



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58707906
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ~~~~~~*~~~~~~ BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề tài: Kiều hối và khả năng thu hút nguồn vốn này tại Việt Nam.
Phân tích các giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Lớp học phần: DTKT1154(124)_12
Giảng viên hướng dẫn: TS. Hoàng Thị Thu Hà
Họ và tên thành viên nhóm: Đặng Công Minh : 11232732 Phạm Kim Chi : 11232585 Lâm Hoàng Ngọc Diệp : 11232591 Nguyễn Đức Thế : 11232808 Đặng Bảo Duy Phúc : 11232771
Nguyễn Thành Hậu (Nhóm trưởng) : 11232636 HÀ NỘI - 2024 lOMoAR cPSD| 58707906 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................
NỘI DUNG....................................................................................................................... I.
Khái niệm, vai trò và đặc điểm của kiều hối.....................................................
1. Khái niệm:........................................................................................................... 2.
Vai trò của kiều hối:........................................................................................... 3.
Đặc điểm của kiều hối.........................................................................................
4. Ưu điểm so với các nguồn vốn khác:................................................................. II.
Thực trạng của kiều hối tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2023:........... 1. Quy mô kiều hối trong giai đoạn 2016 -
2023:.................................................. 2.
Các lĩnh vực chủ yếu sử dụng nguồn kiều hối tại Việt
Nam:......................... 3. Những dự án lớn sử dụng nguồn kiều
hối:...................................................... III. Hạn chế của kiều
hối:.......................................................................................
1. Một số nhược điểm của nguồn vốn này:..........................................................
2. Kiều hối vẫn chưa được khai thác hiệu quả trong lĩnh vực hoạt động
sản xuất kinh doanh:............................................................................................... 2.1. Hạn chế về các chính sách đầu tư trong
nước:........................................
2.2. Các vấn đề liên quan đến chi phí “ngầm” - các chi phí không chính
thức trong dự án đầu tư:..................................................................................... 2.3.
Các chính sách tạo động lực cho kiều bào:...............................................
2.4. Thói quen tiêu dùng:..................................................................................
2.5. Lòng tin của kiều bào đối với Chính phủ:................................................
IV. Đề xuất kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này
cho hoạt động sản xuất kinh doanh.......................................................................
KẾT LUẬN.....................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC.......................................................................................... lOMoAR cPSD| 58707906 LỜI MỞ ĐẦU
Để phát triển đất nước trong bối cảnh đề cao hội nhập quốc tế như ngày nay,
các nguồn vốn đầu tư đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng của chúng trong các
dự án lớn không chỉ ở Việt Nam mà còn cả các quốc gia đang phát triển trên thế giới.
Những nguồn vốn đã quá phổ biến đối với các hoạt động đầu tư ở Việt Nam
như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Nhà máy nhiệt điện LNG Long An I và II
từ Singapore, LG Display Hải Phòng từ Hàn Quốc...), nguồn vốn nhận viện trợ phát
triển ODA (Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ từ Hungary,...) hay nguồn vốn từ nhà nước,
dân cư, tư nhân,... Bên cạnh đó, kiều hối cũng không kém phần quan trọng đối với
nước ta vì thế ngày nay đang càng được quan tâm và chú trọng trong việc hướng
nguồn vốn này vào những dự án có lợi ích rõ ràng. Đây chính là loại nguồn vốn có
thể giữ được sự ổn định về tỷ giá ngay cả khi nền kinh tế có những sự biến động, bất
ổn. Kiều hối là nguồn ngoại tệ giúp cho nền kinh tế của một đất nước có thể cân đối
cung - cầu ngoại tệ và cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới cán cân vãng lai cũng
như các hoạt động kinh tế khác của quốc gia. Theo như báo cáo của một nghiên cứu
“Tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế”, ở hầu hết các quốc gia, nguồn vốn
này chính là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất và chiến tới hơn 10% GDP như ở Việt Nam.
Qua đó, ta thấy được mối quan hệ giữa kiều hối và việc tăng trưởng kinh tế ở mỗi
quốc gia quan trọng như thế nào khi chúng còn có thể giảm đi các hạn chế tín dụng cá
nhân ở các quốc gia mà tài chính vi mô không được phổ biến rộng rãi.
Là sinh viên đang học tập tại Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, chúng tôi
quyết định nghiên cứu và tìm hiểu về kiều hối; nhìn nhận thực trạng, vấn đề cũng như
những hạn chế của kiều hối trong các hoạt động đầu tư,... Cũng trong bài tập lớn này,
chúng tôi sẽ đồng thời đưa ra những giải pháp như cách phân bổ nguồn vốn sao cho
hiệu quả, cách thu hút nguồn vốn này tại Việt Nam,... nhằm khắc phục những khó khăn còn tồn tại.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài ngày càng thể hiện vai
trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế của nhiều nước, đặc biệt là với những
quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp do nhu cầu về nguồn vốn cho tăng trưởng kinh
tế và phát triển bền vững là rất lớn. Đối với Việt Nam, thị trường tài chính trong nước
và quốc tế như phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu quốc tế hay đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), nhận viện trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn tài chính đặc
biệt là kiều hối đang ngày càng có xu hướng được chú trọng và quan tâm. Do kiều hối
là nguồn ngoại tệ có sức ảnh hưởng đáng kể đến cán cân vãng lai cũng như các hoạt
động của nền kinh tế của quốc gia. Cũng theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, lOMoAR cPSD| 58707906
kiều hối là một nguồn ngoại tệ vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu
ngoại tệ, góp phần quan trọng trong việc phát huy chính sách tiền tệ, tỷ giá và lãi suất
trong bối cảnh áp lực tăng tỷ giá, tăng lãi suất là không nhỏ. Đồng thời, kiều hối là
một tín hiệu tích cực về nguồn lực tài chính giúp Việt Nam có thể bù đắp,giảm sự ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế đất nước. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề về kiều hối,
nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “Kiều hối và khả năng thu hút nguồn vốn này tại
Việt Nam. Phân tích các giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn này hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước.” và phân tích thực trạng tình hình nguồn kiều hối giai
đoạn 2016 - 2023 để phân tích nhằm hiểu rõ hơn về các vấn đề xoay quanh kiều hối
trên nhiều phương diện và đưa những cái nhìn cụ thể về kiều hối, thực trạng của kiều
hối tại Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu, nguyên nhân kiều hối còn hạn chế chảy
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và cuối cùng ra đề ra các giải pháp khắc phục
được trình bày cụ thể ở trong bài. lOMoAR cPSD| 58707906 NỘI DUNG I.
Khái niệm, vai trò và đặc điểm của kiều hối. 1. Khái niệm:
Có nhiều cách phát biểu về kiều hối, nhưng chung quy lại, kiều hối có thể hiểu
đơn giản là ngoại tệ hay quà tặng của kiều bào và những người có liên quan đang sống
và làm việc ở nước ngoài gửi về cho người thân trong nước với nhiều mục đích khác
nhau như: tài trợ người thân, đầu tư, từ thiện và một số mục đích khác.
Hay theo quỹ tiền tệ quốc tế, kiều hối thể hiện thu nhập của hộ gia đình của
một quốc gia có từ các nền kinh tế nước ngoài phát sinh chủ yếu từ việc di chuyển
tạm thời hoặc vĩnh viễn của người dân tới nền kinh tế nước ngoài (Quỹ tiền tệ Quốc tế, 2009).
Hoặc dưới cái nhìn của ngân hàng thế giới, kiều hối là tổng các khoản chuyển
tiền của người di cư, khoản chuyển tiền của người lao động và thu nhập của người lao
động (Ngân hàng thế giới, 2011).
2. Vai trò của kiều hối:
2.1. Kiều hối là một trong những nguồn thu ngoại tệ ổn định, có tốc độ
tăng trưởng cao và không phải hoàn trả.
Nguồn thu ổn định: Không giống với các nguồn thu ngoại tệ khác như xuất
khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), kiều hối thường có tính ổn định cao. Dù kinh
tế thế giới có biến động, gặp khủng hoảng như thế nào, người Việt Nam ở nước ngoài
vẫn thường xuyên gửi tiền về cho gia đình dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này
tạo ra một dòng tiền ngoại tệ ổn định cho quốc gia.
Tốc độ tăng trưởng cao: Với sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,
số lượng người Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài ngày càng tăng. Điều
này thúc đẩy mạnh mẽ và nhanh chóng sự tăng trưởng của lượng kiều hối gửi về trong
nước. Bên cạnh đó sự phát triển của các dịch vụ chuyển tiền quốc tế như Western
Union, MoneyGram, và các ứng dụng chuyển tiền trực tuyến đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chuyển tiền kiều hối.
Là nguồn tiền không hoàn lại: do kiều bào gửi về nước được người thân dùng
để chi tiêu mà không lo bị thất thoát, hoặc sử dụng để đầu tư cũng không đòi hỏi
những ưu đãi như FDI. Và đặc biệt nó ít kéo theo rủi ro cho kinh tế và chủ quyền quốc gia.
2.2. Kiều hối góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. lOMoAR cPSD| 58707906
Kiều hối phát triển giúp tạo thêm công ăn việc làm cho người dân bằng cách
đầu tư, kinh doanh của việt kiều. Phần lớn kiều hối chuyển về nước được người dân
sử dụng vào sản xuất kinh doanh, đầu tư bất động sản, chứng khoán chứ không cất
giữ chi tiêu như trước đây. Đây là xu hướng đáng mừng, góp phần trực tiếp mở rộng
đầu tư trong cả nước tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tiêu dùng. Đồng thời chúng đóng góp cải thiện ngân sách, nhà ở, y tế,
giáo dục, ổn định đời sống nhân dân.
2.3. Kiều hối có tác dụng hỗ trợ cán cân thanh toán quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nhập siêu cao, do vậy, cán cân
thương mại nước ta luôn ở tình trạng thâm hụt nghiêm trọng. Việc tiếp nhận nguồn
kiều hối sẽ giúp Việt Nam có thêm nguồn ngoại tệ để bù đắp vào những khoảng trống
trong cán cân thương mại góp phần cân bằng cán cân vãng lai và là nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế.
2.4. Kiều hối đóng góp tích cực đến sự phát triển của thị trường tài chính.
Nếu thị trường tài chính phát triển, hoạt động có hiệu quả thì tác động của kiểu
khối được gia tăng. Nhưng nếu thị trường tài chính kém phát triển thì kiều hối có thể
giúp các nhà đầu tư vượt qua được những hạn chế của thị trường tài chính, do đó nó
có tác động trực tiếp đến các hoạt động đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Như vậy, kiều
hối có tác động mạnh nhất đến tăng trưởng kinh tế tại những nước có thị trường tài chính kém phát triển.
3. Đặc điểm của kiều hối
Thứ nhất, kiều hối gắn với di cư và di chuyển lao động. Lượng kiều hối được
chuyển về quê hương có xu hướng tỷ lệ thuận với lượng người di cư và lao động xuất
khẩu. Nếu số lượng người lao động Việt Nam tại nước ngoài càng tăng, thì lượng kiều
hối gửi về cũng sẽ có xu hướng càng lớn.
Thứ hai, kiều hối có xu hướng chảy từ quốc gia phát triển đến quốc gia đang
phát triển. Đặc điểm này của kiều hối xuất phát từ tính chất gắn với di cư và di chuyển
lao động. Khi nền kinh tế có sự chênh lệch về độ phát triển giữa các quốc gia, điều
này sẽ dẫn đến việc di cư lao động trên quốc tế. Người lao động thường có xu hướng
di chuyển đến các quốc gia phát triển, có nền kinh tế ổn định hơn, để tìm kiếm cơ hội
việc làm bà mức thu nhập cao hơn so với ở quê hương. Những thu nhập của người lao
động bao gồm tiền lương và các lợi ích khác sẽ được người lao động đó chuyển ngược
về quê hương để phục vụ cho các mục tiêu và dự định cá nhân nào đó. Khi đó, dòng
kiều hối sẽ chảy ngược từ các quốc gia phát triển về các quốc gia đang phát triển. lOMoAR cPSD| 58707906
Thứ ba, quy mô kiều hối gửi về để đầu tư và sử dụng thường nhỏ. Đây là một
hạn chế trong việc phát huy được nguồn kiều hối trong đầu tư của nước ta. Khác với
các nguồn vốn khác như ODA, FDI, lượng kiều hối được gửi về sẽ không thể chuyển
thành nguồn vốn dành cho lĩnh vực đầu tư hoàn toàn. Thường kiều hối sẽ được sử
dụng như một nguồn vốn đầu tư sau khi đã chi trả và phục vụ cho các dự định cá nhân
và cho chi phí của hộ gia đình của người lao động tại quê hương. Chính vì thế, quy
mô kiều hối được sử dụng cho đầu tư sản xuất kinh doanh thường không lớn.
Thứ tư, kiều hối là khoản tiền thật, là khoản tài trợ không phải hoàn lại và hầu
như không chịu chi phí. Do đây là một khoản ngoại tệ, chịu ít chi phí và ảnh hưởng
của kinh tế, chính trị (khác với ODA), chúng thường chỉ chịu các chi phí chuyển tiền
và rút tiền giữa các quốc gia.
Thứ năm, kiều hối phụ thuộc vào quan hệ gia đình. Lượng kiều hối được gửi
về quê hương còn phụ thuộc nhiều vào tần suất gửi kiều hối của người lao động đang
sinh sống tại nước ngoài. Chính vì vậy, nếu mối quan hệ với gia đình và người lao
động thân thiết và chặt chẽ thì lượng kiều hối được chuyển về quê hương sẽ có xu
hướng tăng đều qua thời gian. Ngược lại, nếu mối quan hệ gia đình không được ổn
định, lượng kiều hối được gửi về cũng sẽ có phần “khiêm tốn” hơn.
Thứ sáu, kiều hối cũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường đầu tư, khi môi
trường đầu tư có sức hút, mở ra nhiều cơ hội về đầu tư, kiếm lời, lượng kiều hối gửi
về cũng sẽ tăng lên. Đặc biệt khi môi trường đầu tư của nước đi là điều kiện quan
trọng ảnh hưởng đến dòng chảy của kiều hối, người định cư và lao động nước ngoài
sẽ có xu hướng gửi ngoại hối về nước nhiều hơn với mong muốn cho đồng tiền của họ được sinh lời.
4. Ưu điểm so với các nguồn vốn khác:
So sánh kiều hối với các nguồn vốn ngoại tệ hiện nay tại Việt Nam Hạng mục Kiều hối ODA FDI Tổ chức cung cấp
Người Việt Nam Chính phủ, tổ chức Tổ chức, cá nhân đang sinh sống,
chính phủ, tổ chức từ quốc gia khác, làm việc ở nước tập đoàn đa quốc tài chính quốc tế, ngoài. gia. các quốc gia phát triển. lOMoAR cPSD| 58707906 Cơ quan điều phối, Bộ Kế hoạch và Ngân hàng Nhà Bộ Kế hoạch và quản lý
nước, các ngân Đầu tư Đầu tư, các bộ hàng thương mại ngành liên quan Mục đích
Hỗ trợ gia đình, Hỗ trợ phát triển Tìm kiếm lợi đầu tư nhỏ lẻ
kinh tế - xã hội, nhuận, mở rộng thị
giảm nghèo, xây trường, chuyển
dựng cơ sở hạ tầng giao công nghệ Hình thức huy
Thông qua các Mua cổ phần, mua động
Người gửi chuyển hiệp định viện trợ, tài sản, thành lập
tiền về Việt Nam các dự án hợp tác công ty con, chi
thông qua các kênh phát triển nhánh, hợp tác chính thức hoặc kinh doanh. phi chính thức
Thời gian cho vay Không có do Cho vay dài hạn và Không có thời
không phải hình thời gian ân hạn gian cho vay và ân thức cho vay. dài hạn
Lãi suất huy động Không áp dụng
Không tính lãi, lãi Tùy thuộc vào nhà suất thấp. đầu tư, doanh nghiệp. Thương cao hơn ODA Hoàn lại Không Có hoặc không Có (grant) Điều kiện ràng Gần như không có Thấp Cao buộc
Xem xét bảng phân tích nêu trên, ta có thể thấy rằng Kiều hối có những ưu
điểm vượt trội so với các nguồn vốn từ nước ngoài khác như ODA và FDI. Kiều hối
là nguồn thu ngoại tệ ổn định, không tính lãi, không hoàn lại, thậm chí trong những
năm trở lại đây còn có xu hướng tăng. Vậy nên nó không tạo gánh nặng nợ nước ngoài cho đất nước. lOMoAR cPSD| 58707906
Một ưu điểm nổi bật của kiều hối là hình thức chuyển tiền hỗ trợ, không phải
hình thức cho vay nên có tính linh hoạt cao, không bị ràng buộc mục đích sử dụng và quy định thời gian.
Ngoài ra, kiều hối là nguồn thu nhập của hộ gia đình Việt Nam, là tiền gửi về
cho thân nhân ở quê hương. Kiều hối nâng cao mức thu nhập cho các chủ thể nhận
kiểu hối và các chủ thể hưởng lợi từ kiều hối, giúp tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo. Điều này được thể hiện rõ nhất ở lượng kiều hối từ lao động xuất khẩu gửi về.
Đặc biệt, khi nền kinh tế suy thoái, tổng cầu yếu thì tiêu dùng gia tăng cũng giúp phục hồi nền kinh tế
Kiều hối hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế do là tiền ngoại tệ từ công dân Việt
Nam tại những nước sở tại.
So với ODA, FDI – những nước luôn có ràng buộc bất lợi thì ở phía kiều hối
lại rất ít hoặc không có ràng buộc chính trị, kinh tế.
Kiều hối đóng góp tích cực đến sự phát triển của thị trường tài chính do làm
tăng nguồn cung ứng vốn cho các tổ chức tài chính. Mối quan hệ giữa kiều hối, sự
phát triển thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế có thể được xem xét ở một số
cấp độ. Kiều hối có thể bù đắp cho những thị trường tài chính kém hiệu quả, bởi lẽ,
kiều hối có thể giúp các nhà đầu tư vượt qua được những hạn chế của thị trường tài
chính về sự thiếu vắng các sản phẩm huy động và cấp tín dụng phù hợp để tìm kiếm
mức sinh lời cao. Trong những trường hợp này, kiều hối có tác động trực tiếp đến các
hoạt động đầu tư và tăng trưởng kinh tế. II.
Thực trạng của kiều hối tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2023:
1. Quy mô kiều hối trong giai đoạn 2016 - 2023: lOMoAR cPSD| 58707906
Bảng 1: Số liệu về kiếu hồi và vốn FDI thực hiện ở Việt Nam giai đoạn 2016-
2023 (đơn vị: tỷ USD)
1.1. Năm 2016 – 2020:
Năm 2016, đã ghi nhân lự ợng kiều hối đổ về Viêt Nam ṭ ừ kiều bào các nước
trên thế giới ở con số gần 12 tỷ USD, dữ liêu ṇ ày trong năm 2017 và 2018 tăng vọt
môt lự ợng là xấp xỉ 2 tỷ so với năm liền trước, lần lượt đạt mốc 13.8 tỷ USD và 15.9
tỷ USD. Lượng kiều hối tăng nhanh môt pḥ ần do Việt Nam có hơn 4 triệu người dân
sinh sống ở nước ngoài. Bên cạnh đó, trong những năm trở lại đây, người thụ hưởng
lượng kiều hối từ người thân gửi về được Nhà nước tạo điều kiên đ ̣ áng kể trong thủ
tục, chính sách nhân nḥ ằm thúc đẩy dòng ngoại tê ṇ ày. Người dân không phải đóng
thuế thu nhập cá nhân hay trả phí đối với khoản tiền kiều hối dưới mọi hình thức.
Đà tăng trưởng của “dòng chảy ngoại tê” tị ềm năng này có dấu hiêu cḥ ững lại
trong hai năm kế tiếp, với mức tăng nhỏ giọt 0.8 tỷ đô la Mỹ trong năm 2019 và vỏn
vẹn 0.5 tỷ đô la Mỹ trong năm 2020. Nguyên nhân chính của tình trạng trên được xác
định là do tác đông ṃ ạnh mẽ của đại dịch Covid-19 trên phạm vi toàn thế giới.
Dịch bênh dị ễn ra với quy mô rông ḷ ớn cản trở sự phát triển của nền kinh tế
thế giới, sản xuất bị đình trê do thị ếu thốn đầu vào nguồn nhân lực và yếu tố sản xuất;
giao thương hàng hóa, dịch vụ bị đóng băng toàn tâp,.. Đị ều này khiến cho kiều bào
ở nước ngoài găp kḥ ó khăn trong viêc duy tṛ ì ổn định thu nhâp ḳ ể cả ở các nước
phát triển như trong Liên minh Châu Âu (EU), Hàn Quốc, Canada hay các cường quốc
như Mỹ, Trung Quốc. Tình trạng bị cắt giảm giờ làm xảy ra thường xuyên đối với lOMoAR cPSD| 58707906
những đồng bào đang sinh sống và làm viêc ṭ ại nước ngoài, thâm cḥ í môt ṣ ố kiều
bào bị mất viêc ḷ àm và rơi vào trạng thái thất nghiêp trong tḥ ời gian dịch bênh Covid
họ ành hành. Các quốc gia áp dụng những chính sách phong tỏa và hạn chế đi lại nhằm
ngăn chặn sự lây lan của đại dịch đã khiến lượng nhâp cư nự ớc ngoài giảm sút, việc
di chuyển của người lao động trở nên khó khăn hơn, “dòng chảy kiều hồi” bị tác đông ̣
ít nhiều, nhất là đối với kiều hối dưới hình thức tiền măt.̣ Bên cạnh đó, trong giai đoạn
dịch bệnh, người lao đông có xu hướng tiết kiệm thaỵ vì tiêu dùng nhiều cho các nhu
cầu không thiết yếu và cân nhắc khi gửi tiền về nước, điều này khiến nguồn vốn ngoại
tê ṇ ày tăng châm trong năm 2019 ṿ à 2020. 1.2. Năm 2021-2023:
Năm 2021 và 2022 cùng chứng kiến sự gia tăng theo chiều hướng tích cực hơn
với con số ghi nhân ̣ ở mức 18.1 tỷ USD và 19 tỷ USD, đều tăng 0.9 tỷ USD so với
năm trước. Dấu hiêu kḥ ởi sắc sự phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế
toàn cầu sau giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn biến khôn lường. Môt pḥ ần là do các
nước trên thế giới đã bước sang môt giai đọ ạn mới - sống chung với dịch, kiểm soát
những khu vực nóng nhưng không gây cản trở tăng trường kinh tế, tạo điều kiện cho
người lao động nước ngoài có thu nhập ổn định hơn và có khả năng gửi tiền về quê
nhà cao hơn. Măt kḥ ác, giai đoạn trên đánh dấu bước chuyển mình của mạng lưới
ngân hàng thương mại ở Viêt Nam, ṣ ự cạnh tranh gay gắt của thị trường này khiến
các ngân hàng lớn như Agribank, BIDV, Vietcombank nới lỏng môt ṣ ố quy định trong
thủ tục chuyển giao, miễn phí đối với mọi loại giao dịch thúc đẩy quá trình di chuyển kiều hối về nước.
Tuy nhiên, số liêu tḥ ống kê lượng kiều hối Viêt Nam nhậ n ṿ ề trong năm 2023
là 16 tỷ đô la Mỹ so với năm 2022, tổng lượng tiền gửi về qua các kênh chính thống
của Chính phủ giảm đến 3 tỷ USD, con số này gây bất ngờ cho cơ quan quản lý và
hoạch định chính sách nhà nước. Câu hỏi được đăt ra “Ṭ ại sao lượng kiều hối chuyển
về Viêt Nam trong năm 2023 ḷ ại sụt giảm nghiêm trọng như vây?” ̣
Nguyên do chủ yếu được xác định là ảnh hưởng chung từ các biến đông củạ
nền kinh tế - chính trị toàn cầu, lạm phát tăng cao, mâu thuẫn liên tiếp nổ ra khiến
dòng kiều hối về Việt Nam cũng bị tụt dốc theo xu hướng chung của các nước trên thế
giới. Mâu thuẫn giữa những nền kinh tế lớn ngày càng gia tăng căng thẳng, điển hình
như cuôc chị ến tranh thương mại - địa chính trị giữa hai cường quốc là Mỹ Trung
Quốc, cuôc xung độ t c ̣ ủa Nga và Ukraine, cuôc chị ến quân sự Hamas - Israel tại dải
Gaza,...tác đông tṛ ực tiếp đến nền an ninh tài chính toàn cầu. Bên cạnh đó, một số
quốc gia sở tại có thể áp dụng các chính sách hạn chế hoặc tăng phí chuyển tiền theo
quy định chuyển giao quốc tế, khiến cho người lao động ở các nước gặp khó khăn và
họ lựa chọn những kênh không chính thống để gửi tiền về hỗ trợ người thân quê lOMoAR cPSD| 58707906
hương, điều này dẫn đến thâm hụt môt lự ợng lớn kiều hối vì không được thống kê
qua các kênh chuyển giao của Chính phủ nhà nước.
2. Các lĩnh vực chủ yếu sử dụng nguồn kiều hối tại Việt Nam:
Kiều hối từ trước đến nay vẫn luôn là một nguồn cung ngoại tệ ổn định kể cả
khi có các biến động kinh tế hay sự sụt giảm trong các nguồn vốn đầu tư FDI hay
ODA. Có thể nói, kiều hối là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân. Tuy nhiên,
“Nguồn lực vàng” này chưa được sử dụng tối ưu khi phải phân tán, sử dụng cho nhiều
lĩnh vực và các hoạt động khác nhau trong đầu tư, sản xuất, chi tiêu.
Trong đó, phần lớn lượng kiều hối được gửi về chảy vào trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tính tới thời điểm khoảng năm 2018 giai đoạn trước dịch Covid-
19, cả nước đã có tới gần 3.000 doanh nghiệp người Việt Nam đang sinh sống ở nước
ngoài hoạt động đầu tư trên cả nước với tổng số vốn khoảng 4 tỷ USD, qua đây ta có
thể hiểu được lượng kiều hối dồi dào chảy về trong lĩnh vực này. Chỉ tính riêng tại
thành phố Hồ Chí Minh - “rốn” kiều hối của Việt Nam - cho biết mỗi năm có khoảng
30.000 người Việt trẻ tìm kiếm cơ hội kinh doanh, buôn bán từ các dự án khởi nghiệp
ở quê hương sau khi trở về từ nước ngoài. Song do chưa có định hướng rõ ràng cùng
các chính sách hỗ trợ đầu tư thuận lợi so sánh với FDI hay chưa có những hướng dẫn
cùng thông tin cụ thể khiến cho nguồn kiều hối khi đi vào các hoạt động đầu tư cho
sản xuất - kinh doanh chưa đạt được hiệu quả cao.
Theo sau đó, bất động sản là lĩnh vực cũng được khá nhiều kiều bào ưa thích
đầu tư nhằm sinh lời, đặc biệt trong bối cảnh áp lực dòng tiền vẫn chưa nguôi bớt đối
với doanh nghiệp bất động sản hay là cả thị trường bất động sản khi giá đất, giá chung
cư đang ngày càng tăng cao, vượt khỏi khả năng chi tiêu so với thu nhập của các hộ
gia đình trong nước. Tính tới hết năm 2023, đã có tới hơn 205 tỷ USD kiều hối được
đổ về Việt Nam, tính riêng 2023 đã có tới 16 tỷ, trong đó hàng năm, có tới hơn 25%
lượng kiều hối được sử dụng cho mục đích đầu tư nhà đất, bất động sản. Ngoài giao
dịch trực tiếp, đa phần kiều bào nhờ người thân mua nhà đất hoặc đầu tư tại các dự án
bất động sản với hình thức đầu tư chủ yếu là “lướt sóng”. Có thể thấy, vẫn còn những
“lo ngại” của kiều bào về sự an toàn khi đầu tư trong nước vì những bất cập, rắc rối
trong thủ tục sở hữu nhà, đất tại Việt Nam và rủi ro vướng vào tranh chấp đất với người thân, họ hàng.
Những năm trước đại dịch covid, lượng kiều hối chảy về Việt Nam đa phần
được các hộ gia đình dùng để gửi tiết kiệm ngân hàng, tuy nhiên sau đại dịch và phải
đối mặt với suy giảm kinh tế, chính phủ phải hạ lãi suất để thúc đẩy hoạt động đầu tư,
tái sản xuất, song song với đó là các cuộc chiến tranh đã đẩy giá vàng lên cao, lượng lOMoAR cPSD| 58707906
kiều hối được rút khỏi hệ thống ngân hàng và chuyển sang đầu tư, tích trữ vàng. Theo
ước tính lượng kiều hối dành cho tích trữ vàng chiếm đến 20%. Do đó lượng tiền Kiều
hối chảy về chỉ được dùng để tích trữ không được dùng cho đầu tư trực tiếp hay đầu
tư gián tiếp qua các ngân hàng, khiến lượng tiền chảy về trở nên kém hiệu quả, không
có nhiều ý nghĩa kinh tế
Bên cạnh các lĩnh vực đầu tư sản xuất kinh doanh, đầu tư cho bất động sản và
vàng thì một phần nhỏ Kiều hối được sử dụng cho mục đích cá nhân của các hộ gia
đình như xây dựng nhà cửa, trả nợ, y tế, đi học... Nguồn ngoại tệ này đi vào nền kinh
tế với các chi tiêu cá nhân cũng mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và an sinh xã hội.
3. Những dự án lớn sử dụng nguồn kiều hối:
Phần lớn lượng kiều hối Việt Nam là "chảy" vào hoạt động sản xuất - kinh
doanh, lượng kiều hối theo chân Việt kiều về nước khởi nghiệp cũng ngày càng tăng
và phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Có thể điểm qua một số những dự
án nổi bật dưới đây.
Công ty Pops Worldwide chuyên về phân phối và quản lý nội dung âm nhạc
của Esther Nguyễn (Việt kiều Mỹ):
Được thành lập vào năm 2008 bởi Esther Nguyen, Pops có 690 triệu người
xem trên khắp các nền tảng OTT (những ứng dụng trên không gian mạng internet có
khả năng truyền tải nội dung tin nhắn, cuộc gọi thoại hoặc nội dung phim, video và
tín hiệu truyền hình), YouTube, TikTok và Facebook. Pops sản xuất nội dung gốc cũng
như cung cấp tài liệu từ các nguồn trong nước và nước ngoài. Startup này ra đời với
hoài bão tạo dựng một “Spotify cho Việt Nam” cho biết đã đạt 52 tỷ lượt xem mỗi
năm và hơn 407 triệu người theo dõi. Với 150 triệu người theo dõi tăng thêm trong
năm 2020, Pops Worldwide trở thành một trong những công ty có tốc độ tăng trưởng
nhanh trong khu vực Đông Nam Á. Pops Worldwide hiện đang là nhà cung cấp nhiều
loại hình nội dung số, gồm âm nhạc, giải trí, giáo dục, truyện tranh và phim hoạt hình
anime. Đối tượng khách hàng của ứng dụng giải trí này chủ yếu thuộc thế hệ Millennials, GenZ.S.
Quỹ Ascend Vietnam Venture:
Do Bình Trần và Eddie Thái, hai người đồng sáng lập 500 startups Việt Nam,
vừa ra mắt quỹ đầu tư mạo hiểm mới có tên Ascend Vietnam Ventures (AVV) vào cuối
năm 2021. Bình Trần hiện là đồng Giám đốc quỹ 500 Startups Vietnam, là cựu kỹ sư
lập trình. Trước 500 Startups Việt Nam, ông dành phần lớn sự nghiệp là doanh nhân
và đồng sáng lập Klout vào năm 2008 - một công ty phân tích dữ liệu xã hội được hỗ
trợ bởi các quỹ mạo hiểm cấp cao nhất ở Thung lũng Silicon và được mua lại vào năm
2014. Eddie Thái cũng Giám đốc quỹ 500 Startups Vietnam. Ông từng làm việc trong lOMoAR cPSD| 58707906
lĩnh vực tư vấn chiến lược và tài chính cho các công ty và khách hàng trong nhiều lĩnh
vực như công nghệ, truyền thông và viễn thông.
Khoảng thời điểm đầu năm 2022, cả hai cho biết đã hoàn tất giai đoạn triển
khai vốn đầu tư cho 500 Startups Vietnam với danh mục gồm 76 công ty. Với Ascend
Vietnam Ventures, hai nhà đồng sáng lập muốn đầu tư lớn hơn vào một danh mục nhỏ
và tập trung hơn. Bình Trần cho biết các khoản đầu tư của Ascend Vietnam Ventures
sẽ lớn hơn khoảng 100.000 - 200.000 USD so với các khoản đầu tư mà 500 Startups
Vietnam đã rót vào các công ty. Trong 9 tháng cuối năm, AVV Alpha đã rót vốn vào
10 startup, bao gồm các dự án tiêu biểu như: Kilo - phần mềm SaaS và sàn giao dịch
marketplace cho hơn 30.000 cho các nhà bán lẻ SME trên toàn Việt Nam; Virtual
Internship - nền tảng quản lý và sắp xếp các chương trình thực tập từ xa dành cho sinh
viên, đang hoạt động tại 70 quốc gia trên thế giới.Ngoài ra, danh mục đầu tư của AVV
Alpha còn có: T&C Logistics - nền tảng quản lý quy trình hoàn tất đơn hàng và vận
chuyển cho các giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam; Mandu - nền tảng hỗ trợ
các nhà bán lẻ kinh doanh trên mạng xã hội. Mục tiêu của AVV Alpha là tới cuối năm
2024, quỹ dự tính đầu tư vào 25 startup ở giai đoạn hạt giống, với mức đầu tư lên tới
2 triệu USD cho 1 startup. Quỹ có thể đầu tư thêm số vốn lên tới 5 triệu USD cho 1
startup ở các vòng gọi vốn tiếp theo của một số công ty trong danh mục.
Bên cạnh hai dự án kể trên, ngoài ra trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn
một số các dự án đang mang lại thành công lớn có thể kể đến như: mô hình hỗ trợ du
lịch trực tuyến Christinas của Thu Nguyễn (Việt kiều Mỹ); ứng dụng công nghệ về
phong cách sống Wisepass của Lâm Trần (Việt kiều Pháp); mô hình quản trị doanh
nghiệp Base.vn của Phạm Kim Hùng (du học sinh Mỹ) và các mô hình khởi nghiệp
lĩnh vực công nghệ khác như WeFit, Elsa, Logivan, GotIt, Uiza…
Về việc đầu tư nguồn vốn vào vùng kinh tế trọng điểm, tại Hồ Chí Minh – nơi
có nguồn vốn kiều hối lớn nhất cả nước với tỉ trọng khoảng 38%-50%. Kiều hối ngoài
việc đầu tư gián tiếp thông qua các ngân hàng còn có thể đầu tư trực tiếp qua trái
phiếu. Phát hành trái phiếu thời hạn 5-10 năm dành riêng cho từng dự án cụ thể, gắn
liền với trách nhiệm của đơn vị huy động vốn và trả nợ. Điển hình là dự án Metro
183km đường sắt đô thị sẽ được huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu để kiều
bào có thể trực tiếp đầu tư vào thị trường Việt Nam, hứa hẹn sẽ tạo nên lượng kiều hối
lớn và có tính quản lý, tập trung.
III. Hạn chế của kiều hối:
1. Một số nhược điểm của nguồn vốn này:
Kiều hối, hay còn gọi là ngoại hối mà người lao động ở nước ngoài chuyển tiền
về cho người thân, gia đình của họ ở quê hương, đã trở thành một nguồn thu quan lOMoAR cPSD| 58707906
trọng cho nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Theo
số liệu được thống kê, lượng kiều hối gửi về Việt Nam trong 10 năm gần đây vẫn đang
duy trì vị trí cao trong top 10 nước nhận về lượng kiều hối lớn nhất thế giới và nằm
trong top 3 khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, thực tế kiều hồi vẫn còn nhiều hạn chế khi giá trị của kiều hối không
được ổn định qua thời gian, do chúng có khả năng bị tác động bởi nhiều yếu tố khác
nhau như: các chính sách tỷ giá của thế giới, dịch bệnh, hay các sự kiện khó dự đoán…
Dưới sự ảnh hưởng đó, lượng kiều hối có thể sẽ có xu hướng sụt giảm nếu không có
biện pháp xử lý. Ngoài ra, kiều hối còn có một số hạn chế khác trong nền kinh tế trong nước như:
Môt ḷ à, tình trạng “đô la hóa” trong nền kinh tế Việt Nam khi người dân bắt
đầu ưa chuộng sử dụng đồng đô la Mỹ hơn thay vì dùng đồng Việt Nam. Tâm lý ưa
chuộng đô la đè nén áp lực lên chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái, lo ngại về kinh tế và
khả năng kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nước. Nguyên nhân ban đầu gây ra
hiện tượng này được xác định là chính sách thu hút kiều hối từ nhà nước như miễn
giảm thuế đối với người nhận kiều hối, không có hạn mức về số lượng, cho phép người
nhận sử dụng kiều hối tùy mục đích,...
Hai là, khó khăn trong quá trình quản lý, thống kê lượng kiều hối. Trên thực
tế, dòng kiều hối không chính thức tăng lên sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát toàn
bộ lưu lượng kiều hồi lưu thông trong đất nước, đến từ rất nhiều nguyên nhân. Tình
trạng này còn tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp trên thị trường,
tác đông tiêu c ̣ ực đến nền kinh tế quốc gia.
Ba là, ảnh hưởng đến lực lượng lao động xã hội khi chúng tạo ra tâm lý phụ
thuộc của người nhận vào người di cư sống ở nước ngoài. Trong một số trường hợp,
người nhận có thể không sử dụng tiền gửi một cách hiệu quả, điều đó có nghĩa là tiền
gửi có thể không phải là nguồn vốn tối ưu để kích thích phát triển kinh tế mà được sử
dụng cho mục đích tiêu dùng cá nhân. Bên cạnh đó, sự chênh lệch lớn trong tỷ giá là
lý do khiến người lao động không muốn quay trở về quê hương nhưng đóng góp giá
trị cho quốc gia sở tại.
Bốn là, các thủ tục chuyển kiều hối về Việt Nam còn phức tạp, khiến một phần
kiều hối được chuyển qua các kênh không chính thức, từ đó không thể thống kê được
tổng lượng kiều hối đã vào nước. Quy trình chuyển tiền trong nước có thủ tục phức
tạp, yêu cầu nhiều giấy tờ, tài liêu và đặc biệt tốn khá nhiều thời gian.̣ Trước hoàn
cảnh đó, sẽ có một bộ phận kiều bào lựa chọn nơi giao dịch nhanh chóng và dễ dàng
hơn mà không cần thông qua nhiều bước như vậy - các kênh không chính thức - để
chuyển tiền về cho người thân trong nước. lOMoAR cPSD| 58707906
Năm là, kiều hối vẫn chưa được sử dụng nhiều cho lĩnh vực hoạt động sản xuất
kinh doanh. Với mục đích chủ yếu là hỗ trợ người thân sinh sống trong nước, lượng
kiều hối phục vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân, cải thiên cḥ ất lượng cuôc ̣ sống vẫn
đang chiếm tỷ lê đa ṣ ố. Đây là hạn chế lớn của dòng ngoại tê đ ̣ ến từ kiều bào nước
ngoài, “dòng chảy kiều hối” chưa được phát huy hiêu qụ ả và đúng với giá trị.
2. Kiều hối vẫn chưa được khai thác hiệu quả trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh:
Trong thực tiễn, nguồn ngoại hối này ở đất nước ta vẫn chưa thực sự được sử
dụng nhiều để đầu tư vào các dự án kinh doanh tại nước nhà mà thường sẽ được sử
dụng để tiết kiệm cá nhân, hỗ trợ chi trả một phần chi phí phát sinh trong đời sống của
người thân đang sinh sống ở quê hương hoặc chỉ dừng lại ở việc dùng để đầu tư cho
các dự án nhỏ ở Việt Nam với hình thức chủ yếu là “lướt sóng”.
Dưới góc độ của việc quản lý kinh tế vĩ mô, điều này là một hạn chế lớn đối
với nền kinh tế của nước nhà. Nếu chính phủ có thể tìm được giải pháp để phát huy
và tập trung nguồn ngoại hối này vào lĩnh vực đầu tư kinh doanh, nền kinh tế của nước
nhà sẽ có xu hướng gia tăng hơn nhiều so với trước, đồng thời cũng sẽ giúp Việt Nam
trở thành địa điểm sáng, hấp dẫn được thêm nhiều các nguồn vốn đầu tư, nguồn ngoại
hối, kiều hối tập trung về nước. Tuy nhiên, để đưa ra được các phương án giải quyết
cho hạn chế này của kiều hối ta cần hiểu rõ được những nguyên do nào khiến cho
nguồn ngoại hối này vẫn chưa thực sự được sử dụng hiệu quả trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh.
2.1. Hạn chế về các chính sách đầu tư trong nước:
Trong hàng chục năm qua, Đảng và Nhà nước luôn coi kiều bào là một phần
không thể tách rời của khối đại đoàn kết dân tộc; thế nhưng, trong công tác quản lý
của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót về các chính sách ưu tiên, quan tâm hơn
đến các các kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài nhằm phát huy hiêu qụ ả nguồn lực
từ Viêt kị ều và cả các dự án có nguồn vốn đầu tư từ kiều hối.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng, Việt Nam ta trong những năm vừa qua vẫn
còn nhiều thiếu sót ở các chính sách khuyến khích đầu tư cho kiều bào so với một số
nước khác như Philippines hay Ấn Độ,... Tại những nước này, các chính sách ưu đãi,
các quỹ đầu tư dành cho việc triển khai các dự án từ kiều hối được chính phủ đưa ra
có phần rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy những người lao động của nước
họ đang định cư hoặc làm việc tại nước ngoài chuyển tiền về quê hương để góp phần
xây dựng nền kinh tế giàu mạnh của đất nước.
2.2. Các vấn đề liên quan đến chi phí “ngầm” - các chi phí không chính
thức trong dự án đầu tư: lOMoAR cPSD| 58707906
Nguyên nhân này xuất phát từ một vấn đề “nhức nhối” còn tồn tại thực tiễn
trong nước ngày nay, cũng đã gây ảnh hưởng không ít đến mức độ đầu tư từ kiều hối
của người dân, chính là thực trạng phí “bôi trơn” tại Việt Nam.
Theo Báo cáo PCI năm 2019 đã được nhà nước công bố vào đầu năm 2020,
thực trạng chi phí “bôi trơn” đã được làm rõ thông qua số liệu về tỷ lệ doanh nghiệp
trả cho loại chi phí không chính thức này cho các thủ tục hành chính vẫn còn khá cao
so với các quốc gia khác; trong khi đó, lượng kiều hối được chuyển về Việt Nam về
bản chất là phần tiết kiệm của những người lao động ở nước ngoài. Do đó, sự tồn tại
của các chi phí này cho thấy một rào cản lớn trong việc hấp dẫn những nguồn vốn đầu
tư, đặc biệt là các nguồn ngoại hối đầu tư vào các dự án kinh doanh của đất nước.
2.3. Các chính sách tạo động lực cho kiều bào:
Bên cạnh những nguyên nhân trực tiếp cản trở việc đầu tư kiều hối vào lĩnh
vực kinh doanh ở Việt Nam, các chính sách tạo động lực cho các kiều bào đang sinh
sống ở nước ngoài cũng còn hạn chế, chưa thực sự thu hút, khiến cho số lượng kiều
bào sẵn sàng cống hiến cho đất nước còn chưa đạt được hiệu quả.
Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến vấn đề này ở trong nước một phần cũng là do
quy trình quản lý về mặt hành chính nhân sự còn chưa hiệu quả, khi nhà nước phân
chia các nhóm kiều bào về nước vào các vị trí công việc còn chưa đúng “năng lực”
của họ, dẫn đến việc giảm đi động lực phát triển và cống hiến cho đất nước của các
người dân sinh sống ở nước ngoài và quay trở về quê hương.
2.4. Thói quen tiêu dùng:
Sự kém hiệu quả trong việc thu hút kiều hối trong đầu tư các dự án kinh doanh
ở Việt Nam cũng đến từ vấn đề thói quen tiêu dùng của người dân trong nước. Về bản
chất, phần lớn lượng kiều hối được chuyển về quê hương nhằm mục đích hỗ trợ một
phần chi phí xã hội cho người thân, gia đình của những kiều bào; do đó, nguồn kiều
hối này sẽ được tập trung sử dụng cho các hoạt động tiêu dùng cá nhân của hộ gia
đình, tiết kiệm thay vì xem xét các cơ hội đầu tư trong nước.
Ngoài ra, trong thực tiễn, tồn tại một bộ phận người sinh sống ở quê hương gặp
phải những áp lực đời sống liên quan đến vấn đề tài chính, cần sự hỗ trợ tài chính như
nợ nần. Dưới tình huống cấp bách như vậy, họ thường sẽ có xu hướng bỏ qua các cơ
hội đầu tư vẫn còn rủi ro. Việc phải trả nợ sẽ khiến họ phải ưu tiên giải quyết những
nhu cầu đó trước tiên thay vì cân nhắc đến các cơ hội đầu tư.
2.5. Lòng tin của kiều bào đối với Chính phủ:
Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hầu hết các hạn chế của
kiều hối trong việc đầu tư vào các dự án kinh doanh. Ngày nay, tuy rằng Chính phủ lOMoAR cPSD| 58707906
đã có những chính sách nhất định để thu hút thêm người lao động ở nước ngoài đóng
góp thêm vào sự phát triển của nền kinh tế trong nước, nhà nước ta hiện nay vẫn còn
hạn chế trong việc tạo dựng được lòng tin với các kiều bào trong các chính sách quản
lý chưa minh bạch, rõ ràng và nghiêm ngặt của bộ máy nhà nước.
Dưới những tình trạng bất cập còn tồn đọng trong bộ máy quản lý như tình
trạng “trên thoáng - dưới chặt”, tình trạng lách luật, tình trạng “cho - xin”, và các cách
hành xử không đúng với quy định khác, đã khiến cho những người dân sinh sống ở
nước ngoài giảm đi lòng tin về môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh trong nước.
Điều này sẽ dẫn đến xu hướng chung trong bộ phận những người Việt kiều khi họ giữ
lại phần tài sản tiết kiệm ở nơi họ đang sinh sống thay vì chuyển chúng về Việt Nam
và làm giảm lượng kiều hối gia nhập vào nội quốc.
Với những hạn chế còn chưa phát huy được của kiều hối trong lĩnh vực đầu tư
kinh doanh ở Việt Nam, nếu chúng ta có thể khắc phục và tìm ra những giải pháp này
trong tương lai gần, quá trình tăng trưởng của nước ta trong tương lai gần chắc chắn
sẽ có những chuyển biến tích cực hơn.
IV. Đề xuất kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Tiềm lực và lượng kiều hối đổ về Việt Nam là rất lớn, kiều hối sử dụng để đầu
tư vào lĩnh vực sản xuất nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho đất nước cũng sẽ là một
kênh đầu tư hiệu quả, có ích. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hiện nay
nếu muốn hướng nguồn tiền này vào sản xuất - kinh doanh, Nhà nước cũng nên có
những chính sách, giải pháp để hỗ trợ và nâng cao lợi ích, tạo điều kiện người dân đầu
tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Dựa vào số liệu nguồn kiều hối đổ về nước và
thực trạng sử dụng kiều hối nhóm em có đề xuất một số giải pháp như sau:
1. Ổn định tình hình kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Nhà nước cần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo lập môi
trường đầu tư theo hướng tích cực, hạn chế thay đổi đột ngột các quy định trong hoạt
động đầu tư. Đồng thời cần rút gọn thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục đăng
ký kinh doanh, cấp phép, giảm thiểu thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư. Bên cạnh
đó cần nâng cao tính minh bạch, công khai thông tin về các chính sách, quy định, tạo
môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và xóa bỏ sự phân biệt đối xử, vòi vĩnh,
nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ hành chính, gây mất niềm tin đối với Việt kiều.
Để có thể thúc đẩy kinh tế phát triển, là tiền đề để nguồn kiều hối chảy vào sản
xuất kinh doanh, nhà nước nên có những dự án lớn, tăng cường đầu tư vào hạ tầng
giao thông, năng lượng, viễn thông và hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. lOMoAR cPSD| 58707906
2. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn Kiều hối
Kết quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế mang lại từ sử dụng nguồn
kiều hối, sẽ là yếu tố quan trọng để không chỉ khuyến khích sử dụng nguồn lực kiều
hối tập trung và hiệu quả mà còn là giải pháp bền vững nhất thu hút nguồn kiều hối
chuyển về tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới. Khi thấy tiềm năng phát triển của
lĩnh vực sản xuất và hiệu quả kinh tế mà nó mang lại các kiều bào, nhà đầu tư sẽ dồn
nhiều vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh hơn.
Ở góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, kiều hối là nguồn vốn không phải chịu các điều
kiện vay, nguyên tắc hoàn trả như các nguồn vốn ngoại tệ khác.Vậy nên nhà nước cần
có những chính sách và đảm bảo môi trường thuận lợi để giúp nguồn kiều hối phát
triển, tiếp tục hoàn thiện các chính sách về kiều hối, ngoại hối.
3. Xây dựng chính sách, ưu đãi hợp lý để dẫn kiều hối vào đầu tư sản xuất kinh doanh
Nhà nước cần thực thi các chính sách tạo động lực để các dòng kiều hối đầu tư
vào lĩnh vực sản xuất, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo các hiệu ứng
tích cực cho sự phát triển của đất nước. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ, ưu tiên dành riêng cho các dự án đầu tư có vốn từ kiều hối, bởi sản phẩm sản xuất
ra được tiêu thụ qua kiểu bào sinh sống tại các nước. Để làm được việc này, Nhà nước
nên thành lập một bộ phận chuyên trách thu hút đầu tư từ kiều hối và Việt kiều.
Ngoài việc nới rộng những điều kiện mang tính thủ tục, cần phải làm rõ xem
kiều bào sẽ được hưởng lợi ích gì? Khi các chính sách được thực thi, cần phải tiến
hành khảo sát, kiểm tra tính hiệu quả của các hoạt động bằng nguồn tiền này mang lại
như thế nào nhằm tránh bị lợi dụng, phát sinh tiêu cực.
Mặt khác, kiều hối là nguồn tiền của dân nên việc quyết định đầu tư vào đâu là
quyền của họ. Chính vì vậy, muốn hướng kiều bào đầu tư vào sản xuất - kinh doanh
hay những hoạt động khác mang lại lợi ích cho nền kinh tế đất nước thì Chính phủ
Việt Nam cần có những chính sách tích cực để tạo niềm tin cho kiều bào hay những
người thụ hưởng nguồn tiền này.
4. Tăng cường thông tin, tuyên truyền:
Tổ chức các hội thảo, hội nghị, sự kiện để giới thiệu về môi trường đầu tư kinh
doanh của Việt Nam, các cơ hội đầu tư và chính sách hỗ trợ. Tăng cường quảng bá
hình ảnh đất nước: Xây dựng hình ảnh đất nước năng động, thân thiện, thu hút đầu tư.
Thứ nhất, tiếp tục làm tốt công tác truyền thông để thấy được vai trò của kiều
hối, là nguồn lực vàng đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước nói chung và thành
phố nói riêng. Với bản chất là nguồn tiền của kiều bào, người lao động ở nước ngoài lOMoAR cPSD| 58707906
chuyển về gửi tặng thân nhân trong nước, nguồn vốn này khác biệt và có ưu điểm
vượt trội so với các nguồn vốn khác.
Thứ hai, truyền thông chính sách về kiều hối của Chính phủ, của Ngân hàng
Trung ương và của UBND thành phố, đối với tất cả các đối tượng liên quan: từ kiều
bào, đến người dân và các cơ quan tổ chức có liên quan. Từ đó đảm bảo thực hiện tốt
chính sách kiều hối, thực hiện đúng quy định về quản lý ngoại hối và sử dụng nguồn
kiều hối hiệu quả. Đặc biệt, làm tốt công tác này không chỉ thu hút kiều hối, thúc đẩy
hoạt động chi trả kiều hối của các tổ chức tín dụng, các công ty kiều hối mà còn đảm
bảo hoạt động này công khai minh bạch; cung cấp sản phẩm dịch vụ kiều hối thuận
lợi, an toàn và hiệu quả, tiếp tục tạo niềm tin từ kiều bào, người dân và thúc đẩy hoạt động này phát triển.
Thứ ba, thông tin tuyên truyền về các giải pháp phát huy và sử dụng hiệu quả
nguồn kiều hối. Đặc biệt là tuyên truyền về đất nước con người Việt Nam, về du lịch
dịch vụ và môi trường đầu tư kinh doanh; về các dự án và công cụ tài chính, các lĩnh
vực đầu tư và dự án bảo đảm an sinh xã hội…
Sử dụng các kênh truyền thông hiện đại, tận dụng các kênh truyền thông xã
hội, mạng internet để tiếp cận cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
5. Tăng cường vai trò của cộng đồng người Việt ở nước ngoài
Người việt Nam ngày càng có địa vị và phát triển mạnh ở thị trường sở tại.
Chỉ với 5% dân số Việt Nam nhưng tạo nên nền kinh tế đáng kể cho nền kinh tế. Vậy
nên, nhà nước, nhân dân cần có những phương pháp để tăng cường sự kết nối với
những người Việt Nam ở nước ngoài.
Tiếp tục đẩy mạnh tổ chức các sự kiện để kết nối cộng đồng người Việt ở nước
ngoài với doanh nghiệp trong nước, cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư. Trong năm
2023, Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở nước ngoài đã chủ trì hoặc phối hợp,
bảo trợ tổ chức 15 hội nghị, hội thảo, tọa đàm, chương trình, sự kiện nhằm kết nối,
thu hút nguồn lực người Việt Nam tại nước ngoài, tập trung vào những vấn đề mang
tính đột phá chiến lược như đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xanh, tuần hoàn, bao trùm;
tăng cường hỗ trợ các hội doanh nhân, trí thức kiều bào tổ chức cách hoạt động gắn kết với trong nước.
Minh bạch nguồn thông tin về văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, hình thành
những tổ chức làm cầu nối cho Việt kiều về nước, xây dựng một diễn đàn có tính chất
thường niên về tư vấn chính sách để Việt kiều có thể đóng góp với Chính phủ đối với
một số lĩnh vực kinh tế-xã hội quan trọng.