Lí luận nhà nước và pháp luật - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Đối tượng nghiên cứu của lí luận chung về nhà nước và pháp luật là nhà nước và pháp luật - hai hiện tượng quan trọng và phức tạp nhất trong thượng tầng chính trị- pháp lí của xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1. Trình bày đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của Lý
luận nhà nước và pháp luật với tư cách là một ngành khoa học.
Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật bao
gồm:
Phương pháp nghiên cứu cụ thể của Lý luận chung là những cách thức mà khoa
học này sử dụng để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc đối tượng của mình. Phương pháp
phân tích là phương pháp chia các vấn đề phức tạp thành những bộ phận, những yếu tố
đơn giản đế nghiên cứu và làm sáng tỏ vấn đề. Ví dụ: làm sáng tỏ các khái niệm về nhà
nước và pháp luật bằng việc phân tích các đặc điểm của chúng. Phương pháp tổng hợp
thường sử dụng khi liên kết các yếu tố đã phân tích, khái quát hoá để nêu lên kết luận.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học là dùng các thao tác tư duy để tách cái chung ra
khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung nhằm xây dựng nên những
khái niệm chung, ví dụ, đề cập bản chất, kiếu nhà nước… Phương pháp xã hội học là
thông qua phỏng vấn, đàm thoại, đối thoại, điều tra xã hội học… để tìm hiểu dư luận xã
hội về một vấn đề nào đó, ví dụ, tìm hiểu về ý thức pháp luật…Phương pháp so sánh là
tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa nhà nước và pháp luật với các hiện
tượng xã hội khác để hiểu sâu về bản chất và đặc điểm của chúng.
-Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của lí luận chung về nhà nước và pháp luật là nhà nước và
pháp luật - hai hiện tượng quan trọng và phức tạp nhất trong thượng tầng chính trị- pháp
lí của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật còn là đối tượng nghiên cứu của một số
ngành khoa học xã hội như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
chính trị học và các khoa học pháp lí khác. Vì vậy, cần xác định rõ phạm vi nghiên cứu
nhà nước và pháp luật của các ngành khoa học xã hội nói trên.
- Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung
nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới.1 Kế thừa và phát triển những tinh hoa
trí tuệ của loài người, triết học Mác - Lênin có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật
chung nhất của quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy
theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu
nhà nước và pháp luật cùng với những hiện tượng xã hội khác của thượng tầng chính trị -
pháp lí và hạ tầng cơ sở để tìm ra quy luật phát triển của xã hội loài người nói chung,
ttong đó có nhà nước và pháp luật. Như vậy, triết học Mác - Lênin nghiên cứu nhà nước
và pháp luật cùng với các hiện tượng xã hội khác một cách chung nhất, khái quát nhất
chứ không đi sâu nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật.
- Kinh tế chính trị học là khoa học nghiên cứu về quan
hệ sản xuất, các quy luật chi phối quá trình sản xuất, phân phối và trao đối của cải
vật chất trong xã hội con người ở các giai đoạn phát triển lịch sử khác nhau của nó. Nhà
nước và pháp luật cũng là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học Mác - Lênin,
nhưng kinh tế chính trị học Mác - Lênin chỉ nghiên cứu vai trò cùa nhà nước và pháp luật
trong việc điều hành nền kinh tế và phân phối sản phẩm lao động xã hội chứ không đi sâu
nghiên cứu các vai trò khác của nhà nước và pháp luật.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học nghiên cứu quy
luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện
thực của các dân tộc trên thế giới. Việc nghiên cứu nhà nước và pháp luật của chủ nghĩa
xã hội khoa học chỉ diễn ra trong phạm vi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những vấn đề cụ thể như: sự ra đời của nhà nước
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai trò của nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các chức năng cơ
bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa...
- Chính trị học là khoa học nghiên cứu quy luật hình thành và vận động của chính
trị, quyền lực chính trị, cơ chế và phương thức thực hiện quyền lực chính trị, đảng chính
trị và vai trò của các đảng chính trị trong cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, hệ thống
chính trị, quan hệ chính trị, lợi ích chính trị, hệ tư tưởng chính trị, ý thức chính trị...
Chính trị học Mác – Lênin cũng nghiên cứu nhà nước và pháp luật trên cơ sở gắn nhà
nước, pháp luật với việc thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Một số vấn đề quan
trọng của nhà nước và pháp luật được chính trị học Mác – Lênin đề cập như quyền lực
nhà nước (một dạng của quyền lực chính trị); mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với
các dạng quyền lực chính trị khác; vai trò của nhà nước, pháp luật trong việc thực hiện
quyền lực chính trị; quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị và các tổ chức xã hội
khác trong việc thực hiện quyền lực chính trị; vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ chính trị, các nhu cầu và lợi ích chính trị... Như vậy, việc nghiên cứu nhà
nước và pháp luật của chính trị học Mác - Lênin cũng trong phạm vi, giới hạn nhất định.
Câu 2. Trình bày nội dung cơ bản của một số học thuyết phi Mác xít về nguồn
gốc nhà nước.
Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước:
Thuyết thần quyền
Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra
nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế.
Thuyết gia trưởng
Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền
gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực
nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên
của xã hội loài người.
Thuyết bạo lực
Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất,
là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng
đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước
– để nô dịch kẻ chiến bại.
Thuyết tâm lý
Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy
luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…
Thuyết “khế ước xã hội”
Cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết
trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.
Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ
được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.
Câu 3. Trình bày nội dung cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc
nhà nước
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước mang bảnchất giai cấp.
Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp.Giai cấp nào thì nhà nước đó. Do
trong xã hội nguyên thủy khôngcó phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên thủy
không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhànước chủ
nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ
nghĩa). Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp
mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.Bản chất
nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống
nhất không thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ
bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục vụ lợi ích của giai
cấp thống trị; tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗnhà nước là đại diện chính thức của
toàn xã hội, và ở mức độ nàyhay mức độ khác nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản,
lâu dàicủa quốc gia dân tộc và công dân mình.
Câu 4. Trình bày khái niệm, bản chất và đặc điểm của nhà nước.
Khái niệm
-Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
Bản chất
-Bản chất là khái niệm diễn đạt những đặc tính bên trong của sự vật, cái cốt lõi của
sự vật gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật đó. Theo quan điểm của
CN Mac-Lênin, thì bản chất nhà nước có 02 thuộc tính:
a) Bản chất giai cấp của nhà nước:
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp, và bao giờ cũng thể hiện
bản chất giai cấp sâu sắc, thể hiện ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là
công cụ sắc bén nhất để thực hịên sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
b) Bản chất xã hội của nhà nước:
Thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, Nhà nước phải giải quyết tất cả
các vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ những
nhu cầu mang tính chất công cho xã hội như: xây dựng trường học, bệnh viện, đường xá,
giải quyết các tệ nạn xã hội…..
=> Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa
mang bản chất giai cấp, vừa mang bản chất xã hội
Đặc điểm:
• Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng chế, quản
lý những công việc chung của xã hội.
• Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành
chính.
• Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
• Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các
quan hệ xã hội bằng pháp luật.
• Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế
Câu 5. Trình bày khái niệm chức năng nhà nước và phân loại các chức năng
của nhà nước.
Khái niệm: Chức năng của nhà nước là các phương diện hoạt động chủ yếu của
Nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Chức năng của Nhà nước
xuất phát từ bản chất của Nhà nước do cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội quy
định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nước, chức năng của Nhà nước bao gồm
02 chứng năng chính sau đây:
a) Chức năng đối nội của nhà nước:
Chức năng đối nội của nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước
trong nội bộ đất nước.
Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế
độ kinh tế … là những chức năng đối nội của các nhà nước.
– Chức năng bảo vệ chế độ, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
– Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
– Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế
– Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
– Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
b) Chức năng đối ngoại của nhà nước:
Chức năng đối ngoại của nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nướctrong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác. Để thực hiện 02 chức năng trên, Nhà nước sử dụng nhiều
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có 03 hình thức chính là: Xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, và bảo vệ pháp luật và 02 phương pháp
chính là thuyết phục và cưỡng chế. (cần phân biệt giữ chức năng của Nhà nước và chức
năng của cơ quan Nhà nước cụ thể: mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ riêng,
tham gia thực hiện chức năng chung của Nhà nước ở những mức độ khác nhau)
=> Nhà nước là một tổ chức đặt biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
Câu 6. Phân tích các bộ phận cấu thành của hình thức nhà nước.
Các cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.
Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước xã hội chủ nghĩa, là người thay mặt
nhà nước trong các quan hệ đối ngoại, đối nội.
Các cơ quan hành chính nhà nước là những cơ quan có thẩm quyền quản lý mọi mặt
hoạt động của quốc gia. Các cơ quan này vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền
lực cùng cấp, vừa là cơ quan quản lý nhà nước.
Toà án là cơ quan xét xử của nhà nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống toà án xã hội chủ
nghĩa hoạt động trên các nguyên tắc:
– Xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật;
– Xét xử có sự tham gia của hội thẩm nhân dân;
– Xét xử theo 2 cấp.
Viện kiểm sát là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuỳ theo
từng giai đoạn cụ thể mà thẩm quyền của Viện kiểm sát có sự quy định khác nhau.
Giai đoạn trước đây, ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa cơ quan kiểm sát là cơ quan
kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội, cán bộ, viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân
trong việc thực hiện pháp luật. Viện kiểm sát đồng thời cũng là cơ quan giữ thẩm
quyền công tố.
Câu 7. So sánh chính thể quân chủ với chính thể cộng hòa.
Chính thể quân chủ Chính thể cộng hòa
- Là chính thể mà toàn bộ hoặc một phàn quyền lực tối cao của
nhà nước được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương...) theo
phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập).
- Là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao
cho một hoặc một số cơ quan theo phương thức chủ yếu là
bầu cử.
- Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cá
nhân (vua, hoàng đế, quốc vương...).
- Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cơ
quan (ví dụ: Quốc hội của Việt Nam) hoặc một số cơ quan
(ví dụ: Nghị viện, Tổng thống và Tòa án tối cao ở Mỹ).
- Phương thức trao quyền lực tối cao cho nhà vua chủ yếu là
cha truyền con nối, ngoài ra, có thể bằng chỉ định, suy tôn, tự
xưng, được phong vương, bầu cử hoặc tiếm quyền...
- Phương thức trao quyền lực cho cơ quan quyền lực tối cao
là bằng bầu cử (ví dụ ở Việt Nam) hoặc chủ yếu bằng bầu cử
(ví dụ ở Mỹ).
- Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là suốt đời và có thể
truyền ngôi cho đời sau.
- Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là chỉ trong một thời
gian nhất định (theo nhiệm kỳ) và không thể truyền lại chức
vụ cho đời sau.
- Nhân dân không được tham gia vào việc lựa chọn nhà vua
cũng như giám sát hoạt động của nhà vua.
- Nhân dân được tham gia bầu cử và ứng cử vào cơ quan
quyền lực tối cao của nhà nước cũng như giám sát hoạt
động của cơ quan này.
Chính thể quân chủ Chính thể cộng hòa
- Chính thể quân chủ gồm các dạng: quân chủ chuyên chế (tuyệt
đối) và quân chủ hạn chế (tương đối). Riêng chính thể quân chủ
hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân
chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện).
- Chính thể cộng hòa gồm hai dạng: cộng hòa quý tộc và
cộng hòa dân chủ. Riêng chính thể cộng hòa dân chủ lại có
các dạng tương ứng với các kiểu nhà nước là cộng hòa chủ
nô, cộng hòa phong kiến, cộng hòa tư sản và cộng hòa xã
hội chủ nghĩa.
Câu 8. So sánh hình thức nhà nước đơn nhất với hình thức nhà nước liên
bang
Nhà nước đơn nhất là nhà nước, trong đó lãnh thổ quốc gia được phân bố thành
các đơn vị hành chính – lãnh thổ; có một Chính phủ; một Hiến pháp; một hệ thống pháp
luật; một quốc tịch; một quy chế công dân; có hệ thống các cơ quan chính quyền thống
nhất từ trung ương đến địa phương.
Nhà nước liên bang là nhà nước được thành lập bởi sự liên kết, hợp nhất hai hay
nhiều nhà nước thành viên. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung nhưng mỗi nhà nước
thành viên có chủ quyền riêng. Tuy vậy, các thành viên liên bang bị hạn chế một số chủ
quyền nhất định.
So sánh nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Điểm giống nhau giữa nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang đều xác lập ở nhà nước có chủ quyền quốc
gia, tức quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của
quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Cả hai đều có một hệ thống cơ quan nhà nước và một hệ thống pháp luật áp dụng
chung trên toàn bộ lãnh thổ.
Công dân ở mỗi cấu trúc nhà nước đều có quốc tịch chung của nhà nước đó
Phân biệt nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Thứ nhất, nhà nước đơn nhất chỉ gồm một nước duy nhất so với nhà nước liên
bang là sự liên hợp của hai hay nhiều nhà nước thành viên lại với nhau. Do đó ngoài hệ
thống cơ quan nhà nước và hệ thống pháp luật chung, thống nhất như ở nhà nước đơn
nhất, nhà nước liên bang còn có một hệ thống riêng cho từng nhà nước (hay còn gọi là
bang) thành viên.
Thứ hai, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ về mặt chủ quyền của nhà nước đơn
nhất không bị chia cắt bởi các đơn vị hành chính để quản lý trong khi sự thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ về mặt chủ quyền của nhà nước liên bang không bị chia cắt bởi các
nước hay các bang thành viên.
Thứ ba, công dân của nhà nước đơn nhất có quốc tịch chung thống nhất còn công
dân của nhà nước liên bang ngoài quốc tịch chung của nhà nước liên bang còn có thêm
quốc tịch riêng của từng nhà nước thành viên hoặc từng bang.
Ngoài ra, cấu trúc liên bang thường được thiết lập tại một quốc gia đa sắc tộc (Mỹ,
Úc, Malaysia,…) hoặc có lãnh thổ rộng lớn (tám trong số mười nước diện tích lớn nhất
thế giới được tổ chức thành các liên bang) hoặc trong trường hợp cần thiết (giải quyết các
vấn đề chung hoặc để có năng lực phòng thủ chung như Mỹ, Thụy Sĩ hoặc tạo ra một nhà
nước dân tộc cho các nhóm rải rác ở các quốc gia khác nhau như Đức), các liên bang
thường được thành lập trên cơ sở một một hiệp ước giữa các thành viên có chủ quyền.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang không phải
lúc nào cũng rõ ràng, một nhà nước đơn nhất có thể rất giống nhà nước liên bang về cấu
trúc. Từ đó nảy sinh cấu trúc mới – sự kết hợp giữa cấu trúc đơn nhất hoặc liên bang với
chế độ ủy trị có điều kiện, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là ví dụ tiêu biểu cho mô hình
này. Theo hiến pháp, quyền lực của các đặc khu hành chính của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa được trao bởi Chính phủ nhân dân Trung ương thông qua nghị quyết của Toàn
quốc Nhân dân Đại biểu Đại hội. Vậy nhưng, việc hủy bỏ quyền tự trị của các đặc khu
hành chính Hong Kong và Macau là một thách thức lớn nếu muốn nói là không thể.
Câu 9. Trình bày nội dung cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc
pháp luật.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà
nước. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những nguyên
nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp luật. Để
hướng dẫn cách xử sự cho con người, xã hội nguyên thủy sử dụng phong tục tập quán,
đạo đức, tín điều tôn giáo... Các quy tắc ứng xử này hình thành một cách tự phát trong
cộng đồng trên cơ sở điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể lúc bấy giờ.
Khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi, trong xã hội xuất hiện các quan hệ xã hội mới,
tương đối đa dạng, phức tạp mà các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán... không điều
chỉnh hết hoặc điều chỉnh không có hiệu quả hoặc không thể điều chỉnh được. Trong điều
kiện đó, nhà nước xuất hiện, để tổ chức, quản lí đời sống xã hội phức tạp đó, nhà nước
từng bước làm xuất hiện một loại quy tắc ứng xử mới, đó chính là pháp luật. Thông qua
nhà nước, pháp luật hình thành bằng các con đường, một là, nhà nước thừa nhận các quy
tắc xử sự có sẵn trong xã hội nhưng phù họp với ý chí của nhà nước, nâng chúng lên
thành pháp luật; hai là, nhà nước thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực
tế, sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác có tính tương tự; ba là, nhà
nước đặt ra các quy tắc xử sự mới.
Pháp luật xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của đời
sống xã hội. Nhà nước không sinh ra pháp luật, trong sự hình thành pháp luật, nhà nước
chỉ có vai trò như người “bà đỡ”, nhà nước chỉ làm cho pháp luật “hiện diện” trong đời
sống với những hình thức xác định.
Câu 10. Trình bày các chức năng cơ bản của pháp luật
Một là, chức năng điều chỉnh
Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp
luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh của
pháp luật lên các quan hệ xã hội được thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp luật ghi
nhận các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát
triển của các quan hệ xã hội. Như vậy pháp luật đã thiết lập “trật tự” đối với các quan hệ
xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng nhất định phù
hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan của các
quan hệ xã hội.
Hai là, chức năng bảo vệ
Chức năng bảo vệ là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều
chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được
quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi
vi phạm pháp luật. Chẳng hạn hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý
theo Luật hình sự, hnàh vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự.
Ba là, chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật
vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy
định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá
nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người
phạm tội hình sự,…).
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa pháp luật như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được
nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật
công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà
nước.
Bốn là, chức năng giao tiếp
Một trong những khái niệm cơ bản của khoa học xã hội trong giai đoạn hiện nay là khái
niệm và mối liên hệ nhân quả – thông tin. Khái niệm đó có ý nghĩa rất lớn ở khía cạnh
quản lý sự phát triển xã hội. Hoạt động sống về mặt xã hội của các cá nhân liên quan chặt
chẽ hữu cơ với việc thu nhận, tiếp nhận, chiếm lĩnh, lưu giữ và sử dụng thông tin xã hội.
Thông tin pháp luật là một trong những dạng của thông tin xã hội mang tính chất mệnh
lệnh, quy định. Với sự hỗ trợ của quy phạm pháp luật quan điểm của Nhà nước về hành
vi đòi hỏi phải có hành vi cho phép hoặc cấm đoán được thông báo cho những người
tham gia các quan hệ xã hội. Như vậy, trong hoạt động của mình – hoạt động cá nhân
hoặc tập thể, các công dân được thông tin về các phương pháp và các biện pháp của việc
đạt được các kết quả cần thiết, về các hậu quả của việc vi phạm các quy định của pháp
luật.
Câu 11. So sánh các hình thức bên ngoài của pháp luật.
1.Về khái niệm
Tuân thủ pháp luật: Chủ thể pháp luật kiềm chế mình để không thực hiện điều
pháp luật cấm.
Thi hành pháp luật: Chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều pháp luật yêu cầu.
Sử dụng pháp luật: Chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
Áp dụng pháp luật: Cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ
thể khác thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định.
3.2. Về bản chất
Tuân thủ pháp luật: Thực hiện pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới
dạng “hành vi không hành động”.
Thi hành pháp luật: Chủ động, tích cực thực hiện pháp luật dưới hình thức “hành
vi hành động”.
Sử dụng pháp luật: Các chủ thể lựa chọn xử sự những điều pháp luật cho phép. Đó
có thể là “hành vi hành động” hoặc “hành vi không hành động” tùy quy định pháp luật
cho phép.
Áp dụng pháp luật: Vừa là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
nước, nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các
quy định pháp luật -> Mang tính quyền lực nhà nước. Được thể hiện dưới hình thức
“hành vi hành động” và “hành vi không hành động”.
2.Về chủ thể thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Mọi chủ thể.
Thi hành pháp luật: Mọi chủ thể.
Sử dụng pháp luật: Mọi chủ thể.
Áp dụng pháp luật: Chỉ cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.Về hình thức thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Thường được thể hiện dưới dạng những quy phạm cấm đoán.
Tức là quy phạm buộc chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất định
Thi hành pháp luật: Thường được thể hiện dưới dạng những quy phạm bắt buộc.
Theo đó, chủ thể buộc phải thực hiện hành vi hành động, hợp pháp.
Sử dụng pháp luật: Thường được thể hiện dưới những quy phạm trao quyền. Tức
pháp luật quy định về quyền hạn cho các chủ thể.
Áp dụng pháp luật: Tất cả các loại quy phạm vì nhà nước có nghĩa vụ cũng như
quyền hạn tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật.
4.Về tính bắt buộc thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật là không có sự lựa chọn.
Thi hành pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật mà không có sự lựa chọn.
Sử dụng pháp luật: Các chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được
pháp luật cho phép tùy theo ý chí của mình, phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng chủ thể
chứ không bị ép buộc phải thực hiện.
Áp dụng pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật mà không có sự lựa chọn.
5.Ví dụ
Tuân thủ pháp luật: Pháp luật cấm hành vi mua, bán dâm. Do đó, “không thực hiện
hành vi mua, bán dâm” được xem là tuân thủ pháp luật.
Thi hành pháp luật: Pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân/
thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, nếu không thuộc trường hợp miễn thuế/đối tượng
không chịu thuế thì chủ thể đóng thuế được xem là “thi hành pháp luật”.
Sử dụng pháp luật: Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị B xâm
phạm, A có quyền khởi kiện B ra tòa án vì pháp luật trao cho A quyền được khởi kiện B
ra tòa án có thẩm quyền. Khi đó, A được xem là đang “sử dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật: Khi A khởi kiện B ra tòa, tòa án đó có trách nhiệm xem xét và
thụ lý đơn khởi kiện của A. Theo đó, tòa án được xem là cơ quan “áp dụng pháp luật”.
Câu 12. Trình bày các thuộc tính của pháp luật.
Tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là tế bào của
pháp luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội các hành vi xử sự của con
người rất khác nhau, tuy nhiên trong nhưng hoàn cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra
được cách xử sự chung phù hợp với đa số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những quy tắc xử
sự chung, nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm phổ biến.
Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy
phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi
bằng những quy định khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước “được đề
lên thành luật”. Tuỳ theo từng nhà nước khác nhau mà ý chí của giai cấp thống trị trong
xã hội mang tính chất chủ quan của một nhóm người hay đáp ứng được nguyện vọng,
mong muốn của đa số nhân dân trong quốc gia đó.
Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Thuộc tính thứ hai của pháp luật là tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, nó là
sự thể hiện nội dung pháp luật dưới những hình thức nhất định. Thuộc tính này thể hiện
Nội dung của pháp luật đựơc xác định rõ ràng, chặt chẽ khái quát trong các điều,
khoản của các điều luật trong một văn bản quy phạm pháp luật cũng như toàn bộ hệ
thống pháp luật do nhà nước ban hành. Ngôn ngữ sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ
pháp luật, lời văn trong sáng, đơn nghĩa. Trong pháp luật không sử dụng những từ “vân
vân” và các dấu (…), “có thể” và một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu theo
nhiều cách khác nhau.
Tính được bảo đảm bằng nhà nước
Khác với các quy phạm xã hội khác pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo đảm bằng nhà nước là thuộc tính của
pháp luật. Pháp luật không chỉ do nhà nước ban hành mà nhà nước còn bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện, có nghĩa là nhà nước trao cho các quy phạm pháp luật có tính quyền
lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Pháp luật trở thành quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung nhờ vào sức mạnh quyền lực của nhà nước.
Tuỳ theo mức độ khác nhau mà nhà nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ
chức, khuyến khích,… kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng nhà nước của pháp luật được hiểu dưới hai khía
cạnh. Một mặt nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả hai phương pháp thuyết
phục và cưỡng chế, mặt khác nhà nước là người bảo đảm tính hợp lý và uy tín của pháp
luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện thuận lợi trong đời sống xã hội.
Câu 13. Trình bày khái niê
^
m và đặc điểm của qui phạm pháp luật.
Khái niệm: quy phạm pháp luật chính là những quy tắc, chuẩn mực mang tính bắt
buộc chung phải thi hành hoặc thực hiện đối với mọi chủ thể, đó có thể là tổ chức hay cá
nhân có liên quan.
Quy phạm pháp luật được ban hành/thừa nhận bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của pháp luật thành quy tắc xử sự nhất
định. Theo đó, các chủ thể phải tuân theo trong các trường hợp cụ thể do Nhà nước quy
định, đồng thời được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Quy phạm pháp luật được xem là là thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật. Đó
là quy tắc xử sự chung và là chuẩn mực để mọi người phải tuân theo, cũng là tiêu chuẩn
để đánh giá hành vi của con người. hứa đựng trong mình những tư tưởng, quan điểm
chính trị – pháp lý của Nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
Thông qua các quy phạm pháp luật, chúng ta sẽ biết được hoạt động nào phù hợp,
hoạt động nào trái pháp luật.
*ĐẶC ĐIỂM
Đặc điểm đầu tiên, quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành/thừa nhận.
Mỗi năm có hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành. Mỗi văn bản đều có
nội dung và mục đích khác nhau.
Các văn bản Luật được ban hành với mục đích sửa đổi, bổ sung cho những
Luật/Bộ luật cũ sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có nhiệm vụ, chức năng về việc ý kiến, thông
qua và ban hành văn bản; Quốc Hội là cơ quan có quyền lực xem xét, thông qua các văn
bản Luật trước khi ban hành, có hiệu lực và áp dụng thực tế.
Ngoài ra, các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng có có thẩm quyền ban hành văn
bản.
Các cơ quan Nhà nước chỉ ban hành văn bản pháp luật trong phạm vi lĩnh vực của
mình, đồng thời chịu trách nhiệm pháp lý với những quy phạm pháp luật được quy định
trong văn bản ban hành đó.
Bên cạnh các bộ, ngành được ban hành thì người đứng đầu các cơ quan Nhà nước
hay thủ trưởng một số đơn vị thuộc cơ quan Nhà nước,…cũng được phép ban hành văn
bản pháp luật trong phạm vi quyền hạn, lĩnh vực mình quản lý.
Và những văn bản do Nhà nước ban hành không phải văn bản nào cũng là văn bản
quy phạm pháp luật.
- Đặc điểm thứ hai của quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử
sự chung mang tính bắt buộc, được Nhà nước đảm bảo thực hiện
Những quy định trong văn bản quy phạm pháp luật phải được đảm bảo thực hiện
trong thực tế thì việc ban hành quy phạm pháp luật mới thực sự đạt hiệu quả.
Do đó, bên cạnh ban hành những quy phạm pháp luật, Nhà nước còn ban hành
nhiều biện pháp áp dụng khác nhau. Nếu không thực hiện sẽ bị xử lý và cơ quan thực thi
pháp luật như Công an, Tòa án… sẽ áp dụng biện pháp xử lý.
- Thứ ba, văn bản pháp luật được thể hiện dưới hình thức nhất định được pháp luật
quy định.
Hình thức thể hiện dưới dạng văn bản luật hoặc văn bản dưới luật, được cấu thành
dựa theo hai yếu tố: tên gọi, thể thức văn bản.
+ Tên gọi: quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các văn bản luật/dưới luật
với nhiều tên gọi khác nhau dựa trên các lĩnh vực khác nhau: Luật Hôn nhân và Gia đình,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Nghị định, Thông tư, Quyết định…
+ Thể thức: Quy phạm pháp luật được trình bày trong các văn bản theo một khuôn
mẫu, kết cấu nhất định, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung và hình thức.
- Đặc điểm thứ tư, quy phạm pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể, chức năng
điều chỉnh hành vi, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
Trong một quy phạm pháp luật luôn chứa đựng ý chí chủ chủ thể, đó có thể là việc
cấm thực hiện, cho phép thực hiện, bắt buộc thực hiện,…
Câu 14. Trình bày khái niê
^
m và phân tích đă
^
c điểm của quan hê
^
pháp luâ
^
t.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Trong các mối quan hệ pháp luật, các bên tham gia sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể được pháp luật quy định, Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí. Ý chí của Nhà nước thể
hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Các quan hệ pháp luật còn mang ý chí của các
chủ thể tham gia. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của Nhà nước, thể hiện
khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn của quan hệ đó.
*ĐẶC ĐIỂM
Các đặc điểm quan hệ pháp luật như sau:
– Quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật. Trong đó, quy phạm
pháp luật là sự dự liệu tình huống nảy sinh quan hệ pháp luật, xác định được chủ thể tham
gia, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý.
– Quan hệ mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các
bên tham gia vào quan hệ đó.
– Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật, thậm chí là bảo đảm
bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành.
– Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền chủ thể và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định.
– Quan hệ pháp luật còn mang tính cụ về chủ thể tham gia là cá nhân, tổ chức hay
cơ quan nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Câu 15. Trình bày khái niê
^
m và các hình thức của thực hiê
^
n pháp luâ
^
t.
Khái niệm: Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không
trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng
một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không
tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Từ việc hiểu Thực hiện pháp luật là gì có thể khái quát hai đặc điểm cơ bản của
thực hiện pháp luật đó là:
– Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật
– Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác
nhau
Các hình thức thực hiện pháp luật
– Hình thức đầu tiên là tuân thủ pháp luật:
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế
của chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật.
Ví dụ 1: Việc một người không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý, không
thực hiện hành vi lừa đảo, không lái xe chở quá số người quy định,… là người đó đã tuân
thủ pháp luật
Ví dụ 2: Không vi phạm các quy định luật an toàn giao thông khi tham gia giao
thông, không trộm cắp tài sản,….
– Hình thức thứ hai là thi hành pháp luật (hay còn gọi là chấp hành pháp
luật):
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật chủ
động thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa
vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ người thân khi
họ già yếu… v.v
– Hình thức thứ ba là sử dụng pháp luật:
Tại hình thức này chủ thể có thể thực hiện quyền chủ thể của mình. Sử dụng pháp
luật là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng,
khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành cho mình.
Ví dụ 1: Cán bộ Ủy ban nhân dân xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
cho công dân.
Ví dụ 2: Công an phường xem xét thực hiện đăng ký thường trú cho công dân khi
đủ điều kiện.
Ví dụ 3: Pháp luật cho phép vợ, chồng được ly hôn khi mục đích hôn nhân không
thể thực hiện. Chị A đã thỏa thuận ly hôn với chồng khi người chồng không thực hiện
được các nghĩa vụ cơ bản đối với gia đình, mục đích của hôn nhân không được đảm bảo.
– Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật:
Hình thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các
quy định của pháp luật hoặc ban hành quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
các quan hệ pháp luật cụ thể.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
người đi vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông
đường bộ.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với trường
hợp khai báo gian dối trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng chống dịch như khai
báo y tế, vi phạm về quy định cách ly y tế.
Hình thức áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đó là:
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
– Áp dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt chẽ được pháp luật
quy định cụ thể (ví dụ như trường hợp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông cũng được pháp luật quy định một cách chi tiết)
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng quan hệ xã hội nhất
định.
Câu 16. Trình bày các nguyên tắc của áp dụng pháp luâ
^
t.
Thứ nhất: Nguyên tắc áp dụng pháp luật chung trên Thế giới*
– Ưu tiên lựa chọn văn bản tại thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp
luật.
– Áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
– Áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.
– Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý
hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có
hiệu lực.
– Áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật trong nước và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề trừ Hiến pháp.
Thứ hai: Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong pháp luật Việt Nam
– Ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung:
+ Khoản 1 – Điều 4 – Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Bộ luật này là luật
chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. Do đó, Bộ luật Dân sự là luật chung điều chỉnh
toàn bộ các quan hệ pháp luật thuộc pháp luật dân sự.
+ Điều 3 – Luật Doanh nghiệp năm 2014: Áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật
chuyên ngành, theo đó trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành
lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì
áp dụng quy định của luật đó.
– Ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau:
+ Khoản 3 – Điều 156 – Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015:
Các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan hành có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau.
Thứ ba: Một số hạn chế trong nguyên tắc áp dụng pháp luật
– Các quy định hiện hành không xác định rõ thứ tự ưu tiên khi áp dụng 02 nguyên
tắc trên dẫn đến khi phát sinh xung đột mâu thuẫn sẽ không xác định được phải áp dụng
nguyên tắc này.
– Các quy định hiện hành cũng không xác định rõ luật nào là luật chung, luật nào
là luật riêng, luật chuyên ngành, không quy định rõ luật chuyên ngành ban hành trước thì
áp dụng quy định của luật nào.
– Còn diễn ra tình trạng một số bộ, ngành lạm dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng
pháp luật để ban hành nhiều quy định đặc thù có lợi cho bộ, ngành, lĩnh vực quản lý của
mình dễ tạo ra nguy cơ hệ thống pháp luật chồng chéo, không thống nhất.
– Hoạt động rà soát, thẩm định, thẩm tra văn bản trong quá trình xây dựng luật còn
bất cập dẫn đến một số trường hợp không phát hiện và sửa đổi bổ sung kịp thời các văn
bản mâu thuẫn, chồng chéo.
– Pháp luật hiện hành chưa trù liệu cơ chế giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong áp
dụng các nguyên tắc nêu trên.
Câu 17. Trình bày khái niê
^
m và đă
^
c điểm của ý thức pháp luâ
^
t.
Khái niệm: Ý thức pháp luật là toàn bộ những tri thức, quan điểm, quan niệm, học
thuyết về pháp luật biểu hiện qua sự nhận thức, tình cảm, thái độ của con người với pháp
luật, ý Thức pháp luật bao gồm 2 bộ phận phân theo cấu trúc là tâm lý pháp luật và tư
tưởng về pháp luật.
Đặc điểm:
– Ý thức pháp luật sẽ lạc hậu hơn với sự tồn tại của xã hội phát triển
– Một số điểm của ý thức pháp luật cụ thể là tư tưởng về pháp luật có sự phát triển
hơn so với thời điểm ở thời gian đó trong xã hội
– Ý thức pháp luật có thể là nguyên nhân hoặc trực tiếp phản ánh sự tồn tại của
pháp luật và tiếp nối, kế thừa của các thế hệ trước đó.
– Ý thức pháp luật có tính giai cấp, đối với mỗi nước sẽ có hệ thống pháp luật
khác nhau nhưng đều có hình thái về ý thức của pháp luật.
Tóm lại ý thức pháp luật là một trong những yếu tố có thể là động lực để thúc đẩy
phát triển hoặc cũng có thể là sự kìm hãm đối với các sự vật hoặc hiện tượng nào đó
Câu 18. Trình bày các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy
nhà nước XHCN.
1. Nguyên tắc tập quyền
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở các
nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây (tập quyền xã hội chủ nghĩa). Tập quyền nghĩa là
quyền lực nhà nước tập trung vào một nơi, một cá nhân, một cơ quan. Nguyên tắc tập
quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện ở chỗ quyền ra quyết
định được tập trung tại cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan này có quyền
quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước mà không có sự tham gia hoặc tham gia
rất ít của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây có quan niệm cho rằng, quốc hội
những nước này phải khác nghị viện tư sản ở chỗ nó phải vừa là cơ quan lập pháp, vừa là
cơ quan hành pháp. Hiên pháp các nước này đều quy định Quốc hội (Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc, Xô Viết tối cao...) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bởi vậy
về mặt pháp lí mọi quyền lực tối cao của nhà nước đều tập trung vào quốc hội. Quốc hội
có toàn quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước, ngoài những thẩm quyền
được hiến pháp quy định, quốc hội còn có thể tự quy định cho mình những nhiệm vụ,
quyền hạn khác. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, thông qua
hiến pháp, quốc hội thành lập và trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác. Chính vì
vậy, các cơ quan nhà nước khác được coi như phái sinh từ quốc hội, nhận quyền lực từ
quốc hội. Trong mối quan hệ với chính phủ, hiến pháp xác định chính phủ là cơ quan
chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của quốc hội (Điều 104 Hiến pháp Việt Nam
năm 1980).
2. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (nguyên tắc phân quyền)
Một là, quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như
quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp... và được trao cho các cơ quan nhà
nước khác nhau thực hiện một cách độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một quyền. Điều
này đảm bảo không một cơ quan nào nắm trọn Vẹn quyền lực nhà nước, cũng như không
một cơ quan nào có thể lấn sân sang hoạt động của cơ quan khác. Thực chất của sự phân
chia quyền lực là sự phân định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo sự chuyên môn hoá trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp... đều thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình trên cơ sở pháp luật.
Hai là, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp... còn có sự kiềm chế, đối
trọng, chế ước lẫn nhau theo phương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát,
giám sát từ phía cơ quan khác. Điều này nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên
quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, qua đó
bảo đảm quyền, lợi ích họp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng
như có thể tránh được những mối nguy hại khác. Bên cạnh đó, sự kiểm soát, giám sát lẫn
nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp với nhau
nhằm tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Ở các nước tư bản, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể, việc áp dụng
nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không hoàn toàn
giống nhau. Thực tế cho thấy, có thể có ba mô hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, đó là mô hình phân quyền cứng rắn, thể hiện
| 1/47

Preview text:

Câu 1. Trình bày đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của Lý
luận nhà nước và pháp luật với tư cách là một ngành khoa học.
Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu của lý luận chung về nhà nước và pháp luật bao
gồm:
Phương pháp nghiên cứu cụ thể của Lý luận chung là những cách thức mà khoa
học này sử dụng để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc đối tượng của mình. Phương pháp
phân tích là phương pháp chia các vấn đề phức tạp thành những bộ phận, những yếu tố
đơn giản đế nghiên cứu và làm sáng tỏ vấn đề. Ví dụ: làm sáng tỏ các khái niệm về nhà
nước và pháp luật bằng việc phân tích các đặc điểm của chúng. Phương pháp tổng hợp
thường sử dụng khi liên kết các yếu tố đã phân tích, khái quát hoá để nêu lên kết luận.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học là dùng các thao tác tư duy để tách cái chung ra
khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung nhằm xây dựng nên những
khái niệm chung, ví dụ, đề cập bản chất, kiếu nhà nước… Phương pháp xã hội học là
thông qua phỏng vấn, đàm thoại, đối thoại, điều tra xã hội học… để tìm hiểu dư luận xã
hội về một vấn đề nào đó, ví dụ, tìm hiểu về ý thức pháp luật…Phương pháp so sánh là
tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa nhà nước và pháp luật với các hiện
tượng xã hội khác để hiểu sâu về bản chất và đặc điểm của chúng.
-Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của lí luận chung về nhà nước và pháp luật là nhà nước và
pháp luật - hai hiện tượng quan trọng và phức tạp nhất trong thượng tầng chính trị- pháp
lí của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật còn là đối tượng nghiên cứu của một số
ngành khoa học xã hội như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
chính trị học và các khoa học pháp lí khác. Vì vậy, cần xác định rõ phạm vi nghiên cứu
nhà nước và pháp luật của các ngành khoa học xã hội nói trên.
- Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung
nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới.1 Kế thừa và phát triển những tinh hoa
trí tuệ của loài người, triết học Mác - Lênin có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật
chung nhất của quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy
theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu
nhà nước và pháp luật cùng với những hiện tượng xã hội khác của thượng tầng chính trị -
pháp lí và hạ tầng cơ sở để tìm ra quy luật phát triển của xã hội loài người nói chung,
ttong đó có nhà nước và pháp luật. Như vậy, triết học Mác - Lênin nghiên cứu nhà nước
và pháp luật cùng với các hiện tượng xã hội khác một cách chung nhất, khái quát nhất
chứ không đi sâu nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật.
- Kinh tế chính trị học là khoa học nghiên cứu về quan
hệ sản xuất, các quy luật chi phối quá trình sản xuất, phân phối và trao đối của cải
vật chất trong xã hội con người ở các giai đoạn phát triển lịch sử khác nhau của nó. Nhà
nước và pháp luật cũng là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học Mác - Lênin,
nhưng kinh tế chính trị học Mác - Lênin chỉ nghiên cứu vai trò cùa nhà nước và pháp luật
trong việc điều hành nền kinh tế và phân phối sản phẩm lao động xã hội chứ không đi sâu
nghiên cứu các vai trò khác của nhà nước và pháp luật.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học nghiên cứu quy
luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện
thực của các dân tộc trên thế giới. Việc nghiên cứu nhà nước và pháp luật của chủ nghĩa
xã hội khoa học chỉ diễn ra trong phạm vi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những vấn đề cụ thể như: sự ra đời của nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai trò của nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các chức năng cơ
bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa...
- Chính trị học là khoa học nghiên cứu quy luật hình thành và vận động của chính
trị, quyền lực chính trị, cơ chế và phương thức thực hiện quyền lực chính trị, đảng chính
trị và vai trò của các đảng chính trị trong cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, hệ thống
chính trị, quan hệ chính trị, lợi ích chính trị, hệ tư tưởng chính trị, ý thức chính trị...
Chính trị học Mác – Lênin cũng nghiên cứu nhà nước và pháp luật trên cơ sở gắn nhà
nước, pháp luật với việc thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Một số vấn đề quan
trọng của nhà nước và pháp luật được chính trị học Mác – Lênin đề cập như quyền lực
nhà nước (một dạng của quyền lực chính trị); mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với
các dạng quyền lực chính trị khác; vai trò của nhà nước, pháp luật trong việc thực hiện
quyền lực chính trị; quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị và các tổ chức xã hội
khác trong việc thực hiện quyền lực chính trị; vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ chính trị, các nhu cầu và lợi ích chính trị... Như vậy, việc nghiên cứu nhà
nước và pháp luật của chính trị học Mác - Lênin cũng trong phạm vi, giới hạn nhất định.
Câu 2. Trình bày nội dung cơ bản của một số học thuyết phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước.
Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước: Thuyết thần quyền
Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra
nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế. Thuyết gia trưởng
Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền
gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực
nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên
của xã hội loài người. Thuyết bạo lực
Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất,
là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng
đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước
– để nô dịch kẻ chiến bại. Thuyết tâm lý
Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy
luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…
Thuyết “khế ước xã hội”
Cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết
trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.
Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ
được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.
Câu 3. Trình bày nội dung cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước mang bảnchất giai cấp.
Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp.Giai cấp nào thì nhà nước đó. Do
trong xã hội nguyên thủy khôngcó phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên thủy
không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhànước chủ
nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ
nghĩa). Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp
mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.Bản chất
nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống
nhất không thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ
bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục vụ lợi ích của giai
cấp thống trị; tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗnhà nước là đại diện chính thức của
toàn xã hội, và ở mức độ nàyhay mức độ khác nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản,
lâu dàicủa quốc gia dân tộc và công dân mình.
Câu 4. Trình bày khái niệm, bản chất và đặc điểm của nhà nước. Khái niệm
-Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất
-Bản chất là khái niệm diễn đạt những đặc tính bên trong của sự vật, cái cốt lõi của
sự vật gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật đó. Theo quan điểm của
CN Mac-Lênin, thì bản chất nhà nước có 02 thuộc tính:
a) Bản chất giai cấp của nhà nước:
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp, và bao giờ cũng thể hiện
bản chất giai cấp sâu sắc, thể hiện ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là
công cụ sắc bén nhất để thực hịên sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
b) Bản chất xã hội của nhà nước:
Thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, Nhà nước phải giải quyết tất cả
các vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ những
nhu cầu mang tính chất công cho xã hội như: xây dựng trường học, bệnh viện, đường xá,
giải quyết các tệ nạn xã hội…..
=> Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa
mang bản chất giai cấp, vừa mang bản chất xã hội Đặc điểm:
• Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng chế, quản
lý những công việc chung của xã hội.
• Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính.
• Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
• Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các
quan hệ xã hội bằng pháp luật.
• Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế
Câu 5. Trình bày khái niệm chức năng nhà nước và phân loại các chức năng của nhà nước.
Khái niệm: Chức năng của nhà nước là các phương diện hoạt động chủ yếu của
Nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Chức năng của Nhà nước
xuất phát từ bản chất của Nhà nước do cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội quy định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nước, chức năng của Nhà nước bao gồm
02 chứng năng chính sau đây:
a) Chức năng đối nội của nhà nước:
Chức năng đối nội của nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước
trong nội bộ đất nước.
Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế
độ kinh tế … là những chức năng đối nội của các nhà nước.
– Chức năng bảo vệ chế độ, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
– Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
– Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế
– Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
– Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
b) Chức năng đối ngoại của nhà nước:
Chức năng đối ngoại của nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nướctrong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác. Để thực hiện 02 chức năng trên, Nhà nước sử dụng nhiều
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có 03 hình thức chính là: Xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, và bảo vệ pháp luật và 02 phương pháp
chính là thuyết phục và cưỡng chế. (cần phân biệt giữ chức năng của Nhà nước và chức
năng của cơ quan Nhà nước cụ thể: mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ riêng,
tham gia thực hiện chức năng chung của Nhà nước ở những mức độ khác nhau)
=> Nhà nước là một tổ chức đặt biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
Câu 6. Phân tích các bộ phận cấu thành của hình thức nhà nước.
Các cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.
Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước xã hội chủ nghĩa, là người thay mặt
nhà nước trong các quan hệ đối ngoại, đối nội.
Các cơ quan hành chính nhà nước là những cơ quan có thẩm quyền quản lý mọi mặt
hoạt động của quốc gia. Các cơ quan này vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền
lực cùng cấp, vừa là cơ quan quản lý nhà nước.
Toà án là cơ quan xét xử của nhà nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống toà án xã hội chủ
nghĩa hoạt động trên các nguyên tắc:
– Xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật;
– Xét xử có sự tham gia của hội thẩm nhân dân; – Xét xử theo 2 cấp.
Viện kiểm sát là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuỳ theo
từng giai đoạn cụ thể mà thẩm quyền của Viện kiểm sát có sự quy định khác nhau.
Giai đoạn trước đây, ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa cơ quan kiểm sát là cơ quan
kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội, cán bộ, viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân
trong việc thực hiện pháp luật. Viện kiểm sát đồng thời cũng là cơ quan giữ thẩm quyền công tố.
Câu 7. So sánh chính thể quân chủ với chính thể cộng hòa.
Chính thể quân chủ
Chính thể cộng hòa
- Là chính thể mà toàn bộ hoặc một phàn quyền lực tối cao của - Là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao
nhà nước được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương...) theo cho một hoặc một số cơ quan theo phương thức chủ yếu là
phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập). bầu cử.
- Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cá
- Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cơ
nhân (vua, hoàng đế, quốc vương...).
quan (ví dụ: Quốc hội của Việt Nam) hoặc một số cơ quan
(ví dụ: Nghị viện, Tổng thống và Tòa án tối cao ở Mỹ).
- Phương thức trao quyền lực tối cao cho nhà vua chủ yếu là
- Phương thức trao quyền lực cho cơ quan quyền lực tối cao
cha truyền con nối, ngoài ra, có thể bằng chỉ định, suy tôn, tự
là bằng bầu cử (ví dụ ở Việt Nam) hoặc chủ yếu bằng bầu cử
xưng, được phong vương, bầu cử hoặc tiếm quyền... (ví dụ ở Mỹ).
- Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là suốt đời và có thể
- Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là chỉ trong một thời truyền ngôi cho đời sau.
gian nhất định (theo nhiệm kỳ) và không thể truyền lại chức vụ cho đời sau.
- Nhân dân không được tham gia vào việc lựa chọn nhà vua
- Nhân dân được tham gia bầu cử và ứng cử vào cơ quan
cũng như giám sát hoạt động của nhà vua.
quyền lực tối cao của nhà nước cũng như giám sát hoạt động của cơ quan này.
Chính thể quân chủ
Chính thể cộng hòa
- Chính thể quân chủ gồm các dạng: quân chủ chuyên chế (tuyệt - Chính thể cộng hòa gồm hai dạng: cộng hòa quý tộc và
đối) và quân chủ hạn chế (tương đối). Riêng chính thể quân chủ cộng hòa dân chủ. Riêng chính thể cộng hòa dân chủ lại có
hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân các dạng tương ứng với các kiểu nhà nước là cộng hòa chủ
chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện).
nô, cộng hòa phong kiến, cộng hòa tư sản và cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Câu 8. So sánh hình thức nhà nước đơn nhất với hình thức nhà nước liên bang
Nhà nước đơn nhất là nhà nước, trong đó lãnh thổ quốc gia được phân bố thành
các đơn vị hành chính – lãnh thổ; có một Chính phủ; một Hiến pháp; một hệ thống pháp
luật; một quốc tịch; một quy chế công dân; có hệ thống các cơ quan chính quyền thống
nhất từ trung ương đến địa phương.
Nhà nước liên bang là nhà nước được thành lập bởi sự liên kết, hợp nhất hai hay
nhiều nhà nước thành viên. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung nhưng mỗi nhà nước
thành viên có chủ quyền riêng. Tuy vậy, các thành viên liên bang bị hạn chế một số chủ quyền nhất định.
So sánh nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Điểm giống nhau giữa nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang đều xác lập ở nhà nước có chủ quyền quốc
gia, tức quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của
quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Cả hai đều có một hệ thống cơ quan nhà nước và một hệ thống pháp luật áp dụng
chung trên toàn bộ lãnh thổ.
Công dân ở mỗi cấu trúc nhà nước đều có quốc tịch chung của nhà nước đó
Phân biệt nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
Thứ nhất, nhà nước đơn nhất chỉ gồm một nước duy nhất so với nhà nước liên
bang là sự liên hợp của hai hay nhiều nhà nước thành viên lại với nhau. Do đó ngoài hệ
thống cơ quan nhà nước và hệ thống pháp luật chung, thống nhất như ở nhà nước đơn
nhất, nhà nước liên bang còn có một hệ thống riêng cho từng nhà nước (hay còn gọi là bang) thành viên.
Thứ hai, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ về mặt chủ quyền của nhà nước đơn
nhất không bị chia cắt bởi các đơn vị hành chính để quản lý trong khi sự thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ về mặt chủ quyền của nhà nước liên bang không bị chia cắt bởi các
nước hay các bang thành viên.
Thứ ba, công dân của nhà nước đơn nhất có quốc tịch chung thống nhất còn công
dân của nhà nước liên bang ngoài quốc tịch chung của nhà nước liên bang còn có thêm
quốc tịch riêng của từng nhà nước thành viên hoặc từng bang.
Ngoài ra, cấu trúc liên bang thường được thiết lập tại một quốc gia đa sắc tộc (Mỹ,
Úc, Malaysia,…) hoặc có lãnh thổ rộng lớn (tám trong số mười nước diện tích lớn nhất
thế giới được tổ chức thành các liên bang) hoặc trong trường hợp cần thiết (giải quyết các
vấn đề chung hoặc để có năng lực phòng thủ chung như Mỹ, Thụy Sĩ hoặc tạo ra một nhà
nước dân tộc cho các nhóm rải rác ở các quốc gia khác nhau như Đức), các liên bang
thường được thành lập trên cơ sở một một hiệp ước giữa các thành viên có chủ quyền.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang không phải
lúc nào cũng rõ ràng, một nhà nước đơn nhất có thể rất giống nhà nước liên bang về cấu
trúc. Từ đó nảy sinh cấu trúc mới – sự kết hợp giữa cấu trúc đơn nhất hoặc liên bang với
chế độ ủy trị có điều kiện, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là ví dụ tiêu biểu cho mô hình
này. Theo hiến pháp, quyền lực của các đặc khu hành chính của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa được trao bởi Chính phủ nhân dân Trung ương thông qua nghị quyết của Toàn
quốc Nhân dân Đại biểu Đại hội. Vậy nhưng, việc hủy bỏ quyền tự trị của các đặc khu
hành chính Hong Kong và Macau là một thách thức lớn nếu muốn nói là không thể.
Câu 9. Trình bày nội dung cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc pháp luật.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà
nước. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những nguyên
nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp luật. Để
hướng dẫn cách xử sự cho con người, xã hội nguyên thủy sử dụng phong tục tập quán,
đạo đức, tín điều tôn giáo... Các quy tắc ứng xử này hình thành một cách tự phát trong
cộng đồng trên cơ sở điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể lúc bấy giờ.
Khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi, trong xã hội xuất hiện các quan hệ xã hội mới,
tương đối đa dạng, phức tạp mà các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán... không điều
chỉnh hết hoặc điều chỉnh không có hiệu quả hoặc không thể điều chỉnh được. Trong điều
kiện đó, nhà nước xuất hiện, để tổ chức, quản lí đời sống xã hội phức tạp đó, nhà nước
từng bước làm xuất hiện một loại quy tắc ứng xử mới, đó chính là pháp luật. Thông qua
nhà nước, pháp luật hình thành bằng các con đường, một là, nhà nước thừa nhận các quy
tắc xử sự có sẵn trong xã hội nhưng phù họp với ý chí của nhà nước, nâng chúng lên
thành pháp luật; hai là, nhà nước thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực
tế, sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác có tính tương tự; ba là, nhà
nước đặt ra các quy tắc xử sự mới.
Pháp luật xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của đời
sống xã hội. Nhà nước không sinh ra pháp luật, trong sự hình thành pháp luật, nhà nước
chỉ có vai trò như người “bà đỡ”, nhà nước chỉ làm cho pháp luật “hiện diện” trong đời
sống với những hình thức xác định.
Câu 10. Trình bày các chức năng cơ bản của pháp luật
Một là, chức năng điều chỉnh
Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp
luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh của
pháp luật lên các quan hệ xã hội được thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp luật ghi
nhận các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát
triển của các quan hệ xã hội. Như vậy pháp luật đã thiết lập “trật tự” đối với các quan hệ
xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng nhất định phù
hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan của các quan hệ xã hội.
Hai là, chức năng bảo vệ
Chức năng bảo vệ là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều
chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được
quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi
vi phạm pháp luật. Chẳng hạn hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý
theo Luật hình sự, hnàh vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự.
Ba là, chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật
vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy
định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá
nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm tội hình sự,…).
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa pháp luật như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được
nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là
công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
Bốn là, chức năng giao tiếp
Một trong những khái niệm cơ bản của khoa học xã hội trong giai đoạn hiện nay là khái
niệm và mối liên hệ nhân quả – thông tin. Khái niệm đó có ý nghĩa rất lớn ở khía cạnh
quản lý sự phát triển xã hội. Hoạt động sống về mặt xã hội của các cá nhân liên quan chặt
chẽ hữu cơ với việc thu nhận, tiếp nhận, chiếm lĩnh, lưu giữ và sử dụng thông tin xã hội.
Thông tin pháp luật là một trong những dạng của thông tin xã hội mang tính chất mệnh
lệnh, quy định. Với sự hỗ trợ của quy phạm pháp luật quan điểm của Nhà nước về hành
vi đòi hỏi phải có hành vi cho phép hoặc cấm đoán được thông báo cho những người
tham gia các quan hệ xã hội. Như vậy, trong hoạt động của mình – hoạt động cá nhân
hoặc tập thể, các công dân được thông tin về các phương pháp và các biện pháp của việc
đạt được các kết quả cần thiết, về các hậu quả của việc vi phạm các quy định của pháp luật.
Câu 11. So sánh các hình thức bên ngoài của pháp luật. 1.Về khái niệm
Tuân thủ pháp luật: Chủ thể pháp luật kiềm chế mình để không thực hiện điều pháp luật cấm.
Thi hành pháp luật: Chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều pháp luật yêu cầu.
Sử dụng pháp luật: Chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
Áp dụng pháp luật: Cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ
thể khác thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định. 3.2. Về bản chất
Tuân thủ pháp luật: Thực hiện pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới
dạng “hành vi không hành động”.
Thi hành pháp luật: Chủ động, tích cực thực hiện pháp luật dưới hình thức “hành vi hành động”.
Sử dụng pháp luật: Các chủ thể lựa chọn xử sự những điều pháp luật cho phép. Đó
có thể là “hành vi hành động” hoặc “hành vi không hành động” tùy quy định pháp luật cho phép.
Áp dụng pháp luật: Vừa là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
nước, nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các
quy định pháp luật -> Mang tính quyền lực nhà nước. Được thể hiện dưới hình thức
“hành vi hành động” và “hành vi không hành động”.
2.Về chủ thể thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Mọi chủ thể.
Thi hành pháp luật: Mọi chủ thể.
Sử dụng pháp luật: Mọi chủ thể.
Áp dụng pháp luật: Chỉ cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.Về hình thức thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Thường được thể hiện dưới dạng những quy phạm cấm đoán.
Tức là quy phạm buộc chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất định
Thi hành pháp luật: Thường được thể hiện dưới dạng những quy phạm bắt buộc.
Theo đó, chủ thể buộc phải thực hiện hành vi hành động, hợp pháp.
Sử dụng pháp luật: Thường được thể hiện dưới những quy phạm trao quyền. Tức
pháp luật quy định về quyền hạn cho các chủ thể.
Áp dụng pháp luật: Tất cả các loại quy phạm vì nhà nước có nghĩa vụ cũng như
quyền hạn tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật.
4.Về tính bắt buộc thực hiện
Tuân thủ pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật là không có sự lựa chọn.
Thi hành pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật mà không có sự lựa chọn.
Sử dụng pháp luật: Các chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được
pháp luật cho phép tùy theo ý chí của mình, phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng chủ thể
chứ không bị ép buộc phải thực hiện.
Áp dụng pháp luật: Mọi chủ thể đều bắt buộc phải thực hiện theo quy định pháp
luật mà không có sự lựa chọn. 5.Ví dụ
Tuân thủ pháp luật: Pháp luật cấm hành vi mua, bán dâm. Do đó, “không thực hiện
hành vi mua, bán dâm” được xem là tuân thủ pháp luật.
Thi hành pháp luật: Pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân/
thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, nếu không thuộc trường hợp miễn thuế/đối tượng
không chịu thuế thì chủ thể đóng thuế được xem là “thi hành pháp luật”.
Sử dụng pháp luật: Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị B xâm
phạm, A có quyền khởi kiện B ra tòa án vì pháp luật trao cho A quyền được khởi kiện B
ra tòa án có thẩm quyền. Khi đó, A được xem là đang “sử dụng pháp luật”.
Áp dụng pháp luật: Khi A khởi kiện B ra tòa, tòa án đó có trách nhiệm xem xét và
thụ lý đơn khởi kiện của A. Theo đó, tòa án được xem là cơ quan “áp dụng pháp luật”.
Câu 12. Trình bày các thuộc tính của pháp luật. Tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là tế bào của
pháp luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội các hành vi xử sự của con
người rất khác nhau, tuy nhiên trong nhưng hoàn cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra
được cách xử sự chung phù hợp với đa số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những quy tắc xử
sự chung, nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm phổ biến.
Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy
phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi
bằng những quy định khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước “được đề
lên thành luật”. Tuỳ theo từng nhà nước khác nhau mà ý chí của giai cấp thống trị trong
xã hội mang tính chất chủ quan của một nhóm người hay đáp ứng được nguyện vọng,
mong muốn của đa số nhân dân trong quốc gia đó.
Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Thuộc tính thứ hai của pháp luật là tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, nó là
sự thể hiện nội dung pháp luật dưới những hình thức nhất định. Thuộc tính này thể hiện
Nội dung của pháp luật đựơc xác định rõ ràng, chặt chẽ khái quát trong các điều,
khoản của các điều luật trong một văn bản quy phạm pháp luật cũng như toàn bộ hệ
thống pháp luật do nhà nước ban hành. Ngôn ngữ sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ
pháp luật, lời văn trong sáng, đơn nghĩa. Trong pháp luật không sử dụng những từ “vân
vân” và các dấu (…), “có thể” và một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Tính được bảo đảm bằng nhà nước
Khác với các quy phạm xã hội khác pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo đảm bằng nhà nước là thuộc tính của
pháp luật. Pháp luật không chỉ do nhà nước ban hành mà nhà nước còn bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện, có nghĩa là nhà nước trao cho các quy phạm pháp luật có tính quyền
lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Pháp luật trở thành quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung nhờ vào sức mạnh quyền lực của nhà nước.
Tuỳ theo mức độ khác nhau mà nhà nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ
chức, khuyến khích,… kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng nhà nước của pháp luật được hiểu dưới hai khía
cạnh. Một mặt nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả hai phương pháp thuyết
phục và cưỡng chế, mặt khác nhà nước là người bảo đảm tính hợp lý và uy tín của pháp
luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện thuận lợi trong đời sống xã hội.
Câu 13. Trình bày khái niê ^m và đặc điểm của qui phạm pháp luật.
Khái niệm
: quy phạm pháp luật chính là những quy tắc, chuẩn mực mang tính bắt
buộc chung phải thi hành hoặc thực hiện đối với mọi chủ thể, đó có thể là tổ chức hay cá nhân có liên quan.
Quy phạm pháp luật được ban hành/thừa nhận bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của pháp luật thành quy tắc xử sự nhất
định. Theo đó, các chủ thể phải tuân theo trong các trường hợp cụ thể do Nhà nước quy
định, đồng thời được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Quy phạm pháp luật được xem là là thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật. Đó
là quy tắc xử sự chung và là chuẩn mực để mọi người phải tuân theo, cũng là tiêu chuẩn
để đánh giá hành vi của con người. hứa đựng trong mình những tư tưởng, quan điểm
chính trị – pháp lý của Nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thông qua các quy phạm pháp luật, chúng ta sẽ biết được hoạt động nào phù hợp,
hoạt động nào trái pháp luật. *ĐẶC ĐIỂM
Đặc điểm đầu tiên, quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành/thừa nhận.
Mỗi năm có hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành. Mỗi văn bản đều có
nội dung và mục đích khác nhau.
Các văn bản Luật được ban hành với mục đích sửa đổi, bổ sung cho những
Luật/Bộ luật cũ sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có nhiệm vụ, chức năng về việc ý kiến, thông
qua và ban hành văn bản; Quốc Hội là cơ quan có quyền lực xem xét, thông qua các văn
bản Luật trước khi ban hành, có hiệu lực và áp dụng thực tế.
Ngoài ra, các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng có có thẩm quyền ban hành văn bản.
Các cơ quan Nhà nước chỉ ban hành văn bản pháp luật trong phạm vi lĩnh vực của
mình, đồng thời chịu trách nhiệm pháp lý với những quy phạm pháp luật được quy định
trong văn bản ban hành đó.
Bên cạnh các bộ, ngành được ban hành thì người đứng đầu các cơ quan Nhà nước
hay thủ trưởng một số đơn vị thuộc cơ quan Nhà nước,…cũng được phép ban hành văn
bản pháp luật trong phạm vi quyền hạn, lĩnh vực mình quản lý.
Và những văn bản do Nhà nước ban hành không phải văn bản nào cũng là văn bản quy phạm pháp luật.
- Đặc điểm thứ hai của quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử
sự chung mang tính bắt buộc, được Nhà nước đảm bảo thực hiện
Những quy định trong văn bản quy phạm pháp luật phải được đảm bảo thực hiện
trong thực tế thì việc ban hành quy phạm pháp luật mới thực sự đạt hiệu quả.
Do đó, bên cạnh ban hành những quy phạm pháp luật, Nhà nước còn ban hành
nhiều biện pháp áp dụng khác nhau. Nếu không thực hiện sẽ bị xử lý và cơ quan thực thi
pháp luật như Công an, Tòa án… sẽ áp dụng biện pháp xử lý.
- Thứ ba, văn bản pháp luật được thể hiện dưới hình thức nhất định được pháp luật quy định.
Hình thức thể hiện dưới dạng văn bản luật hoặc văn bản dưới luật, được cấu thành
dựa theo hai yếu tố: tên gọi, thể thức văn bản.
+ Tên gọi: quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các văn bản luật/dưới luật
với nhiều tên gọi khác nhau dựa trên các lĩnh vực khác nhau: Luật Hôn nhân và Gia đình,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Nghị định, Thông tư, Quyết định…
+ Thể thức: Quy phạm pháp luật được trình bày trong các văn bản theo một khuôn
mẫu, kết cấu nhất định, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung và hình thức.
- Đặc điểm thứ tư, quy phạm pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể, chức năng
điều chỉnh hành vi, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
Trong một quy phạm pháp luật luôn chứa đựng ý chí chủ chủ thể, đó có thể là việc
cấm thực hiện, cho phép thực hiện, bắt buộc thực hiện,…
Câu 14. Trình bày khái niê ^m và phân tích đă ^c điểm của quan hê ^ pháp luâ ^t.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Trong các mối quan hệ pháp luật, các bên tham gia sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể được pháp luật quy định, Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí. Ý chí của Nhà nước thể
hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Các quan hệ pháp luật còn mang ý chí của các
chủ thể tham gia. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của Nhà nước, thể hiện
khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn của quan hệ đó. *ĐẶC ĐIỂM
Các đặc điểm quan hệ pháp luật như sau:
– Quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật. Trong đó, quy phạm
pháp luật là sự dự liệu tình huống nảy sinh quan hệ pháp luật, xác định được chủ thể tham
gia, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý.
– Quan hệ mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các
bên tham gia vào quan hệ đó.
– Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật, thậm chí là bảo đảm
bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành.
– Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền chủ thể và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
– Quan hệ pháp luật còn mang tính cụ về chủ thể tham gia là cá nhân, tổ chức hay
cơ quan nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Câu 15. Trình bày khái niê ^m và các hình thức của thực hiê ^n pháp luâ ^t.
Khái niệm
: Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không
trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng
một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không
tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Từ việc hiểu Thực hiện pháp luật là gì có thể khái quát hai đặc điểm cơ bản của
thực hiện pháp luật đó là:
– Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật
– Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác nhau
Các hình thức thực hiện pháp luật
– Hình thức đầu tiên là tuân thủ pháp luật:
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế
của chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật.
Ví dụ 1: Việc một người không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý, không
thực hiện hành vi lừa đảo, không lái xe chở quá số người quy định,… là người đó đã tuân thủ pháp luật
Ví dụ 2: Không vi phạm các quy định luật an toàn giao thông khi tham gia giao
thông, không trộm cắp tài sản,….
– Hình thức thứ hai là thi hành pháp luật (hay còn gọi là chấp hành pháp luật):
Đây là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật chủ
động thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa
vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ người thân khi họ già yếu… v.v
– Hình thức thứ ba là sử dụng pháp luật:
Tại hình thức này chủ thể có thể thực hiện quyền chủ thể của mình. Sử dụng pháp
luật là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng,
khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành cho mình.
Ví dụ 1: Cán bộ Ủy ban nhân dân xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho công dân.
Ví dụ 2: Công an phường xem xét thực hiện đăng ký thường trú cho công dân khi đủ điều kiện.
Ví dụ 3: Pháp luật cho phép vợ, chồng được ly hôn khi mục đích hôn nhân không
thể thực hiện. Chị A đã thỏa thuận ly hôn với chồng khi người chồng không thực hiện
được các nghĩa vụ cơ bản đối với gia đình, mục đích của hôn nhân không được đảm bảo.
– Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật:
Hình thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các
quy định của pháp luật hoặc ban hành quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
các quan hệ pháp luật cụ thể.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
người đi vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông đường bộ.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với trường
hợp khai báo gian dối trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng chống dịch như khai
báo y tế, vi phạm về quy định cách ly y tế.
Hình thức áp dụng pháp luật có một số đặc điểm đó là:
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
– Áp dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt chẽ được pháp luật
quy định cụ thể (ví dụ như trường hợp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông cũng được pháp luật quy định một cách chi tiết)
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo
– Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng quan hệ xã hội nhất định.
Câu 16. Trình bày các nguyên tắc của áp dụng pháp luâ ^t.
Thứ nhất: Nguyên tắc áp dụng pháp luật chung trên Thế giới*
– Ưu tiên lựa chọn văn bản tại thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
– Áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
– Áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.
– Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý
hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực.
– Áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật trong nước và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề trừ Hiến pháp.
Thứ hai: Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong pháp luật Việt Nam
– Ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung:
+ Khoản 1 – Điều 4 – Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Bộ luật này là luật
chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. Do đó, Bộ luật Dân sự là luật chung điều chỉnh
toàn bộ các quan hệ pháp luật thuộc pháp luật dân sự.
+ Điều 3 – Luật Doanh nghiệp năm 2014: Áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật
chuyên ngành, theo đó trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành
lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì
áp dụng quy định của luật đó.
– Ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau:
+ Khoản 3 – Điều 156 – Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015:
Các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan hành có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau.
Thứ ba: Một số hạn chế trong nguyên tắc áp dụng pháp luật
– Các quy định hiện hành không xác định rõ thứ tự ưu tiên khi áp dụng 02 nguyên
tắc trên dẫn đến khi phát sinh xung đột mâu thuẫn sẽ không xác định được phải áp dụng nguyên tắc này.
– Các quy định hiện hành cũng không xác định rõ luật nào là luật chung, luật nào
là luật riêng, luật chuyên ngành, không quy định rõ luật chuyên ngành ban hành trước thì
áp dụng quy định của luật nào.
– Còn diễn ra tình trạng một số bộ, ngành lạm dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng
pháp luật để ban hành nhiều quy định đặc thù có lợi cho bộ, ngành, lĩnh vực quản lý của
mình dễ tạo ra nguy cơ hệ thống pháp luật chồng chéo, không thống nhất.
– Hoạt động rà soát, thẩm định, thẩm tra văn bản trong quá trình xây dựng luật còn
bất cập dẫn đến một số trường hợp không phát hiện và sửa đổi bổ sung kịp thời các văn
bản mâu thuẫn, chồng chéo.
– Pháp luật hiện hành chưa trù liệu cơ chế giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong áp
dụng các nguyên tắc nêu trên.
Câu 17. Trình bày khái niê ^m và đă ^c điểm của ý thức pháp luâ ^t.
Khái niệm: Ý thức pháp luật là toàn bộ những tri thức, quan điểm, quan niệm, học
thuyết về pháp luật biểu hiện qua sự nhận thức, tình cảm, thái độ của con người với pháp
luật, ý Thức pháp luật bao gồm 2 bộ phận phân theo cấu trúc là tâm lý pháp luật và tư tưởng về pháp luật. Đặc điểm:
– Ý thức pháp luật sẽ lạc hậu hơn với sự tồn tại của xã hội phát triển
– Một số điểm của ý thức pháp luật cụ thể là tư tưởng về pháp luật có sự phát triển
hơn so với thời điểm ở thời gian đó trong xã hội
– Ý thức pháp luật có thể là nguyên nhân hoặc trực tiếp phản ánh sự tồn tại của
pháp luật và tiếp nối, kế thừa của các thế hệ trước đó.
– Ý thức pháp luật có tính giai cấp, đối với mỗi nước sẽ có hệ thống pháp luật
khác nhau nhưng đều có hình thái về ý thức của pháp luật.
Tóm lại ý thức pháp luật là một trong những yếu tố có thể là động lực để thúc đẩy
phát triển hoặc cũng có thể là sự kìm hãm đối với các sự vật hoặc hiện tượng nào đó
Câu 18. Trình bày các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước XHCN.
1. Nguyên tắc tập quyền
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở các
nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây (tập quyền xã hội chủ nghĩa). Tập quyền nghĩa là
quyền lực nhà nước tập trung vào một nơi, một cá nhân, một cơ quan. Nguyên tắc tập
quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện ở chỗ quyền ra quyết
định được tập trung tại cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan này có quyền
quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước mà không có sự tham gia hoặc tham gia
rất ít của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây có quan niệm cho rằng, quốc hội
những nước này phải khác nghị viện tư sản ở chỗ nó phải vừa là cơ quan lập pháp, vừa là
cơ quan hành pháp. Hiên pháp các nước này đều quy định Quốc hội (Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc, Xô Viết tối cao...) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bởi vậy
về mặt pháp lí mọi quyền lực tối cao của nhà nước đều tập trung vào quốc hội. Quốc hội
có toàn quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước, ngoài những thẩm quyền
được hiến pháp quy định, quốc hội còn có thể tự quy định cho mình những nhiệm vụ,
quyền hạn khác. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, thông qua
hiến pháp, quốc hội thành lập và trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác. Chính vì
vậy, các cơ quan nhà nước khác được coi như phái sinh từ quốc hội, nhận quyền lực từ
quốc hội. Trong mối quan hệ với chính phủ, hiến pháp xác định chính phủ là cơ quan
chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của quốc hội (Điều 104 Hiến pháp Việt Nam năm 1980).
2. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (nguyên tắc phân quyền)
Một là, quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như
quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp... và được trao cho các cơ quan nhà
nước khác nhau thực hiện một cách độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một quyền. Điều
này đảm bảo không một cơ quan nào nắm trọn Vẹn quyền lực nhà nước, cũng như không
một cơ quan nào có thể lấn sân sang hoạt động của cơ quan khác. Thực chất của sự phân
chia quyền lực là sự phân định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo sự chuyên môn hoá trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp... đều thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình trên cơ sở pháp luật.
Hai là, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp... còn có sự kiềm chế, đối
trọng, chế ước lẫn nhau theo phương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát,
giám sát từ phía cơ quan khác. Điều này nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên
quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, qua đó
bảo đảm quyền, lợi ích họp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng
như có thể tránh được những mối nguy hại khác. Bên cạnh đó, sự kiểm soát, giám sát lẫn
nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp với nhau
nhằm tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Ở các nước tư bản, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể, việc áp dụng
nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không hoàn toàn
giống nhau. Thực tế cho thấy, có thể có ba mô hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, đó là mô hình phân quyền cứng rắn, thể hiện