



















Preview text:
Làm rõ các phong trào yêu nước theo khuynh hướng 
phong kiến và tư sản ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu 
thế kỉ XX. phân tích nguyên nhân thất bại và ý nghĩa  của các phong trào đó Hoàn cảnh lịch sử Thế giới:
 Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nền
kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về 
thị trường và là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến 
tranh xâm lược các cuốc gia phong kiến Phương Đông.
 Cách Mạng tháng mười Nga thành công năm 1917. Trong nước:
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm xã 
hội Việt Nam biến đổi sâu sắc cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã  hội.
Phong trào yêu nước Việt Nam mang khuynh hướng phong kiến Phong trào Cần Vương:
Phong trào Cần Vương bản chất là tập hợp hệ thống những cuộc 
khởi nghĩa vũ trang khắp toàn quốc từ năm 1885 đến năm 1896 với 
sự hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Mô hình của 
trào lưu này còn riêng rẽ và mang tính địa phương.
 Giai đoạn một: Năm 1885-1888 là giai đoạn phong trào Cần 
Vương đặt dưới sự chỉ huy tương đối thống nhất của triều đình.
Mở đầu là các cuộc nổi dậy của Văn Thân Nghệ An và Hà 
Tĩnh và sau đó liên tục các cuộc nổi dậy ở Quảng Bình, Quảng 
Trị, Thanh Hoá, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh 
Hoà, Thái Bình, Nam Định… Thời kỳ này phong trào nổ ra 
rầm rộ tại các tỉnh Bắc và Trung Bộ. 
 Giai đoạn hai: Năm 1888-1896 phong trào Cần Vương không 
còn đặt dưới sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến nữa, 
nhưng vẫn tiếp tục được duy trì và quy tụ xung quanh những 
cuộc khởi nghĩa lớn như: 
 Khởi nghĩa Ba Đình năm 1881-1887 do Đốc học Phạm Bành 
và Đinh Công Tráng lãnh đạo, tuy chiên đấu dũng cảm nhưng 
do lực lượng quá chênh lệch nên khởi nghĩa đã thất bại.
 Khởi nghĩa Bãi Sậy 1882-1893 do Nguyễn Thiện Thuật lãnh 
đạo. Trong suốt mười năm, nghĩa quân Bãi Sậy hoạt động quấy
rối, tiến công, tiêu hao sinh lực địch. Nhiều cuộc phục kích, 
đánh đòn, chặn đường giao thông diễn ra liên tục ở khắp nơi 
gây cho địch những tổn thất nghiêm trọng. Để đối phó với 
nghĩa quân thực dân Pháp đã mở cuộc càn quét lớn bao vây 
chặt nghĩa quân. Nghĩa quân chiến đấu anh dũng song cuối 
cùng khởi nghĩa đã hoàn toàn thất bại, những người lãnh đạo  đều hy sinh.
 Khởi nghĩa Hùng Lĩnh năm 1887-1892 do Tống Duy Tân và 
Cao Điển lãnh đạo gồm các cơ sở (khoảng 200 người). Trong 
những năm 1889-1890, nghĩa quân đã tổ chức những trận đánh
lớn, gây cho địch nhiều tổn hại. Sau các cuộc càn quétcủa địch,
nghĩa quân phải ở dần lên vùngTây Bắc của Thanh Hoá. Do 
thực dân Pháp liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, địa 
bàn hoạt động của nghĩa quân bị thu hẹp nhiều và cuối cùng  cũng bị thất bại.
 Khởi nghĩa Hương Khê: Năm 1885-1888 do Phan Đình 
Phùng lãnh đạo. Phan Đình Phùng đã tập hợp và phát triển 
thành một phong trào chống Pháp có quy mô lớn. Sau các cuộc
chiến đấu lien tục, lực lượng nghĩa quân ngày một hao mòn. 
Trong cuộc chiến đấu ác liệt dể bảo vệ căn cứ, chủ tướng Phan 
Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh.Đến đây thì khởi nghĩa 
Hương Khê chấm dứt. Khởi nghĩa thất bại song là cuọc khởi 
nghĩa lớn nhất trong phong trào Cần Vương chông Pháp cuối  thế kỷ XIX.
Tóm lại: Thất bại của phong trào cần vương chứng tỏ sự bất lực của
hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ dành độc lập 
cho lịch sử đặt ra vàtừ đây phong trào cách mạng Việt Nam chuyển  sang giai đoạn mới.
Phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng dân chủ tư  sản
Phan bội châu và phong trào Đông Du:
Với quan điểm “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ngay từ đầu Phan 
Bội Châu đã kiên trì giành độc lập bằng con đường bạo lực. Ngay từ
đầu thế kỷ XX ông đã chuẩn bị công cuộc bạo động đánh Pháp. 
Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là
Nhật Bản, để đánh Pháp dành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà 
nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật.
Phong trào Đông Du (1906-1908)  
, tức phong trào đi du học ở 
phương tây để đào tạo du học sinh về văn hoá và quân sự cần thiết 
cho công cuộc đánh Pháp cứu nước và kiến thiết đất nước. Phong 
trào đông du ngày càng lớn mạnh , thực dân Pháp một mặt tiến 
hành khủng bố, mặt khác tiến hành cấu kết với Nhật trục xuất những
người yêu nước Việt Nam ra khỏi nước Nhật trong đó có cả Phan 
Bội Châu. Phan Bội Châu nhận thấy được bản chất của chủ nghĩa 
thực dân. Chủ trương dựa vào Nhật đánh Pháp không thành nên ông
về Xiêm nằm chờ thời cơ. Giữa lúc đó cách mạng Tân Hợi bùng nổ 
và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam quang 
phục hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước 
võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc nhưng cuối cùng  cũng thất bại.
Phong tào Duy Tân (1906-1908):
Là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do Phan 
Châu Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906 cho đến năm 1908 
thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.
Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước 
bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó 
có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn như là 
mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học
hiện đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa 
học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.
Để thực hiện mục tiêu trên, Phan Chu Trinh chủ trương tạm thời dựa
vào Pháp để đánh đổ phong kiến, dành lại quyền lực cho nhân dân, 
sau đó sẽ đánh đổ đế quốc, dành độc lập dân tộc. Tóm lại:
Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân đều có nhiều ý nghĩa 
kích động lòng yêu nước đòi độc lập dân tộc, xu hướng cải cách 
không tách rời xu hướng bạođộng. Tuy nhiên do những hoàn cảnh 
về lịch sử, về giai cấp nên các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX 
đều không tìm được đường lối cứu nước đúng đắn để đấu tranh giải 
phóng dân tộc nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
 Từ năm 1919-1923,  phong trào quốc gia cải lương của bộ 
phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động 
chấn hưng nội háo bài trừ ngoại hoá năm (1919), chống độc 
quyền thương cảng Sài Gòn năm (1923), cuộc vận động đòi 
hưởng nghị định về thể lệ nhân công năm (1924), chống độc 
quyền nước mắm năm (1920-1926), chống trục xuất người 
miền trung , miền bắc ra khỏi Nam Kỳ năm(1925).
 Từ năm 1925-1926 đã diễn ra phong trào yêu nước dân chủ 
công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới với nhiều
phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn.
 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản năm (1927-1930) gắn
liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ 
tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo 
quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể 
hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản ở 
Việt Nam nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam 
rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao 
ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, chưa có đường lối 
chính trị rõ ràng và một hình thức tổ chức chặt chẽ.
Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa: Nguyên nhân khách quan:
 Thực dân Pháp là một cường quốc hùng mạnh, có quân đội và 
vũ khí trang bị hiện đại.
 Bọn thống trị phong kiến Việt Nam cấu kết với Pháp đàn áp  phong trào yêu nước.
Nguyên nhân chủ quan:
 Thiếu một tư tưởng kiên định, tiên tiến dẫn đường nên chưa đề 
ra được đường lối cách mạng đúng đắn, vì vậy chưa thúc đẩy, 
động viên và khai thác triệt để được sự ủng hộ của nhân dân, 
chỉ nơi nào có nghĩa quân hoạt động thì nhân dân mới giúp đỡ,  ủng hộ.
 Hạn chế về nhận thức của những người tư sản mang hệ tư 
tưởng phong kiến lạc hậu, không đủ năng lực và uy tín để liên 
kết các phong trào lạ thành khối, thiếu tổ chức và lãnh đạo  thống nhất.
 Thiếu sự lãnh đạo thống nhất, đường lối chiến lược, sách lược  chưa phù hợp.
 Trang bị vũ khí thô sơ, lạc hậu so với quân Pháp.
 Chia rẽ nội bộ, thiếu sự phối hợp giữa các cuộc khởi nghĩa.
 Phong trào còn non trẻ, thiếu tổ chức chặt chẽ.
 Chưa có sự liên kết với giai cấp nông dân. Ý nghĩa: Đối với quốc tế:
 Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
góp phần khích lệ, động viên nhân dân các nước thuộc địa và 
phụ thuộc đứng lên tự giải phóng mình khỏi sự lệ thuộc, sự áp 
bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân dành lại độc lập cho dân 
tộc và hạnh phúc cho chính bản thân. Nhất là đối với các dân 
tộc thuộc địa và phụ thuộc vào thực dân Pháp.
 Phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
tuy không dành được thắng lợi nhưng đã dáng một đòn mạnh 
mẽ vào chủ nghĩa thực dân kiểucũ là Pháp.
 Để lại cho phong trào cách mạng ở các dân tộc thuộc địa, phụ 
thuộc nói chung và phong trào cách mạng thế giới những bài 
học kinh nghiệm quý báu về đường lối cách mạng, phương 
pháp cách mạng, lực lượng cách mạng, sức mạnh đoàn kết toàn
dân và khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất thuộc về giai cấp 
vô sản và chính Đảng của nó.
Đối với dân tộc:
 Phong trào yêu nước Việt Nam thể hiện lòng yêu nước sâu sắc 
nồng nàn của nhân dân ta, truyền thống đó đã có từ ngàn xưa 
khi dân tộc ta quá trình dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa nâng cao nhận thức 
cho nhân dân, góp phần mở mang dân chí, xoá bỏ những hủ 
tục lạc hậu, những phong tục tập quán cũ.
 Tuy thất bại song nó là những cuộc tập dượt của nhân dân ta 
làm quen với các hình thức và phương pháp đấu tranh để có 
thêm kinh nghiệm cho những cuộc đấu tranh hiện đại mà quân 
địch sử dụng vũ khí chiến tranh hiện đại.
 Bên cạnh đó phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh 
hướng phong kiến và tư sản cuốt thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
còn giáng một đòn mạnh mẽ vào thực dân Pháp, kẻ đi xâm 
lược đã làm cho nhân dân ta chịu bao khổ cực, mất tự do, kìm 
hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá. Kết luận
Các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến 
và tư sản đều thất bại song nó có ý nghĩa rất to lớn. Phong trào yêu 
nước đã thể hiện được truyền thống yêu nước, sức mạnh dân tộc của
Việt Nam, một nước nhỏ nhưng lịch sử dựng nước và giữ nước luôn
có những chiến thắng oanh liệt trước những kẻ thù lớn mạnh. Phong
trào đã để lại rất nhiều bài học, kinh nghiệm cho phong trào cách 
mạng Việt Nam sau này; Phong trào cũng là cuộc tập dượt để nhân 
dân làm quen với các hình thức và phương pháp của chiến tranh 
hiện đại. Phong trào yêu nước còn góp phần nối liền với phong trào 
tư sản, phong trào vô sản sau này tạo nên sự phát triển liên tục của 
cách mạng, tạo thành sợi dây cách mạng. Phong trào yêu nước Việt 
Nam còn có ý nghĩa đối với quốc tế nó cổ vũ nhân dân các nước 
thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới đứng lên tự giải phóng mình đặc
biệt là nhân dân các nước thuộc địa của Pháp, để lại những bài học 
kinh nghiệm cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế 
giới, bài học về sự đoàn kết… Tìm hiểu đề tài này làm cho em thêm 
tự hào về dân tộc, một dân tộc luôn anh dũng đấu tranh để bảo vệ 
độc lập tự do cho đất nước. Không chỉ dừng lại ở một thời kỳ, một 
giai đoạn nào mà liên tục trong suốt cả chặng đường dành độc lập 
cho tổ quốc, hạnh phúc cho đồng bào. Tạo nên sợi chỉ cách mạng 
xuyên suốt của dân tộc Việt Nam.
Phân tích sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho việc ra đời Đảng Cộng Sản ở Việt Nam của 
Nguyễn Ái Quốc ? suy nghĩ về lý tưởng cách mạng của thanh niên
Về mặt tư tưởng – chính trị:
 Người đã viết bài đăng các báo: “Người cùng khổ”, báo “Nhân
đạo”, báo “Đời sống công nhân”, báo Sự thật (Liên Xô), Tạp 
chí thư tín Quốc tê quốc tế cộng sản), báo Thanh niên (Việt 
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội)... và các tác phẩm 
“Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” mang tên
Người. Qua nội dung các bài báo và các tác phẩm đó, Người 
tập trung lên án chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân nói 
chung và chủ nghĩa thực dân Pháp. Người vạch trần bản chất 
xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa  thực dân.
 Người đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng thế 
giới và cách mạng giải phóng dân tộc.  Về mặt tổ chức:
 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) để 
xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng Sản.
 2-1925, lập ra nhóm Cộng sản đoàn
 6-1925, thành lập hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại 
Quảng Châu với nòng cốt là Cộng sản đoàn.
 Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo
phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: 
 Đông Dương cộng sản đảng (6-1929), An Nam cộng sản đảng
(7-1929) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).
 Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị thống nhất
Đảng đã họp tại Cửu Long Hương Cảng đã nhất trí hợp nhất
các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và
Điều lệ vắn tắt của các hội quần chúng; thông qua lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thảo.
Các văn kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Suy nghĩ về lý tưởng cách mạng của thanh niên:
Lý tưởng cách mạng là mục tiêu, động lực, kim chỉ nam cho hành
động của thanh niên. Lý tưởng cách mạng của thanh niên ngày nay
cần được thể hiện qua:
 Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
 Ý chí độc lập, tự chủ.
 Chí hướng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
 Trách nhiệm với cộng đồng, xã hội.
 Sự cống hiến cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Thanh niên cần:
 Rèn luyện đạo đức, lối sống.
 Nâng cao trình độ học vấn, kiến thức.
 Rèn luyện kỹ năng, tư duy sáng tạo.
 Tham gia các hoạt động xã hội, tình nguyện.
 Cống hiến sức mình cho cộng đồng, đất nước.
Lý tưởng cách mạng của thanh niên là ngọn đuốc soi sáng con
đường, là động lực thúc đẩy thanh niên Việt Nam cống hiến cho đất nước.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là
cách tốt nhất để thanh niên thể hiện lý tưởng cách mạng của mình.
Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam đã diệt được 
"Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm", thực hiện hiệu 
quả chủ trương kháng chiến kiến quốc thời kì 1945- 1954 1. Diệt "Giặc đói":
Trước Cách mạng tháng Tám: Nạn đói hoành hành, nhất là nạn 
đói năm 1945 khiến hàng triệu người chết.
Sau Cách mạng tháng Tám:
 Tháng 11/1945: Kêu gọi "Tuần lễ vàng", thu được hơn 30 tấn  vàng.
 1946: Phát động phong trào "Tăng gia sản xuất", "Nhường  cơm sẻ áo".
 1953: Cuộc vận động "Phá kho thóc giải quyết nạn đói". Kết quả:
Nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân dần ổn định. 2. Diệt "Giặc dốt":
Trước Cách mạng tháng Tám: Tỷ lệ mù chữ cao, chủ yếu là nông  dân.
Sau Cách mạng tháng Tám:
 1945: Thành lập Nha Bình dân học vụ, phát động phong trào  "Bình dân học vụ".
 1950: Mở rộng hệ thống trường học, tăng cường giáo dục cho  cán bộ, đảng viên. Kết quả:
Tỷ lệ mù chữ giảm mạnh, nâng cao trình độ dân trí.
3. Diệt "Giặc ngoại xâm":
 1945: Pháp quay lại xâm lược Việt Nam.
 1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng  chiến.
 9 năm kháng chiến chống Pháp:
o Quân và dân ta chiến đấu anh dũng, kiên cường.
o 1954: Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu,  chấn động địa cầu". Kết quả:
Pháp buộc phải ký Hiệp định Genève, công nhận độc lập, chủ 
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam.
4. Thực hiện hiệu quả chủ trương kháng chiến kiến quốc:
 Kết hợp chiến tranh với xây dựng đất nước.
 Vừa đánh giặc, vừa phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.
 Mở rộng và củng cố chính quyền các cấp.
 Thực hiện cải cách ruộng đất, giải phóng nông dân.  Kết quả:
 Xây dựng được một nhà nước độc lập, dân chủ, thống nhất.
 Nền kinh tế, văn hóa, giáo dục phát triển.
 Đời sống nhân dân được cải thiện. Kết luận:
Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân 
ta đã thực hiện thành công chủ trương "kháng chiến kiến quốc" 
trong giai đoạn 1945-1954. "Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm" đã 
bị tiêu diệt, đất nước bước sang một trang mới: độc lập, tự do và  phát triển.
Phân tích nội dung cơ bản Chính cương của Đảng Lao
Động Việt Nam (2-1951). Vai trò của chính cương đối 
với những thắng lợi của đất nước 1951-1954
Từ ngày thành lập đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 13 
kỷ đại hội. Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta lại có một sứ mệnh với 
những chiến lược cách mạng khác nhau. Từ năm 1950, phong trào 
cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ 
nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Thắng lợi của 
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, đã đưa nhân dân ta từ
người mất nước lên người làm chủ đất nước. Cuộc kháng chiến dần 
bước sang giai đoạn mới với những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta 
phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa  cách mạng tiến lên. Tình hình thế giới
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, hệ thống các nước 
xã hội chủ nghĩa ra đời, với trụ cột là Liên Xô. Đây là một nhân tố 
mới, làm thay đổi tương quan lực lượng tồn cầu, có lợi cho phong 
trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Năm 
1950, tình hình kinh tế- xã hội của Liên Xơ và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu đã dần đi vào ổn định và phát triển. 10-1949, cách 
mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân 
Trung Hoa ra đời đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa đế quốc, 
đánh đổ một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuộc địa của 
chúng, góp phần cổ vũ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế 
giới và tăng cường sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tình hình trong nước
Sau 5 năm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, 
trường kỳ dựa vào sức mình là chính, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự 
nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Nhân dân Việt Nam đã đạt được 
những thành tựu quan trọng. Trên lĩnh vực quân sự, thắng lợi của 
cuộc phản cơng lớn ở Việt Bắc là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược 
quan trọng. Thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng sang “đánh lâu 
dài” với âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt 
trị người Việt”. Trên mặt trận kinh tế, thực hiện nhiệm vụ xây dựng 
kinh tế kháng chiến và đấu tranh kinh tế với địch, Đảng và Chính 
phủ kháng chiến chủ trương xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân,
vừa tự cấp, tự túc, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc kháng 
chiến, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại những hành động phá 
hoại của địch. Về nông nghiệp, tháng 2 năm 1949, Chính phủ ra sắc 
lệnh tịch thu ruộng đất của thực dân và Việt gian phản động, tạm 
chia cho dân cày. Thực hiện xóa nợ cũ, giảm tô, giảm tức cho nông 
dân. Đẩy mạnh công tác thủy lợi, hướng dẫn nông dân đi vào làm ăn
tập thể với nhiều hình thức thích hợp, khuyến khích nhân dân khai 
hoang, phục hóa. Trên mặt trận văn hóa, giáo dục, y tế nhân dân ta 
đã thu được những thắng lợi quan trọng. Tháng 7 năm 1948, Đại hội
Văn hóa toàn quốc lần thứ hai được triệu tập tại Việt Bắc. Đời sống 
văn hóa kháng chiến được nâng cao, phát triển. Về giáo dục, phong 
trào xóa nạn mù chữ và phát triển các loại trường lớp được đẩy 
mạnh. Trên mặt trận chính trị, cơng tác xây dựng chính quyền cũng 
đã thu được nhiều thắng lợi quan trọng. Uy tín chính trị của Chính 
phủ kháng chiến ngày càng được khẳng định. Về đối ngoại, đầu năm
1950 cùng với việc Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên và các nước 
dân chủ nhân dân Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ ta, nhân dân nhiều nước châu Á, châu Phi đã dành cho 
nhân dân Việt Nam tình cảm đặc biệt và sự ủng hộ tích cực. Phong 
trào phản chiến của nhân dân Pháp phát triển rầm rộ. Đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được triệu tập. Đại hội đã 
nghiên cứu và thơng qua Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do 
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn 
thảo. Qua đó đã hoạch định ra đường hướng phát triển của cách 
mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đại hội quyết định đưa Đảng ra 
hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Nội dung chính của Chính cương được thể hiện trên các phương diện sau:
Tính chất của Cách mạng Việt Nam
Giai đoạn này, Cách mạng Việt Nam có ba tính chất:
Dân chủ, nhân dân và một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính 
chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này 
là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa.
Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của 
dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Gọi là cách
mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành 
lại ruộng đất cho nơng dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do 
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy. Đồng thời, Chính cương 
khẳng định: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất định sẽ tiến 
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua  ba giai đoạn:
•Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hồn thành giải phóng dân tộc.
•Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích 
phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có 
ruộng, phát triển kỹ nghệ, hồn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
•Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ 
nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ 
với nhau. Và đường lối, chính sách của Đảng sẽ được bổ sung, phát 
triển qua các hội nghị trung ương tiếp theo dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng.
Đối tượng của Cách mạng Việt Nam
Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế 
quốc được đánh dấu bằng sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng 
hòa. Trong nước, tàn dư của chế độ cũ vẫn còn, chúng biến tướng 
thành tay sai phản động. Chính vì thế, chúng ta phải sáng suốt nhận 
định kẻ thù của cách mạng để đưa ra được những sách lược phù  hợp.
Nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam
Trên cơ sở nhận định kẻ thù và mục tiêu của cuộc cách mạng, Đảng 
ta xác định rõ ba nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống
nhất cho quốc gia, dân tộc
Thứ hai: Xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng
Thứ ba: Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ  nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước 
mắt là hồn thành giải phóng dân tộc. Vì có giải phịng dân tộc thì 
mới chặt đứt được tay sai phong kiến. Có độc lập dân tộc thì mới có 
thể đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa đẻ đem lại cuộc sống ấm no 
cho nhân dân. Và hơn lúc nào hết, chúng ta phải tập trung lực lượng 
vào cuộc kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Lực lượng của Cách mạng Việt Nam
Đó là tập hợp cách lực lượng bao gồm các giai – tầng yêu nước. Họ 
là những người công nhân bị bóc lột trong xưởng máy, là người 
nơng dày bị cướp mất ruộng, là tiểu tư sản, tư sản dân tộc u nước, 
sẵn sàng vì cuộc chiến tranh chính nghĩa. Ngồi ra cịn phải quy tụ 
những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng 
lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là cơng nơng,
lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Chính sách của Đảng
Để cụ thể hóa Đảng đưa ra 15 chính sách nhằm đẩy phát triển chế 
độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy 
mạnh kháng chiến đến thắng lợi. 15 chính sách là sự tổng hợp các 
lĩnh vực khác nhau. Cụ thể bao gồm: 1. Kháng chiến 2. Chính quyền nhân dân
3. Mặt trận dân tộc thống nhất 4. Quân đội 5. Kinh tế tài chính 6. Cải cách ruộng đất 7. Vǎn hố giáo dục 8. Đối với tơn giáo 9. Chính sách dân tộc
10. Đối với vùng tạm bị chiếm 11. Ngoại giao 12. Đối với Miên, Lào
13. Đối với ngoại kiều
14. Đấu tranh cho hồ bình và dân chủ thế giới 15. Thi đua ái quốc KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược 
trong suốt thế kỷ XX ở Việt Nam là một điển hình về một dân tộc 
nhỏ bé có thể thắng một dân tộc lớn, một quân đội trang bị vũ khí 
kém có thể thắng một đội qn xâm lược đơng có trang bị tốt hơn. 
Đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của 
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã dẫn dắt 
nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang “lừng lẫy năm châu, 
chấn động địa cầu”.
Phân tích đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở 
miền Nam của Đảng giai đoạn 1954-1976:
Đường lối trong giai đoạn 1954-1964 Bối cảnh lịch sử:
Sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi
mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp. Thuận lợi: 
 Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, 
quân sự, khoa học - kỳ thuật
 phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, 
châu Phi vả khu vực Mỹ latinh
 phong trảo hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản chủ  nghĩa
 miền Bắc được hoàn toán giải phóng, làm căn cứ địa vững  chắc cho cả nước
 thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến
 có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí  Nam. Khó khăn: 
 Đế quốc Mỹ âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược 
toàn cầu phản cách mạng
 thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh
 xuâl hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
 đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn,  lạc hậu
 Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Quá trình hình thành và nội dung đường lối:
 Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải 
đề ra được đường lối đúng dắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi 
miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của  thời đại.
 Tháng 7-1954, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng đã 
phân tích tình hình cách mạng nước ta, xác định đê quốc Mỹ là
kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.
 Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghi quyết về tình hình mới 
nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ 
ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng 
Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh 
chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ 
nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập  trung.
 Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 
8-1955), Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc 
Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn 
thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố 
miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của  nhân dân miền Nam.
 Tháng 8-1956, tại Nam Bộ đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo 
Đường lối cách mạng miền Nam, xác định con đường phát 
triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng
 Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, dường lối 
tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định: 
"Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta 
hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ 
nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước  
