nhất của doanh nghiệp đó.
*Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
Trong lịch sử triết học có hai trường phái trái ngược nhau khi nói về mối quan
hệ giữa cái cái riêng cái chung. Các nhà duy danh khẳng định rằng chỉ
những cái biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, phủ nhận sự thực tồn
của những cái phổ quát. Ngược lại, trường phái duy thực quả quyết những cái
chung, phổ quát mới thực sự tồn tại. Còn những cái riêng, đặc thù vốn hiện
thân của cái chung.
Về mối quan hệ giữa cái riêng cái chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nghĩa
cái chung thực sự tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, chứ không tồn tại biệt
lập, bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn, trong sản xuất hàng hóa, quy luật cung
cầu chỉ tồn tại thông qua tổng thể các hoạt động bán (cung) và mua (cầu) trên thị
trường.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Nghĩa cái
riêng tồn tại độc lập nhưng không biệt lập với cái khác. luôn tồn tại trong
một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh
ấy. Do vậy, đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các
sự vật, hiện tượng khác liên quan. Chẳng hạn, hiện tượng khủng hoảng kinh
tế tại một quốc gia, người nghiên cứu thể tả những biểu hiện riêng như
tình trạng cụ thể của nền kinh tế, các quan hệ hội - chính trị. Song, đằng sau
18
những cái riêng đó những cái chung mang tính quy luật gắn với khủng hoảng
kinh tế như tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp, sự phá sản…
Thứ ba, cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó là cái chỉnh thể, toàn bộ; cái
chung thì sâu sắc hơn cái riêng thể hiện những thuộc tính, đặc điểm ổn
định, lặp lại mang tính bản chất của một tập hợp nhiều sự vật hiện tượng. Chẳng
hạn, trong cùng một lĩnh vực, mỗi doanh nghiệp một cái riêng. Sự biểu hiện
trong hoạt động của chúng hết sức đa dạng, phong phú, nhưng tổng thể hoạt
động của các doanh nghiệp tạo ra những quy luật, đặc trưng của lĩnh vực đó.
Thứ tư, trong quá trình phát triển của sự vật, cái đơn nhất cái chung thể
chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung biểu
hiện của cái mới tích cực, đáp ứng yêu cầu vận động phát triển, thay thế cái
đang lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Chẳng hạn, các phát minh, sáng
tạo lúc mới xuất hiện luôn là cái đơn nhất. Ngược lại, sự chuyển hóa của chung
thành cái đơn nhất biểu hiện của cái cái chung đã trở nên lỗi thời nên dần bị
đào thải thành cái đơn nhất. Chẳng hạn, các phong tục tập quán không còn phù
hợp sẽ bị đào thải và dần mất đi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
cái chung cái bộ phận, chỉ tồn tại thông qua cái riêng nên khi áp dụng
“cái chung” nào vào từng trường hợp riêng cần phải cá biệt hóa nó cho phù hợp.
Chẳng hạn, thuyết về quản kinh tế, tùy theo trình độ, điều kiện đặc thù
của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực mà sẽ được vận dụng không giống nhau. Ngược
lại, nếu chỉ chú ý, đề cao đến “cái đơn nhất” thì sẽ rời vào cục bộ, bảo thủ.
Khi giải quyết những vấn đề riêng trong thực tiễn, cần phải đặt trên nền tảng
những nguyên tắc chung. Nghĩa không được bỏ qua các vấn đề, nếu không sẽ
rơi vào tình trạng tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Chẳng hạn, Việt Nam thể
tham khảo cũng như rút kinh nghiệm từ các hình quản giám sát tài sản
nhà nước của một số nước môi trường, thể chế kinh tế nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam.
Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái
chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để phổ biến những hiện tượng hợp quy luật
hoặc triệt tiêu những nhân tố trì trệ, không phù hợp sẽ ý nghĩa thúc đẩy sự
phát triển. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu các sở,
ban, ngành và Ủy ban nhân dân quậnhuyện tham khảo các mô hình sáng kiến,
cách làm hay trong công tác cải cách hành chính tại một số quan, đơn vị để
áp dụng nhân rộng cho phù hợp với tình hình thực tế tại cơ quan, địa bàn mình.
19
Hộp 2.7. Mô hình các yếu tố cấu thành sản phẩm trong marketing quốc tế
Bảo hành
DỊCH VỤ HỖ TRỢ
Hướng dẫn sử dụng
BAO BÌ SẢN PHẨM
Nhãn
hiệu
thương
mại
Tên thương
hiệu
SẢN PHẨM CỐT LÕI
Thiết bị lắp đặt
Phụ tùng
thay thế
[1] Đặc điểm,
chức năng
[3] Phong cách
sản phẩm
Chất lượng
[2] Thiết kế
sản phẩm
[4] Hình thức
trình bày Giá cả
Dịch vụ sau bán hàng
2.2.2. Nguyên nhân và kết quả
*Khái niệm
Nguyên nhân sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả
những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên
nhân gây nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ chỉ tồn tại trong xã
hội. Vì những do nhất định, để giải quyết hoặc thực hiện mục đích của mình,
chủ thể thực hiện đã che đậy nguyên nhân đích thực sử dụng nguyên cớ làm
nguyên nhân. Do vậy, nguyên cớ không tạo ra kết quả. Điều kiện cũng không
sinh ra kết quả nhưng nếu thiếu nó thì không xảy ra quan hệ nhân quả(sd nguyên
cớ để tạo ra nguyên nhân) . Chẳng hạn, pháp luật quy định, ngành, nghề đầu
kinh doanh có điều kiện là ngành, nghềviệc thực hiện hoạt động đầukinh
doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
*Một số tính chất của mối liên hệ nguyên nhân – kết quả
Tính khách quan: những mối liên hệ nhân quả những mối liên hệ vốn
của thế giới, tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng tồn tại đều nguyên nhân, luôn gắn
liền với quá trình vận động. Song, nhiều sự vật con người chưa tìm ra hoặc
tìm đúng nguyên nhân của chúng.
Tính tất yếu: mối liên hệ nhân quả bao giờ cũng mang tính quy luật. Tùy vào
tính chất của mối liên hệ tính quy luật đó thể hiện dưới nhiều mức độ khác
nhau. Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định
20
Nguồn: Nguyễn Thị Phương Dung (2020), Phân tích vai trò của chiến lược marketing sản
phẩm quốc tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế tại Việt Nam
<http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phan-tich-vai-tro-cua-chien-luoc-marketing-san-pham-
quoc-te-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-tai-viet-nam-73243.htm>
| 1/46

Preview text:

CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.......................................................................................3
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất.........................................................3
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.............................................................6
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức......................................................................10
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.........................................................................11
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật...................................11
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật..................................................................13
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG........35
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng....................................35
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức.......................................................................36
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức..............................................37
4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức...................................................................39
5. Tính chất của chân lý.............................................................................................41 1 Mục tiêu chương 2 Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được: vấn đề cơ bản của triết học, các phạm trù vật
chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian.
- Diễn đạt chính xác, cho được các dẫn chứng, ví dụ để làm sáng tỏ nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù, 3 quy luật cơ bản.
- Xác định đúng các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và vai trò của mỗi dạng đối với nhận thức.
- Phân biệt và kết nối được sự liên hệ trong các giai đoạn của quá trình nhận thức bằng các ví dụ. Về kỹ năng
- Biết đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái vận động, trong các mối liên hệ vốn có.
- Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích, giải thích bản chất một số sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể trong cuộc sống, trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội.
- Thiết lập và xây dựng các mối quan hệ gia đình, xã hội, công việc một cách chủ động, tích cực. Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá các sự vật, các vấn đề một cách khách quan trong sự vận
động, biến đổi; trong các mối liên hệ chung – riêng, nhân – quả, bản chất – hiện
tượng, khả năng – hiện thực… của sự vật, vấn đề đó, hạn chế sự suy luận phiến diện, cảm tính.
- Tự tin vào năng lực nhận thức, năng lực hoạt động của bản thân.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới quan
khoa học Mác - Lênin; là hệ thống lý luận, phương pháp luận được xác lập trên
cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề cơ bản của triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã
được giải thích một cách biện chứng trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lý
này, chỉ có một thế giới vật chất không ngừng vận động, thế giới vật chất có vô
số mối liên hệ, biến đổi, phát triển không ngừng. Nội dung của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển thể hiện trong ba quy luật và sáu cặp phạm trù. 2
Ý thức con người chỉ là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất, tác động trở
lại thế giới đó thông qua hoạt động thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật còn bao gồm lý luận nhận thức. Theo lý luận ấy, sự
phản ánh thế giới vật chất bởi con người với hai giai đoạn nhận thức là cảm tính
và lý tính. Cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn cũng
đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần. Đó có thể là ý chí thượng đế, “ý niệm
tuyệt đối”, hoặc những quan niệm có tính chất siêu nhiên…
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất. Trong
thời cổ đại đó là các quan niệm của Talét cho rằng bản nguyên thế giới là nước,
Heraclít cho rằng bản nguyên thế giới là lửa, Pitagor cho rằng bản nguyên thế
giới là con số, Empeđốclơ cho rằng bản nguyên thế giới là đất, nước, lửa, không khí.
Bước tiến trên con đường đi tìm một thực thể có khả năng đại diện một cách
phổ quát hơn cho sự tồn tại của thế giới được đánh dấu bởi Anaximander. Ông
cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và
mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và ông gọi là apeirôn. Sự
tương tác các mặt vốn có trong apeirôn tạo nên toàn bộ thế giới.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về
các nhà nguyên tử luận là Lơxíp và Đêmôcrít. Theo hai ông thì thực thể của thế giới là nguyên tử.
Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII, nền khoa học tự
nhiên – thực nghiệm châu Âu, nhờ ứng dụng được những thành tựu của cơ học
và toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, quan điểm siêu hình máy
móc vẫn chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi
hiện tượng của thế giới tự nhiên bằng sự tác động qua lại giữa lực hấp dẫn và
lực đẩy của các phần tử của vật thể. Theo đó, thì các phân tử của vật trong quá
trình vận động là cái bất biến. Cái thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập
hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự
phân biệt về lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí không
gian. Niềm tin vào các chân lý cơ học của Niutơn, đã khiến các nhà khoa học lúc
ấy đồng nhất vật chất với khối lượng. Vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của 3
vận động cơ học. Nguồn gốc của vận động nằm ở bên ngoài vật chất, từ đó dẫn
đến thừa nhận cái hích của thượng đế.
1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những phát minh mới trong khoa
học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về
nguyên tử. Năm 1895, Rơnghen phát hiện tia X, một loại sóng điện từ vô hình
mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ. Quá trình phóng xạ, nguyên tố phóng xạ biến thành
nguyên tố khác. Điều đó chứng tỏ các nguyên tố hóa học không phải là bất biến
mà có thể chuyển hóa lẫn nhau. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và
chứng minh điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử,
chứng tỏ nguyên tử không phải là giới hạn cuối cùng. Nhờ phát minh này, lần
đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là khối lượng tĩnh mà thay đổi theo tốc độ vận động của nó.
Những thành tựu trên của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
làm cho các hiểu biết về vật chất đến thời điềm đó không còn chính xác, đúng
đắn. Yêu cầu đặt ra là, các nhà triết học duy vật biện chứng phải phát triển học
thuyết về vật chất dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên.
1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác khi quy vật chất
về một hay một vài dạng cụ thể của nó; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phân
biệt tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại vật chất ở những dạng cụ
thể; chỉ ra sự tồn tại khách quan; chỉ ra tính vô tận, vô hạn, tính không thể sáng
tạo ra và không thể tiêu diệt được của vật chất; chỉ ra tính thống nhất của thế
giới là ở tính vật chất của nó; chỉ ra các hình thức tồn tại của vật chất, đó là
không gian, thời gian và phương thức tồn tại của vật chất là vận động.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ( tồn tại không lệ thuộc vào con người)
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem

lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác1
.
Những nội dung rút ra từ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là một phạm trù triết học (khái niệm rộng nhất) để phân biệt nó với
vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày, có giới
1 Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.151. 4
hạn, có sinh ra và có mất đi. Vật thể cụ thể là những biểu hiện của vật chất ( có
sinh có diệt)
. Vật chất là vô tận, vô hạn, không có giới hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.
Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thực tại khách quan, tức tồn tại
khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người.
Vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó tác động
lên giác quan của con người. Thậm chí, có đối tượng bằng dụng cụ khoa học
nhưng cũng chưa biết; nhưng nếu nó tồn tại khách quan, ở bên ngoài, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý thức của con người có thể phản ánh được vật chất. (con người nhận thức được vật chất)
*Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên
quan điểm duy vật; khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất; xác nhận, chứng minh thêm cho tính triệt để của chủ nghĩa duy
vật Mácxít; có ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm
kiếm những dạng hoặc các hình thức mới của vật chất.
Hộp 2.1. Vũ trụ vô cùng vô tận
2000 tỉ là số thiên hà trong vũ trụ. Con số này vẫn còn quá nhỏ, bởi chúng ta sẽ còn
phát hiện thêm nhiều thiên hà nữa nếu công nghệ trong tương lai phát triển hơn. Ước
tính có khoảng 100 - 400 tỉ ngôi sao được chứa ở trong 1 thiên hà, cùng với hơn 100 tỉ
hành tinh. Thiên hà Milky Way có khoảng 100 tỷ ngôi sao. Nếu nhân với con số 2000
tỉ thì sẽ có khoảng 200.000 tỷ
tỷ ngôi sao trong toàn vũ trụ. Ngôi sao như Mặt trời có
kích thước không lớn, nhưng có thể chứa được khoảng 1 triệu Trái Đất bên trong.
Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng. Mỗi giây ánh sáng có thể
đi được 30 vạn km và quãng đường của 1 năm ánh sáng khoảng 1 vạn tỉ km.
Nguồn: (Nhóm tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn)
1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất
Các phạm trù vận động, không gian, thời gian trả lời trực tiếp vấn đề vật chất
tồn tại bằng cách nào, tồn tại ở đâu?
Trong sự phân biệt với các khoa học chuyên biệt, triết học không nghiên cứu
những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất. Triết học chỉ
tập trung làm rõ những đặc trưng phổ quát nhất của vận động của vật chất trong không gian và thời gian.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, (trả lời câu hỏi vật
chất tồn tại bằng cách nào) vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ăngghen
định nghĩa vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. 5
Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất, là phương thức tồn tại của vật
chất. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận
động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Với tư cách là thuộc tính
bên trong, vốn có của vật chất, nên vận động là sự tự vận động, được tạo nên do
sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Vật
chất không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với phương
thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
*Các hình thức cơ bản của vận động
Vận động cơ học: Là sự dịch chuyển của vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: Là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt điện…
Vận động hóa học: Là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.
Vận động sinh học: Là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội, các hình thái kinh tế xã hội.
Các hình thức vận động trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ. Các hình thức vận động cao bao hàm
các hình thức vận động thấp nhưng không có trường hợp ngược lại. Mỗi sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc
trưng bằng một hình thức vận động cơ bản nhất.
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất, bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Đứng im là sự vận động ở trạng thái cân bằng. Đó là
trạng thái mà sự vật hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành cái khác.
Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
Ăngghen chỉ ra rằng vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng,
vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt.
Hộp 2.2. Tự đứng lên
Khi sinh con, hươu cao cổ mẹ trong tư thế đứng. Hươu con chào đời bằng một cú rơi
hơn 3m xuống đất và nằm ngay tại chỗ. Sau vài phút, hươu mẹ đá vào người con mình
cho đến khi nó chịu đứng dậy mới thôi. Mỏi chân, hươu con nằm, hươu mẹ lại thúc con
đứng lên. Cho đến khi thực sự đứng được, hươu mẹ lại đẩy cho con ngã để nó phải nỗ lực
tự đứng dậy trên đôi chân còn non nớt.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)
* Không gian và thời gian
Ngay từ xa xưa người ta đã hiểu rằng, bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng
đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương 6
quan về mặt kích thước so với các khách thể khác… các hình thức tồn tại như
vậy của vật thể được gọi là không gian.
Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn
được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của các hiện tượng; ở sự
kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật
được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau, cả hai đều là thuộc tính cố
hữu của vật chất. Chúng đều là hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian và thời gian có các tính chất: tính khách quan vì vật chất tồn tại
khách quan, tính vĩnh cữu và vô tận, tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận sự tồn
tại của nó làm tiền đề.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó thể hiện:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau. Biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không bị sinh ra
và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là một thuộc tính của vật chất sống đặc biệt có tổ chức cao, đó là bộ
não của con người. Ý thức có hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội.
*Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm bộ óc của con người; sự tác động của
thế giới bên ngoài, của hoàn cảnh xung quanh lên bộ óc để bộ óc phản ánh. Ý
thức là chức năng của bộ óc. Hoạt động của ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc.
Sự tác động của thế giới bên ngoài và bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. Phản
ánh là sự lưu giữ và tái tạo những đặc điểm của một sự vật này ở một sự vật
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có vật chất phát triển cao 7
là bộ óc con người thì mới sinh ra ý thức, còn toàn bộ thế giới vật chất chỉ có năng lực phản ánh.
Các hình thức phản ánh
Ở giới vô sinh có hình thức phản ánh vật lý, hóa học. Hai loại phản ánh này
mang tính chất thụ động, chưa có sự chọn lọc, định hướng.
Ở giới hữu sinh có hình thức phản ánh sinh học. Loại phản ánh này đã có sự
lựa chọn, định hướng để thích nghi với môi trường. Phản ánh sinh học thể hiện ở
tính kích thích trong cơ thể do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở
động vật có hệ thần kinh. Những động vật cấp cao có bộ não thì thể hiện hình
thức phản ánh tâm lý động vật.
Con người thể hiện trình độ phản ánh ý thức (phản ánh sáng tạo). Hình thức
phản ánh này chỉ nảy sinh và xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. *Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức gồm lao động, ngôn ngữ cùng với những quan
hệ xã hội thể hiện trong 2 hình thức đó.
Chính thông qua hoạt động lao động con người mới có thể phản ánh được thế
giới khách quan, mới có ý thức được về thế giới đó. Con người có ý thức chính
nhờ con người chủ động tác động vào thế giới đó. Qua đó, con người khám phá
ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,
tư tưởng cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ, nói như
C.Mác, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không
có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hình ảnh đó không còn
nguyên vẹn mà đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu…) của con người.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách năng động, sáng tạo.
Con người là một thực thể xã hội năng động và sáng tạo. Sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà
kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không
đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên
cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức 8
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau: a) Sự trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng mang tính hai chiều, có chọn lọc, định hướng; b)
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, mã hóa các
đối tượng vật chất thành thành các ý tưởng tinh thần; c) Quá trình hiện thực hóa
mô hình trong tư duy thông qua họat động thực tiễn.
2.3. Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về
cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
*Kết cấu theo chiều ngang. Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức
là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan.
Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới, nghĩa là
phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức
ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con
người không chỉ đem lại sự hiểu biết về thế giới, mà còn đem lại tình cảm của
con người đối với thế giới. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người
và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri
thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc, và phải thông qua tình cảm
thì tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
*Kết cấu theo chiều dọc. Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người. Nó bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Tự ý thức là ý thức hướng về
bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhờ có tự ý thức con
người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đề ra.
Tiềm thức là những quyết định, hoạt động tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm
soát của lý trí dựa trên những kinh nghiệm, hành động lặp lại nhiều lần.
Vô thức là các quá trình trong tâm trí diễn ra một cách tự động không phải do
lý trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực của các hiện tượng tâm lý nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó..
* Vấn đề "trí tuệ nhân tạo"
Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người
máy thông minh" chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn
con người là một thực thể xã hội năng động, được hình thành trong tiến trình 9
lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy móc không thể
sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có
con người có ý thức mới thực hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực hiện.
Hộp 2.3. Nghĩ về trí tuệ nhân tạo
Anh/ Chị cảm thấy như thế nào khi biết truyện ngắn vô cùng thi vị và đượm buồn, làm
Anh/ Chị rất xúc động, lại được viết bởi trí tuệ nhân tạo?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý
thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính
độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò
to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức thể hiện:
- Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, nên ý thức - một thuộc tính của
bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
- Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên
nội dung của nó do vật chất quyết định.
- Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
- Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được biểu hiện ở vai
trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến
cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm
muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng
nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất. 10
- Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai vì
hành động do tư tưởng chỉ đạo.
- Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại kinh tế tri thức, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo qui
luật khách quan. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, phải xuất phát
từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
- Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, không được gán cho
đối tượng cái mà nó không có.
- Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản
thân sự vật hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ vốn có của nó, tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng.
- Phải coi trọng vai trò của ý thức, phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại,
bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo.
Hộp 2.4. Nhà vua với đôi chân đau
Ngày xưa, có vị vua nọ cai trị ở một vương quốc phồn vinh. Ngày kia, sau khi ngao du sơn thủy, lúc
trở lại hoàng cung, vị vua phàn nàn chân mình rất đau, bởi vì đây lần đầu tiên ông phải trải qua một
cuộc hành trình dài và chặng đường rất gồ ghề, lởm chởm đá. Sau đó, vị vua hạ lệnh:
- Cho bọc da tất cả con đường trong vương quốc của ta. Chúng ta cần hàng ngàn bộ da bò và nhiều
công sức để làm.
Người nữ hầu nghe vậy, nói:
- Bệ hạ đâu cần tốn kém, vất vả nhiều thế. Chỉ cần dùng một miếng da nhỏ để bọc hai bàn chân của
ngài lại là được thôi mà.
Nhà vua ngạc nhiên, nhưng rồi ông cũng đồng ý làm một đôi giày.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại) II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Triết học Mác - Lênin, định nghĩa Phép biện chứng là học thuyết về các mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật 11
1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Biện chứng
là quan điểm, phương pháp xem xét sự vật trong mối quan hệ qua
lại, trong sự ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của chúng. Phương
pháp tư duy này không chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà còn nhìn thấy cả sự sinh
thành và tiêu vong; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái động,
không chỉ “thấy cây” mà còn “thấy rừng”.
Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế
giới vật chất. Trong lĩnh vực xã hội, biện chứng khách quan chính là mối quan
hệ qua lại giữa xã hội và tự nhiên, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của xã hội đều mang
tính kế thừa và là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng để tư duy biện chứng và biện chứng
của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Biện
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh
những quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống
nhất với nhau. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện
chứng chủ quan. Bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng
như thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh đúng như thế ấy.
Tính độc lập tương đối của biện chứng chủ quan với biện chứng khách quan
được thể hiện ở chỗ quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy
luật mang tính mục đích và sáng tạo của con người.
1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Một cách khái quát, phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ phổ
biến và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng có sự khác nhau với phương pháp biện chứng. Phương pháp
biện chứng là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động cải tạo thực tiễn xuất phất từ lý luận biện chứng.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận
thức và lôgíc biện chứng.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự
giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra
các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. 12
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có
tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể
hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong
trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và luôn vận động, phát
triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển?...
Để trả lời các câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Hai nguyên lý khái quát
chung tính biện chứng của thế giới. Các cặp phạm trù phản ánh mối liên hệ, sự
tác động biện chứng phổ biến nhất giữa các mặt của sự vật, hiện tượng có tính
quy luật trong từng cặp. Các quy luật cơ bản nghiên cứu mối liên hệ và khuynh
hướng phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách
thức và khuynh hướng của sự vận động, phát triển của thế giới ấy.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm về mối liên hệ
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong mối liên hệ qua lại thì nhân tố gì quy định mối liên hệ ấy?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng
trong thế giới tồn tại tách rời nhau. Giữa chúng không có sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau. Có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bên ngoài, ngẫu nhiên;
phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Theo quan điểm này thì xã hội chỉ là tập hợp đơn giản của những cá thể, giới tự
nhiên vô sinh độc lập với giới tự nhiên hữu sinh…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất.
Các sự vật hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó, vừa tách biệt nhau, vừa
có sự liên hệ tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Chính vì có
sự tác động giữa cá nhân mới cần có hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi. Các
nhân tố sinh thái vô sinh ảnh hưởng tới trạng thái sinh lí của các cá thể như khi
nhiệt độ xuống quá thấp làm chết nhiều động vật biến nhiệt như ếch nhái, bò sát.
Trả lời câu hỏi thứ hai, quan điểm duy tâm cho rằng cơ sở của mối liên hệ, tác
động qua lại giữa các sự vật hiện tượng nằm ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở
ý thức, tư tưởng của con người. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định cơ sở
của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế 13
giới. Các sự vật, hiện tượng dù có khác nhau thì chúng đều là những dạng tồn tại
của thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức thì nội dung của chúng cũng chỉ
là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Mối liên hệ là sự ràng buộc, tác động hỗ trợ, quy định lẫn nhau giữa các yếu
tố trong một sự vật hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Mối
liên hệ phổ biến là mối liên hệ có ở nhiều sự vật hiện tượng.
*Những tính chất của mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan:
sự tồn tại của mối liên hệ không phụ thuộc vào ý thức, tư
duy của con người. Con người chỉ có thể nhâ ” n thức và vâ ” n dụng mối liên hê ” đó
vào thực tiễn, hoạt đô ” ng của mình.
Tính phổ biến: bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên hệ với sự vật
hiện tượng khác. Tùy theo điều kiện nhất định, mối liên hệ biểu hiện dưới những
hình thức riêng biệt, cụ thể.
Tính đa dạng: vì có các mối liên hệ bên trong- bên ngoài, có mối liên hệ chủ
yếu -thứ yếu, mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới - có mối liên hệ bao quát
một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó; có mối liên hệ trực
triếp - gián tiếp … Sự vật nào cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn,
giữa các giai đoạn cũng có mối liên hệ với nhau.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Khi nhận thức sự vật phải đặt đối tượng trong chỉnh thể mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự
vật đó, tránh phiến diện.
Phải phân loại đúng các mối liên hệ, rút ra được các mặt, các mối liên hệ bản
chất, tất yếu của đối tượng, trên cơ sở đó tác động đến đối tượng một cách phù
hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến lên.
Để cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp vì các mối liên hệ
khác nhau thì yêu cầu về giải pháp khác nhau.
Vì các mối liên hệ tồn tại, thể hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
gắn với không gian, thời gian cụ thể nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
phải đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận
chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đối lập với quan điểm giáo điều, chung chung, phiến
diện, không có trọng tâm, trọng điểm. 14
Hộp 2.5. Vòng luẩn quẩn của các nước nghèo Thu nhập thấp Năng suất thấp Tiêu dùng thấp Tích lũy thấp Trình độ kỹ thuật thấp Nguồn:
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển *Khái niệm phát triển
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình nảy sinh khi trả lời câu hỏi: sự
phát triển diễn ra như thế nào, bằng cách nào. Quan điểm duy vật và quan điểm
duy tâm nảy sinh khi trả lời câu hỏi: cái gì là nguồn gốc của sự phát triển?
Quan điểm siêu hình cho rằng, phát triển của sự vật chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi về lượng, không có sự thay đổi về mặt chất; nếu có sự thay đổi về mặt
chất thì sự thay đổi đó cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự ra
đời cái mới. Sự phát triển chỉ là một quá trình tiến lên liên tục, không có những
bước quanh co, phức tạp. Trong toàn bộ quá trình tồn tại, các sự vật nhất thành bất biến.
Khi đề cập tới nguồn gốc phát triển, quan điểm duy tâm thường tìm nguồn
gốc đó ở các lực lượng siêu tự nhiên, hoặc ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát những quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự vận động, nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi
lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song, nếu xét cả quá
trình với không gian rộng và thời gian dài, thì vận động đi lên là khuynh hướng
chung của mọi sự vật. Theo quan điểm duy vật biện chứng, thì phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của
mối liên hệ; làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại, vận động của sự
vật, cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Cũng chính vì vậy
mà sự phát triển không có tính trực tuyến, nó diễn ra bằng con đường quanh co,
phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự
vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận
động, phát triển của sự vật. 15
*Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan
: phát triển là thuộc tính vốn có của sự vật, nguồn gốc của
phát triển nằm ngay trong sự vật, do vào mâu thuẫn bên trong sự vật quy định,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Khuynh hướng phát triển diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, cả trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong giới vô cơ, phát triển biểu hiện dưới hình thức
biến đổi các yếu tố làm xuất hiện các hợp chất. Trong sinh vật phát triển thể hiện
ở khả năng thích nghi trước sự biến đổi của môi trường. Trong xã hội phát triển
thể hiện ở sự thay thế các phương thức sản xuất, các nền văn minh. Trong tư
duy, phát triển thể hiện ở chỗ những giới hạn nhận thức của thế hệ trước được thế hệ sau giải quyết.
Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng, song từng sự vật lại có quá trình không giống nhau. Tồn tại ở không
gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ không như nhau. Trong quá trình
phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng, của những yếu
tố, điều kiện khác. Sự tác động như thế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hành động, chủ thể phải tuân thủ nguyên tắc phát triển,
tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đặt sự vật ở trạng thái đứng im, không vận động,
không phát triển. Sở dĩ như vậy vì vận động là bản chất khách quan của các quá
trình tự nhiên, xã hội, tư duy.
Nhờ đặt đối tượng trong trạng thái vận động, ta có thể phát hiện ra các xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng; phán đoán, nhận định được khuynh //
trong tương lai của sự vật, cả những tính quanh co phức tạp như một hiện tượng
phổ biến của quá trình phát triển. Có như vậy con người mới chủ động trong
hoạt động, tránh được rủi ro, thất bại. Nghĩa là, con người tự giác trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của mình.
Quan điểm phát triển cũng đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, dễ
bằng lòng với thực tại, ngại đổi mới. Vì phát triển diễn ra trong tiến trình quanh
co, phức tạp nên trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp khó
khăn, thất bại cần sự kiên định, giữ vững lập trường, vượt qua trở ngại, tin tưởng
vào tương lai phía trước. 16
Hộp 2.6. Con đường phát triển bản thân Gắn kết mục tiêu Áp dụng: Hiểu rõ Đưa ra mục tiêu cá nhân với: Kiến thức bản thân ngắn/ dài hạn - Mục tiêu tổ chức Kỹ năng và - Hướng phát triển Rèn luyện Làm việc nhóm, chia sẻ
Chịu áp lực, chấp nhận ý tưởng, có thêm kỷ
thử thách. Tự đánh giá: Thử thách với
năng mới, kiến thức mới điểm mạnh, yếu các dự án mới Được nhìn nhận Cơ hội Đánh giá Đặt các mục khả năng bản thân thăng tiến thành quả tiêu mới
Nguồn: (Sưu tầm có hiệu chỉnh)
2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc
một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm
vi khoa học đó nghiên cứu. Ví dụ, trong toán học có phạm trù số, hình, điểm,
mặt phẳng, v.v… Trong vật lý học có các phạm trù khối lượng, vận tốc, gia tốc,
lực, v.v… Trong kinh tế học có các phạm trù hàng hóa, giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi nhuận, v.v…
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, vận , động đứng im, mâu
thuẫn, số lượng, chất lượng, nguyên nhân, kết
quả, v.v. là những
khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
cơ bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận
động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức.v.v.; tức là đều có
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm
trù của phép biện chứng duy vật. Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể
và phạm trù của phép biện chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là
mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự 17
nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng và cái chung,
nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản
chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
2.2.1. Cái riêng, cái chung * Khái niệm
Cái riêng
là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
nhất định. Chẳng hạn, một hiện tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con người…
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có ở
nhiều sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, cạnh tranh là thuộc tính chung của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một
sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng
nào khác. Như vậy cái đơn nhất là dấu hiệu đặc trưng của cái riêng. Chẳng hạn,
nhãn hiệu của mỗi doanh nghiệp là cái đơn nhất của doanh nghiệp đó.
*Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
Trong lịch sử triết học có hai trường phái trái ngược nhau khi nói về mối quan
hệ giữa cái cái riêng và cái chung. Các nhà duy danh khẳng định rằng chỉ có
những cái cá biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, và phủ nhận sự thực tồn
của những cái phổ quát. Ngược lại, trường phái duy thực quả quyết những cái
chung, phổ quát mới thực sự tồn tại. Còn những cái riêng, đặc thù vốn là hiện thân của cái chung.
Về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nghĩa là
cái chung thực sự tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, chứ không tồn tại biệt
lập, bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn, trong sản xuất hàng hóa, quy luật cung –
cầu chỉ tồn tại thông qua tổng thể các hoạt động bán (cung) và mua (cầu) trên thị trường.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Nghĩa là cái
riêng tồn tại độc lập nhưng không biệt lập với cái khác. Nó luôn tồn tại trong
một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh
ấy. Do vậy, nó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các
sự vật, hiện tượng khác có liên quan. Chẳng hạn, hiện tượng khủng hoảng kinh
tế tại một quốc gia, người nghiên cứu có thể mô tả những biểu hiện riêng như
tình trạng cụ thể của nền kinh tế, các quan hệ xã hội - chính trị. Song, đằng sau 18
những cái riêng đó là những cái chung mang tính quy luật gắn với khủng hoảng
kinh tế như tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp, sự phá sản…
Thứ ba, cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó là cái chỉnh thể, toàn bộ; cái
chung thì sâu sắc hơn cái riêng vì nó thể hiện những thuộc tính, đặc điểm ổn
định, lặp lại mang tính bản chất của một tập hợp nhiều sự vật hiện tượng. Chẳng
hạn, trong cùng một lĩnh vực, mỗi doanh nghiệp là một cái riêng. Sự biểu hiện
trong hoạt động của chúng hết sức đa dạng, phong phú, nhưng tổng thể hoạt
động của các doanh nghiệp tạo ra những quy luật, đặc trưng của lĩnh vực đó.
Thứ tư, trong quá trình phát triển của sự vật, cái đơn nhất và cái chung có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung là biểu
hiện của cái mới tích cực, đáp ứng yêu cầu vận động phát triển, thay thế cái cũ
đang lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Chẳng hạn, các phát minh, sáng
tạo lúc mới xuất hiện luôn là cái đơn nhất. Ngược lại, sự chuyển hóa của chung
thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái cái chung đã trở nên lỗi thời nên dần bị
đào thải thành cái đơn nhất. Chẳng hạn, các phong tục tập quán không còn phù
hợp sẽ bị đào thải và dần mất đi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung là cái bộ phận, chỉ tồn tại thông qua cái riêng nên khi áp dụng
“cái chung” nào vào từng trường hợp riêng cần phải cá biệt hóa nó cho phù hợp.
Chẳng hạn, lý thuyết về quản lý kinh tế, tùy theo trình độ, điều kiện và đặc thù
của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực mà sẽ được vận dụng không giống nhau. Ngược
lại, nếu chỉ chú ý, đề cao đến “cái đơn nhất” thì sẽ rời vào cục bộ, bảo thủ.
Khi giải quyết những vấn đề riêng trong thực tiễn, cần phải đặt trên nền tảng
những nguyên tắc chung. Nghĩa là không được bỏ qua các vấn đề, nếu không sẽ
rơi vào tình trạng tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Chẳng hạn, Việt Nam có thể
tham khảo cũng như rút kinh nghiệm từ các mô hình quản lý và giám sát tài sản
nhà nước của một số nước có môi trường, thể chế kinh tế có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.
Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái
chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để phổ biến những hiện tượng hợp quy luật
hoặc triệt tiêu những nhân tố trì trệ, không phù hợp sẽ có ý nghĩa thúc đẩy sự
phát triển. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu các sở,
ban, ngành và Ủy ban nhân dân quận – huyện tham khảo các mô hình sáng kiến,
cách làm hay trong công tác cải cách hành chính tại một số cơ quan, đơn vị để
áp dụng nhân rộng cho phù hợp với tình hình thực tế tại cơ quan, địa bàn mình. 19
Hộp 2.7. Mô hình các yếu tố cấu thành sản phẩm trong marketing quốc tế Bảo hành DỊCH VỤ HỖ TRỢ Hướng dẫn sử dụng BAO BÌ SẢN PHẨM Nhãn Tên thương SẢN PHẨM CỐT LÕI hiệu Phụ tùng hiệu
[1] Đặc điểm, [3] Phong cách thương thay thế chức năng sản phẩm mại Thiết bị lắp đặt
[2] Thiết kế [4] Hình thức Chất lượng sản phẩm trình bày Giá cả Dịch vụ sau bán hàng
Nguồn: Nguyễn Thị Phương Dung (2020), Phân tích vai trò của chiến lược marketing sản
phẩm quốc tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế tại Việt Nam

quoc-te-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-tai-viet-nam-73243.htm>
2.2.2. Nguyên nhân và kết quả *Khái niệm
Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả
là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên nhân gây nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ chỉ tồn tại trong xã
hội. Vì những lý do nhất định, để giải quyết hoặc thực hiện mục đích của mình,
chủ thể thực hiện đã che đậy nguyên nhân đích thực và sử dụng nguyên cớ làm
nguyên nhân. Do vậy, nguyên cớ không tạo ra kết quả. Điều kiện cũng không
sinh ra kết quả nhưng nếu thiếu nó thì không xảy ra quan hệ nhân quả(sd nguyên
cớ để tạo ra nguyên nhân) . Chẳng hạn, pháp luật quy định, ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
*Một số tính chất của mối liên hệ nguyên nhân – kết quả
Tính khách quan
: những mối liên hệ nhân quả là những mối liên hệ vốn có
của thế giới, tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng tồn tại đều có nguyên nhân, luôn gắn
liền với quá trình vận động. Song, có nhiều sự vật con người chưa tìm ra hoặc
tìm đúng nguyên nhân của chúng.
Tính tất yếu: mối liên hệ nhân quả bao giờ cũng mang tính quy luật. Tùy vào
tính chất của mối liên hệ mà tính quy luật đó thể hiện dưới nhiều mức độ khác
nhau. Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định 20