Kinh tế chính trị mac lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* *
*
BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Phân tích những ưu thế và những khuyết tật của kinh tế thị trường?
Liên hệ với thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam? Theo bạn cần phải có
những giải pháp gì để khắc phục những khuyết tật đó là gì?
Họ và tên: Bùi Minh Ngọc
Lớp: POHE Quản lý thị trường K63
Mã sinh viên: 11219754
HÀ NỘI, NĂM 2022
LỜI NÓI ĐẦU
Trong khi nền kinh tế thế giới đang có xu hướng phát triền mạnh mẽ thì
Việt Nam ta còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nghèo
nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ
thuật kém phát triển…; nạn tham ô lạm phát, thất nghệp, ô nhiễm môi trường…
vẫn luôn là một trong những vấn đề nóng hổi chưa hạn chế được. Tuy vậy, ta
không thể khắc phục được những yếu điểm đó ngay được mà ta phải dần dần
khắc phục. Cùng với đó, phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học
kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất nước.
Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn về mọi mặt nhất
là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần áp dụng những biện pháp phát
triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chúng
ta cần phải linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực cuả sự phát triển kinh tế.
Tiểu luận được trình bày với nội dung chính là khẳng định tính tất yếu
trong việc quản lý và phát triển kinh tế. Song do khuôn khổ và kiến thức có hạn
nên em không thể đề cập tới tất cả các khía cạnh của vấn đề, em rất mong có
được sự đóng góp ý kiến của cô để bài luận được hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG
I. Những ưu thế và những khuyết tật của kinh tế thị trường
Tổng quát về nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và
trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy
luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế
thị turongf. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ
khác nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
1. Ưu thế của nền kinh tế thị trường
I. Một là, nền kinh tế thị
trường luôn tạo động lực
cho sự sáng tạo các chủ thể
kinh
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các
chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động
lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế
thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt
động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của
họ, qua đó, thúc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền
kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp nhận những
ý tuowngrsangs tạo mới trong thực tiễn sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền
kinh tế thị trường tạo môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới
theo sự phát triển của xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi
chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể dược phát
huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết
của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn
hanwe so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy
tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia, của từng
quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối
đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm
thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự
tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ
cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu
cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời;
người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng
loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương
thức để thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội.
2. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng
hoảng.
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được
những cân đối, do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng
có thể diễn ra cục bộ cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy
ra với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối
với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo
chínhxác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc
phục được những rủi ro tiềm ẩn này.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn
kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội.
Do các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực
tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản
xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu
làm giàu thậm chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh,
thậm chí cả đạo đức xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản
thân nền kinh tế thị trường. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động
sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vòa các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được các
khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân
hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về
cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được
hiện tượng phân hóa sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo
mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh
tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Đó là khuyết tật của nền kinh tế
thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước.
II. Thực trạng nền kinh tế nước ta và các giải pháp khắc phục
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt
đối cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giới đi nữa.
Lúc nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế
cần được tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận
hành và quản lý nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ
đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế.
Đó vẫn là một trong những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có cả Việt Nam.
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
1.1. Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là “Thời kỳ
bao cấp” là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau
khi thống nhất và là giai đoạn của những tìm tòi nhằm thoát khỏi mô hình này.
Thời bao cấp là tên gọi để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều
được nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó thì kinh
tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong
nền kinh tế kế hoạch, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà
nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến tối đa việc mua bán trên thị
trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương
khác.Bản thân cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn mang rất nhiều hạn
chế, khuyết tật kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và nó chỉ thực sự
bộc lộ nhữngkhuyết điểm sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng và phát triển kinh tế. Đầu tiên, cơ chế này thủ tiêu cạnh tranh, kìm
hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế cũng
như không kích thích tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh
doanh. Nhà nước chỉ huy nền kinh tế làm cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước trở nên quan liêu, lộng quyền. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai
đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học
– công nghệ thì cơ chế kinh tế kế hoạch hóa càng bộc lộ những hạn chế của nó,
làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩacủa nước ta lâm vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng nghiêm trọng.
1.2. Nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, nhà nước bắt đầu có
một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã
thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chủ
trương này, đất nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định. Một trong
những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông
nghiệp, mà nội dung cơ bản là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở
nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông
thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Sản xuất công nghiệp đi dần
vào thế phát triển ổn định, những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản
xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Do sản
xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã
được kiềm chế và đẩy lùi. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã
hội khác được củng cố và tăng cường. Sau mười năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa
năm 2000, cả nước hoàn thành 3 chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc
đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta
hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Gia nhập ASEAN,
APEC, ASEM và WTO đã làm cho vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên
thế giới. Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày
càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng
có tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực
và thế giới góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở
rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một
quốc gia thành công trong quá trình đổi mới. Hệ thống luật pháp trong nước
cũng không ngừng được sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm
tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng có
những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm
cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm.
Một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tuy nhiên
trong nhiều ngành kinh tế vẫn sử dụng máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.
Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với
khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng,
hệ thống thông tin liên lạc... còn lạc hậu, kém phát triển nên chưa kết nối được
tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Doanh nghiệp chạy theo mục tiêu lợi nhuận, hạn chế chi phí sản xuất đến mức
tối đa nên xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trên thị trường hàng hóa, dịch vụ
như hàng giả, hàng nhái và thực phẩm bẩn. Mục đích hoạt động của các doanh
nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội,
gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội
không được bảo đảm. Phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động
của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của
cải, tác động tiêu cực đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị
trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Nhằm đứng vững trên con đường đổi mới và phát triển, nhà nước ta đã có
những chính sách nhất định nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện
điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng
trưởng ổn định. Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định.
Môi trường vĩ mô thuận lợi không thể tự hình thành, mà phải được nhà nước
thành lập. Trước hết là bắt đầu bằng việc giữ vững ổn định chính trị. Nhà nước
bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để
tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều
kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật
pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở
hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt
động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác
động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế
của họ. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang
thay đổi tích cực. Môi trường kinh tế vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những
chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế
cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng được
yêu cầu này. Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các
doanh nghiệp vì lợi ích tối đa hóa lợi nhuận hẹp hòi của mình mà lạm dụng tài
nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia
đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các
biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ
môi trường, ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu
vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư.
Không những thế mà nhà nước còn đầu tư bảo vệ môi trường, phát triển đa
dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng
cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. Về vấn đề hàng
giả, hàng nhái và kém chất lượng cũng như thực phẩm bẩn, nhà nước tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm trong sản
xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm để công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm từng bước được kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả, tổ chức tốt
công tác truyền thôngvề an toàn thực phẩm cho người dân cũng như người sản
xuất kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, xây dựng khuôn khổ luật pháp nhằm
tiến tới việc xã hội hóa trong công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm. Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân
một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước cần thực hiện có hiệu quả
các chính sách xóa đói, giảm nghèo,khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Tiếp
theo, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân nghèo kinh
doanh, làm giàu hợp pháp. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp pháp như buôn
lậu, lừa đảo, tham nhũng…vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Để chống các hình
thức thu nhập bất hợp pháp trên, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm
chính, có hiệu lực. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà
nước phải thực sự bình đẳng. Thực hiện minh bạch, công khai mọi cơ chế,
chính sách và quy định của nhà nước. Nhờ đó mà người dân, doanh nghiệp và
cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình,
đồng thời, các cơ uan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát,
tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng
2. Biện pháp khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
2.1. Vai trò của nhà nước
2.1.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Môi trường vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước
tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây
dựng được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của
các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích đất nước. Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật của mỗiquốc gia phải tuân thủ các
thông lệ quốc tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu
phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận
lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp vớiyêu
cầu phát triển kinh tế thị trường.
2.1.2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy
luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi
ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà
nước cần có các chính sách, trước hết là các chính sách phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá
nhân là khách quan; mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệchthu nhập quá đáng.
Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xungđột xã
hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập phải tính đến.
2.1.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội
Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các
lợi ích kinh tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống
tối thiểu. Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, tạo cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng
thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức,
hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần
thiết để loại bỏ những vấn đề về thu nhập. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp
pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo… tồn tại kháphổ biến. Các
hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể
làm ăn chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các hình thức thu nhập bất hợp pháp,
mọivi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
2.2. Vai trò của cộng đồng
2.2.1. Giảm thiểu mức tăng dân số
Tuy những năm gần đây tỉ lệ tặng dân số có giảm hơn trước nhưng vấn
đề còn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động ngày cằng gia tăng trong khi
việc làm thì ngày càng ít do sự phát triển của khao học công nghệ. Chính những
người thất nghiệp này là nguy cơ đẫn đến sự gia tăng của tệ nạn xã hội, anh
minh không được bảo đảm.
2.2.2. Tăng trình độ con người
Trình độ văn hóa của con người thấp kém, khả năng sử dụng máy móc,
trang thiết bị hiện đại trong phát trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu
thực tế. Hơn nữa những người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực
lượng lao động của đất nước. Thái độ lao động của nhiều người còn không
nghiêm túc. Những người có trình độ, có tri thức vận dụng tài năng của mình để
tham ô tài sản nhà nước. Tất cả các yếu tố trên đã góp phần không nhỏ vào việc
kìm hãm sự phát triểm của nền kinh tế đất nước.
KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô hình
khác nhau, các nền kinh tế thị trường có những đặc trưng chung như có sự đa
dạng các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các chủ thể bình đẳng trước
pháp luật, đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội, giá
cả hình thành theo nguyên tắc thị trường, quan hệ mật thiết với thị trường quốc
tế, … Đây đều là những đặc trưng mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị
trường. Song, còn tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể và chế độ chính trị xã hội
của mỗi quốc gia, ngoài những đặc điểm chung, mỗi nền kinh tế thị trường quốc
gia có thể có đặc trưng riêng, tạo nên tính đặc thù và các mô hình kinh tế thị
trường khác nhau.
Đến nay, nước ta đã và đang thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện
và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng
có những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp
làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các
hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định.
Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định. Một vài biện
pháp khắc phục cho những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường có thể kể đến
như: nhà nước bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh
nghiệp – xã hội, Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu
cực đối với sự phát triển xã hội, đồng thời cần giảm mức tăng dân số và tăng
trình độ con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin.
Báo “Dân Kinh Tế” về ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường.
Báo “Hiểu luật” về Kinh tế thị trường là gì? Ưu, nhược điểm của kinh tế thị
trường.
Báo “Tập chí tài chính” về Kinh tế thị trường và các vấn đề xã hội.
Báo “Tạp chí cộng sản” – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
“baochinhphu.vn” – Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
| 1/11

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN * * * BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Phân tích những ưu thế và những khuyết tật của kinh tế thị trường?
Liên hệ với thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam? Theo bạn cần phải có
những giải pháp gì để khắc phục những khuyết tật đó là gì?
Họ và tên: Bùi Minh Ngọc
Lớp: POHE Quản lý thị trường K63 Mã sinh viên: 11219754 HÀ NỘI, NĂM 2022 LỜI NÓI ĐẦU
Trong khi nền kinh tế thế giới đang có xu hướng phát triền mạnh mẽ thì
Việt Nam ta còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nghèo
nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ
thuật kém phát triển…; nạn tham ô lạm phát, thất nghệp, ô nhiễm môi trường…
vẫn luôn là một trong những vấn đề nóng hổi chưa hạn chế được. Tuy vậy, ta
không thể khắc phục được những yếu điểm đó ngay được mà ta phải dần dần
khắc phục. Cùng với đó, phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học
kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất nước.
Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn về mọi mặt nhất
là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần áp dụng những biện pháp phát
triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chúng
ta cần phải linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực cuả sự phát triển kinh tế.
Tiểu luận được trình bày với nội dung chính là khẳng định tính tất yếu
trong việc quản lý và phát triển kinh tế. Song do khuôn khổ và kiến thức có hạn
nên em không thể đề cập tới tất cả các khía cạnh của vấn đề, em rất mong có
được sự đóng góp ý kiến của cô để bài luận được hoàn thiện hơn. NỘI DUNG I.
Những ưu thế và những khuyết tật của kinh tế thị trường
Tổng quát về nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và
trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế
thị turongf. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ
khác nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. 1.
Ưu thế của nền kinh tế thị trường
I. Một là, nền kinh tế thị
trường luôn tạo động lực
cho sự sáng tạo các chủ thể kinh
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động
lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế
thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt
động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của
họ, qua đó, thúc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền
kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp nhận những
ý tuowngrsangs tạo mới trong thực tiễn sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền
kinh tế thị trường tạo môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới
theo sự phát triển của xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi
chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể dược phát
huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết
của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn
hanwe so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy
tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia, của từng
quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối
đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm
thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự
tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ
cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu
cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời;
người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng
loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương
thức để thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội. 2.
Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được
những cân đối, do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng
có thể diễn ra cục bộ cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy
ra với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối
với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo
chínhxác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc
phục được những rủi ro tiềm ẩn này.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn
kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Do các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực
tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản
xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu
làm giàu thậm chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh,
thậm chí cả đạo đức xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản
thân nền kinh tế thị trường. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động
sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vòa các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân
hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về
cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được
hiện tượng phân hóa sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo
mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh
tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Đó là khuyết tật của nền kinh tế
thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước. II.
Thực trạng nền kinh tế nước ta và các giải pháp khắc phục
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt
đối cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giới đi nữa.
Lúc nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế
cần được tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận
hành và quản lý nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ
đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế.
Đó vẫn là một trong những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có cả Việt Nam. 1.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
1.1. Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là “Thời kỳ
bao cấp” là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau
khi thống nhất và là giai đoạn của những tìm tòi nhằm thoát khỏi mô hình này.
Thời bao cấp là tên gọi để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều
được nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó thì kinh
tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong
nền kinh tế kế hoạch, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà
nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến tối đa việc mua bán trên thị
trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương
khác.Bản thân cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn mang rất nhiều hạn
chế, khuyết tật kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và nó chỉ thực sự
bộc lộ nhữngkhuyết điểm sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng và phát triển kinh tế. Đầu tiên, cơ chế này thủ tiêu cạnh tranh, kìm
hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế cũng
như không kích thích tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh
doanh. Nhà nước chỉ huy nền kinh tế làm cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước trở nên quan liêu, lộng quyền. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai
đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học
– công nghệ thì cơ chế kinh tế kế hoạch hóa càng bộc lộ những hạn chế của nó,
làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩacủa nước ta lâm vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng nghiêm trọng.
1.2. Nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, nhà nước bắt đầu có
một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã
thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chủ
trương này, đất nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định. Một trong
những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông
nghiệp, mà nội dung cơ bản là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở
nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông
thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Sản xuất công nghiệp đi dần
vào thế phát triển ổn định, những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản
xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Do sản
xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã
được kiềm chế và đẩy lùi. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã
hội khác được củng cố và tăng cường. Sau mười năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa
năm 2000, cả nước hoàn thành 3 chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc
đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta
hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Gia nhập ASEAN,
APEC, ASEM và WTO đã làm cho vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên
thế giới. Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày
càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng
có tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực
và thế giới góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở
rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một
quốc gia thành công trong quá trình đổi mới. Hệ thống luật pháp trong nước
cũng không ngừng được sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm
tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng có
những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm
cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm.
Một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tuy nhiên
trong nhiều ngành kinh tế vẫn sử dụng máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.
Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với
khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng,
hệ thống thông tin liên lạc... còn lạc hậu, kém phát triển nên chưa kết nối được
tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Doanh nghiệp chạy theo mục tiêu lợi nhuận, hạn chế chi phí sản xuất đến mức
tối đa nên xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trên thị trường hàng hóa, dịch vụ
như hàng giả, hàng nhái và thực phẩm bẩn. Mục đích hoạt động của các doanh
nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội,
gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội
không được bảo đảm. Phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động
của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của
cải, tác động tiêu cực đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị
trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Nhằm đứng vững trên con đường đổi mới và phát triển, nhà nước ta đã có
những chính sách nhất định nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện
điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng
trưởng ổn định. Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định.
Môi trường vĩ mô thuận lợi không thể tự hình thành, mà phải được nhà nước
thành lập. Trước hết là bắt đầu bằng việc giữ vững ổn định chính trị. Nhà nước
bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để
tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều
kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật
pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở
hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt
động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác
động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế
của họ. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang
thay đổi tích cực. Môi trường kinh tế vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những
chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế
cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng được
yêu cầu này. Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các
doanh nghiệp vì lợi ích tối đa hóa lợi nhuận hẹp hòi của mình mà lạm dụng tài
nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia
đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các
biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ
môi trường, ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu
vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư.
Không những thế mà nhà nước còn đầu tư bảo vệ môi trường, phát triển đa
dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng
cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. Về vấn đề hàng
giả, hàng nhái và kém chất lượng cũng như thực phẩm bẩn, nhà nước tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm trong sản
xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm để công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm từng bước được kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả, tổ chức tốt
công tác truyền thôngvề an toàn thực phẩm cho người dân cũng như người sản
xuất kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, xây dựng khuôn khổ luật pháp nhằm
tiến tới việc xã hội hóa trong công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm. Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân
một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước cần thực hiện có hiệu quả
các chính sách xóa đói, giảm nghèo,khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Tiếp
theo, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân nghèo kinh
doanh, làm giàu hợp pháp. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp pháp như buôn
lậu, lừa đảo, tham nhũng…vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Để chống các hình
thức thu nhập bất hợp pháp trên, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm
chính, có hiệu lực. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà
nước phải thực sự bình đẳng. Thực hiện minh bạch, công khai mọi cơ chế,
chính sách và quy định của nhà nước. Nhờ đó mà người dân, doanh nghiệp và
cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình,
đồng thời, các cơ uan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát,
tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng 2.
Biện pháp khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
2.1. Vai trò của nhà nước
2.1.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động

tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Môi trường vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước
tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây
dựng được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của
các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích đất nước. Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật của mỗiquốc gia phải tuân thủ các
thông lệ quốc tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu
phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận
lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp vớiyêu
cầu phát triển kinh tế thị trường.
2.1.2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy
luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi
ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà
nước cần có các chính sách, trước hết là các chính sách phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá
nhân là khách quan; mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệchthu nhập quá đáng.
Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xungđột xã
hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập phải tính đến.
2.1.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội
Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các
lợi ích kinh tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống
tối thiểu. Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, tạo cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng
thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức,
hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần
thiết để loại bỏ những vấn đề về thu nhập. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp
pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo… tồn tại kháphổ biến. Các
hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể
làm ăn chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các hình thức thu nhập bất hợp pháp,
mọivi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
2.2. Vai trò của cộng đồng
2.2.1. Giảm thiểu mức tăng dân số
Tuy những năm gần đây tỉ lệ tặng dân số có giảm hơn trước nhưng vấn
đề còn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động ngày cằng gia tăng trong khi
việc làm thì ngày càng ít do sự phát triển của khao học công nghệ. Chính những
người thất nghiệp này là nguy cơ đẫn đến sự gia tăng của tệ nạn xã hội, anh
minh không được bảo đảm.
2.2.2. Tăng trình độ con người
Trình độ văn hóa của con người thấp kém, khả năng sử dụng máy móc,
trang thiết bị hiện đại trong phát trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu
thực tế. Hơn nữa những người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực
lượng lao động của đất nước. Thái độ lao động của nhiều người còn không
nghiêm túc. Những người có trình độ, có tri thức vận dụng tài năng của mình để
tham ô tài sản nhà nước. Tất cả các yếu tố trên đã góp phần không nhỏ vào việc
kìm hãm sự phát triểm của nền kinh tế đất nước. KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô hình
khác nhau, các nền kinh tế thị trường có những đặc trưng chung như có sự đa
dạng các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các chủ thể bình đẳng trước
pháp luật, đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội, giá
cả hình thành theo nguyên tắc thị trường, quan hệ mật thiết với thị trường quốc
tế, … Đây đều là những đặc trưng mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị
trường. Song, còn tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể và chế độ chính trị xã hội
của mỗi quốc gia, ngoài những đặc điểm chung, mỗi nền kinh tế thị trường quốc
gia có thể có đặc trưng riêng, tạo nên tính đặc thù và các mô hình kinh tế thị trường khác nhau.
Đến nay, nước ta đã và đang thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện
và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng
có những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp
làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các
hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định.
Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định. Một vài biện
pháp khắc phục cho những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường có thể kể đến
như: nhà nước bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh
nghiệp – xã hội, Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu
cực đối với sự phát triển xã hội, đồng thời cần giảm mức tăng dân số và tăng trình độ con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin.
 Báo “Dân Kinh Tế” về ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường.
 Báo “Hiểu luật” về Kinh tế thị trường là gì? Ưu, nhược điểm của kinh tế thị trường.
 Báo “Tập chí tài chính” về Kinh tế thị trường và các vấn đề xã hội.
 Báo “Tạp chí cộng sản” – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
 “baochinhphu.vn” – Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.