Lập dàn ý 4 bài thơ chiều tối - Văn học

Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm  Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
8 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lập dàn ý 4 bài thơ chiều tối - Văn học

Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm  Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Chiều tối
Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục
trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian
bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu
năm 1942 đến mùa thu 1943.
Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là
bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng
xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca
về cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao
của Hồ Chí Minh.
II. Thân bài:
* Hai câu đầu:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
- Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống, chim bay về rừng tìm chốn
trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, những bức họa (trong bài
thơ có họa) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do gần gũi về bút pháp. Còn thực ra, đây vẫn là
buổi chiều nay, với cảnh thật và người thật (người tù - nhà thơ) đang tận mắt nhìn ngắm.
Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn. Quyện nghĩa là mỏi, chán,
mỏi mệt. Tầm là tìm kiếm. Cánh chim sau ngày rong ruổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi
mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú. Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng,
không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông. Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua,
nhưng đám mây đơn lẻ kia đã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn. Hai câu thơ, theo đúng
nghĩa đen cũng chỉ ra một cảnh buồn. Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy,
lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến người ta liên
tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Cảnh chiều hôm - Bà Huyện Thanh Quan)
Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn. Còn cảnh ở đây, vốn là
đơn chiếc. Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi
chiều tắt đã vội trở về. Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang lê
bước trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi
đau rất thật từ cảnh tình ấy?
* Hai câu cuối
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
- Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng
lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả
nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối len dày muôn nơi. Vậy, điều gì khiến người ta
cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối? Đó là
cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi. Đây
cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.
- Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy. Nếu cảnh ở trên mang
nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống.
Đôi mắt của người nghệ sĩ ở cảnh trước khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút
và trống trải. Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp hình ảnh không ngờ:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
- Vóc dáng người thôn nữ cùng với công việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua đi
sự cô quạnh giữa miền sơn cước. Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập.
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan tỏa. Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại
cùng với ánh lửa kia. Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ được trọn vẹn.
Đánh giá, mở rộng:
– Hai câu thơ vừa mang nét cổ điển, hiện đại với những hình ảnh thơ quen thuộc, bút pháp ước lệ
tượng trưng, chấm phá điểm xuyết, không nói về cảnh trời chiều nhưng người đọc vẫn có thể
cảm và hình dung ra không gian và nỗi lòng mà câu thơ muốn gửi gắm
– Cánh chim không còn là đề tài xa lạ trong thơ cổ thế nhưng cánh chim của Bác lại thật đặc biệt.
Nếu như cánh chim của Lý Bạch là cánh chim “điểu cao phi tận” bay vút vào không gian ngút
ngàn thì cánh chim của Hồ chủ tịch lại mang hồn sống, là cánh chim chao liệng không gian, làm
chủ không gian, vạn vật.
Từ ấy
I. Mở bài
- Tác giả Tố Hữu (1906 - 2002)
Tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ra trong một gia đình có truyền
thống yêu nước tại Thừa Thiên - Huế, mảnh đất thơ mộng trữ tình, gắn bó
với nhiều nét văn hóa dân gian của đất nước.
Từ thời thanh niên thì ông đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng,
luôn hoạt động hăng say, luôn kiên quyết đấu tranh dù đang ở trong nhà tù
thực dân.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ông được giữ nhiều chức vụ trong bộ
máy lãnh đạo của Đảng, về mặt trận văn hóa nghệ thuật.
Năm 1996 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Từ ấy: Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con
đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937)
và được kết nạp Đảng năm 1938 - Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng
sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu.
- Nội dung chính mà Từ ấy muốn truyền đạt: Tâm nguyện cao đẹp của người thanh
niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng. Đó là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề
cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ
và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
II. Thân bài
Phân tích tác phẩm Từ ấy theo kết cấu 3 khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ đều mang một ý
nghĩa diễn tả nhất định, các em cần xác định từ ngữ quan trọng, biện pháp nghệ thuật
sử dụng... để lột tả rõ từng vấn đề tác giả mong muốn.
1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Hai câu thơ đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi..." Từ ấy, là lúc nhà thơ mới
vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời. Hình
ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà
thơ, "mặt trời chân lí" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ
ca ngợi ánh sáng diệu kỳ của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản -
ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
- Hai câu thơ sau là một bức tranh vô cùng sinh động: chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào
cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so
sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm
hương" "rộn tiếng chim".
- Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang
tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một
hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống
- Hai dòng thơ đầu: nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài
hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.
- Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt
đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi buộc
lòng tôi với mọi người".
- Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" (hoán dụ) và "trang trải" sẻ chia bằng
những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.
- Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng.
Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ
đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau thêm
mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm — nhà thơ trưởng
thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước vẹn
tròn, to lớn".
Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ
yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách
mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường
ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to lớn".
- Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là
em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ,
bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù
bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với
những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng
những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.
III. Kết bài
Thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách
mạng, hướng gười đọc đến chân trời tươi sáng.
Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính, là
người thanh niên trẻ trung hướng theo lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
Giọng thơ chân thành và hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân
tộc.
Liên hệ:
Ví như Xuân Diệu trước cách mạng từng quan niệm rằng:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
Nhưng sau cách mạng thì Xuân Diệu đã viết:
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu”.
Tràng giang
II. Thân bài:
* Nhan đề và câu thơ đề từ
- Nhan đề:
Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.
Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên
hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng.
- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ
Lê Duy từng nhận xét:
“Là tràng giang- khổ nào cũng dập dềnh sóng nước
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”
“Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước
muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang
sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang”
mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình
không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những
phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.
2. Phân tích
a) Khổ 1: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang
Câu 1: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Hai từ “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác
như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh
mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.
Câu 2: “Con thuyền xuôi mái nước song song”:
Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho
thân phận nổi trôi vô định.
Câu 3: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước
thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.
Câu 4: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả “ứng hiện” trong một “Tràng giang” đậm chất
Đường thi. “Củi” chứ không phải hoa, bèo, gỗ, … “Củi” đi với “một” mà thêm lẻ bóng, cô đơn.
“Củi” đi với “cành khô” mà càng khô khốc, tang thương. “Củi” trong “lạc mấy dòng” mà thêm
bơ vơ vô định. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thực sự là một cơn sóng cô đơn, hiu quạnh, vô
định trào trực xô lên trong lòng người. Từ cây cối xanh tươi trên ngàn đến cành củi khô gầy guộc
là mấy lần thân phận cỏ cây khô héo, vùi dập, đổi thay để có những câu thơ “kêu giòn và lay
động” như thế.
Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu
đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cđ- đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức
bấy giờ.
b) Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông
dài.
2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”
Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ
nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp
vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống
nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn
càng thêm man mác...
2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”
Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt
bút. Từng vạt nắng từ trời cao rọi xuống làm nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tác
giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn
gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.
c) Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người
Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”
Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất
hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên
là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt
về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi
nổi.
d) Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp
2 câu đầu: không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn
Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như
những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên
chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một
vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế
lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có
nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông
nhói lên ở những cảnh đời hiện tại
2 câu kết:
Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường
giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang
thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận
không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội
tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê
hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng
quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.
Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”,
với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện
và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho
lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)
3. Đánh giá
Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi
lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất
nước.
Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ
không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của
Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay
rồi.
| 1/8

Preview text:

Chiều tối
Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm 
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục
trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian
bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu
năm 1942 đến mùa thu 1943. 
Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là
bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng
xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca
về cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao của Hồ Chí Minh. II. Thân bài: * Hai câu đầu:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
- Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống, chim bay về rừng tìm chốn
trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, những bức họa (trong bài
thơ có họa) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do gần gũi về bút pháp. Còn thực ra, đây vẫn là
buổi chiều nay, với cảnh thật và người thật (người tù - nhà thơ) đang tận mắt nhìn ngắm.
Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn. Quyện nghĩa là mỏi, chán,
mỏi mệt. Tầm là tìm kiếm. Cánh chim sau ngày rong ruổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi
mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú. Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng,
không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông. Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua,
nhưng đám mây đơn lẻ kia đã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn. Hai câu thơ, theo đúng
nghĩa đen cũng chỉ ra một cảnh buồn. Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy,
lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến người ta liên
tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Cảnh chiều hôm - Bà Huyện Thanh Quan)
Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn. Còn cảnh ở đây, vốn là
đơn chiếc. Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi
chiều tắt đã vội trở về. Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang lê
bước trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi
đau rất thật từ cảnh tình ấy? * Hai câu cuối
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
- Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng
lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả
nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối len dày muôn nơi. Vậy, điều gì khiến người ta
cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối? Đó là
cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi. Đây
cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.
- Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy. Nếu cảnh ở trên mang
nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống.
Đôi mắt của người nghệ sĩ ở cảnh trước khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút
và trống trải. Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp hình ảnh không ngờ:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
- Vóc dáng người thôn nữ cùng với công việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua đi
sự cô quạnh giữa miền sơn cước. Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập.
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan tỏa. Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại
cùng với ánh lửa kia. Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ được trọn vẹn.
Đánh giá, mở rộng:
– Hai câu thơ vừa mang nét cổ điển, hiện đại với những hình ảnh thơ quen thuộc, bút pháp ước lệ
tượng trưng, chấm phá điểm xuyết, không nói về cảnh trời chiều nhưng người đọc vẫn có thể
cảm và hình dung ra không gian và nỗi lòng mà câu thơ muốn gửi gắm
– Cánh chim không còn là đề tài xa lạ trong thơ cổ thế nhưng cánh chim của Bác lại thật đặc biệt.
Nếu như cánh chim của Lý Bạch là cánh chim “điểu cao phi tận” bay vút vào không gian ngút
ngàn thì cánh chim của Hồ chủ tịch lại mang hồn sống, là cánh chim chao liệng không gian, làm
chủ không gian, vạn vật. Từ ấy I. Mở bài
- Tác giả Tố Hữu (1906 - 2002) 
Tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ra trong một gia đình có truyền
thống yêu nước tại Thừa Thiên - Huế, mảnh đất thơ mộng trữ tình, gắn bó
với nhiều nét văn hóa dân gian của đất nước. 
Từ thời thanh niên thì ông đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng,
luôn hoạt động hăng say, luôn kiên quyết đấu tranh dù đang ở trong nhà tù thực dân. 
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ông được giữ nhiều chức vụ trong bộ
máy lãnh đạo của Đảng, về mặt trận văn hóa nghệ thuật. 
Năm 1996 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Từ ấy: Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con
đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937)
và được kết nạp Đảng năm 1938 - Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng
sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu.
- Nội dung chính mà Từ ấy muốn truyền đạt: Tâm nguyện cao đẹp của người thanh
niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng. Đó là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề
cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ
và được giác ngộ lí tưởng cộng sản. II. Thân bài
Phân tích tác phẩm Từ ấy theo kết cấu 3 khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ đều mang một ý
nghĩa diễn tả nhất định, các em cần xác định từ ngữ quan trọng, biện pháp nghệ thuật
sử dụng... để lột tả rõ từng vấn đề tác giả mong muốn.
1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Hai câu thơ đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi..." Từ ấy, là lúc nhà thơ mới
vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời. Hình
ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà
thơ, "mặt trời chân lí" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ
ca ngợi ánh sáng diệu kỳ của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản -
ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
- Hai câu thơ sau là một bức tranh vô cùng sinh động: chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào
cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so
sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm hương" "rộn tiếng chim".
- Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang
tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một
hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống
- Hai dòng thơ đầu: nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài
hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.
- Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt
đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi buộc
lòng tôi với mọi người".
- Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" (hoán dụ) và "trang trải" sẻ chia bằng
những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.
- Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng.
Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ
đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau thêm
mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm — nhà thơ trưởng
thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước vẹn tròn, to lớn".
Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ
yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách
mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường
ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to lớn".
- Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là
em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ,
bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù
bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với
những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng
những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược. III. Kết bài
Thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách
mạng, hướng gười đọc đến chân trời tươi sáng. 
Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính, là
người thanh niên trẻ trung hướng theo lý tưởng của Đảng, của cách mạng. 
Giọng thơ chân thành và hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.  Liên hệ: 
Ví như Xuân Diệu trước cách mạng từng quan niệm rằng: 
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
Nhưng sau cách mạng thì Xuân Diệu đã viết: 
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu”. Tràng giang II. Thân bài:
* Nhan đề và câu thơ đề từ
- Nhan đề: 
Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài. 
Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên
hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng.
- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ Lê Duy từng nhận xét: 
“Là tràng giang- khổ nào cũng dập dềnh sóng nước 
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”
“Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước
muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang
sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang”
mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình
không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những
phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ. 2. Phân tích
a) Khổ 1:
Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang 
Câu 1: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Hai từ “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác
như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh
mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời. 
Câu 2: “Con thuyền xuôi mái nước song song”:
Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho
thân phận nổi trôi vô định. 
Câu 3: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước
thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang. 
Câu 4: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả “ứng hiện” trong một “Tràng giang” đậm chất
Đường thi. “Củi” chứ không phải hoa, bèo, gỗ, … “Củi” đi với “một” mà thêm lẻ bóng, cô đơn.
“Củi” đi với “cành khô” mà càng khô khốc, tang thương. “Củi” trong “lạc mấy dòng” mà thêm
bơ vơ vô định. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thực sự là một cơn sóng cô đơn, hiu quạnh, vô
định trào trực xô lên trong lòng người. Từ cây cối xanh tươi trên ngàn đến cành củi khô gầy guộc
là mấy lần thân phận cỏ cây khô héo, vùi dập, đổi thay để có những câu thơ “kêu giòn và lay động” như thế.
Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu
đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cđ- đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.
b) Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài. 
2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”
Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ
nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp
vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống
nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác... 
2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”
Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt
bút. Từng vạt nắng từ trời cao rọi xuống làm nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tác
giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn
gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.
c) Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người 
Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”
Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất
hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên
là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt
về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.
d) Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp 
2 câu đầu: không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn
Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như
những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên
chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một
vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế
lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có
nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông
nhói lên ở những cảnh đời hiện tại  2 câu kết:
Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường
giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang
thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận
không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội
tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê
hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng
quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.
Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”,
với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện
và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho
lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu) 3. Đánh giá
Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi
lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước. 
Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ
không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của
Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.