



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622044
TÀI LIỆU TRIẾT LÍ LUẬN + VẬN DỤNG
Câu 1: Nguồn gốc, bản chất của ý thức
Ý thức đã trở thành phạm trù được nhiều quan điểm triết học bàn luận. Với quan niệm duy tâm, ý thức là một
thực thể tinh thần độc lập với bản tính năng động, ý thức sáng tạo ra vật chất, không chỉ thừa nhận mà còn tuyệt đối
hóa tính năng động sáng tạo của ý thức, coi ý thức là sự phản ánh của vật chất và sáng tạo ra thế giới vật chất. Với
quan niệm duy vật, ý thức là sự phản ánh một cách thụ động, đơn giản, máy móc sự vật vật chất tồn tại khách quan
vào bộ óc người, chủ nghĩa này dù thấy được tính phản ánh vật chất của ý thức nhưng không thấy được tính năng
động sáng tạo của ý thức, không thấy được tính biện chứng của quá trình phản ánh của ý thức.
Đến quan niệm của duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nguồn gốc của ý thức xuất phát từ nguồn gốc
tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Với nguồn gốc tự nhiên, ý thức là một thuộc tính của dạng vật chất sống có tổ chức
cao nhất là bộ óc con người, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài. Cùng với bộ óc người, ý thức còn là sản phẩm
do quá trình phát triển lâu dài của năng lực phản ánh ở vật chất - phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển
hóa của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người. Với nguồn gốc xã hội, ý thức hình thành từ hoạt động
thực tiễn của con người qua lao động sản xuất, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của con người. Như vậy, nguồn
gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Đi sâu vào
bản chất của ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đưa ra những nội dung sau:
Một là, về bản chất phản ánh của ý thức - ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Vật chất và
ý thức là những cái đối lập không thể tách rời nhau. Cái được phản ánh (vật chất) là hiện thực khách quan, ở ngoài
và độc lập với cái phản ánh (ý thức). Cái phản ánh (ý thức) là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định. Ngoài ra, vật chất và ý thức là những cái
đối lập không thể đồng nhất nhau. Nếu coi cái phản ánh (ý thức) là hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được
phản ánh và cái phản ánh, làm mất đi sự đối lập giữa vật chất và ý thức, nghĩa là mất đi đối lập giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
Hai là, về bản chất sáng tạo của ý thức - ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của
óc người: Ý thức không phải là sự phản ánh bằng những hình ảnh mang tính vật lý hay tâm lý động vật về thế giới
mà là sự phản ánh bằng những hình tượng, tư tưởng tinh thần của con người. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý
thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, tiên đoán, dự báo,
ảo tưởng hay những giả thuyết khoa học trừu tượng cao,… Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
đầu óc con người và được cải biến đi trong đó. Ngoài ra, ý thức của con người ra đời trong quá trình con người hoạt
động cải tạo thế giới cho nên nó có tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu và điều kiện của thực tiễn xã
hội. Vì vậy, quá trình phản ánh năng động sáng tạo của ý thức với hiện thực khách quan luôn thống nhất ba mặt: trao
đổi thông tin qua lại giữa chủ thể và khách thể phản ánh có tính định hướng, chọn lọc; mô hình hóa đối tượng trong
tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần; chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61622044
Ba là, về bản chất xã hội của ý thức - ý thức mang bản chất xã hội: Ý thức có nguồn gốc xã hội từ điều kiện,
thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội. Ý thức bị quy định bởi các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã
hội và nhu cầu giao tiếp xã hội của con người. Ví dụ, tập quán văn hóa của một cộng đồng phản ánh ý thức xã hội
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giáo dục và sinh hoạt tập thể.
Bốn là, bản chất sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức thống nhất với nhau trong hoạt động
thực tiễn của con người: Phản ánh của ý thức là phản ánh sáng tạo, sáng tạo của ý thức là sáng tạo dựa trên phản
ánh. Phản ánh sáng tạo hay sáng tạo dựa trên phản ánh đều bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn đời sống xã hội.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Khi sinh viên nhận thức rõ về mục tiêu học tập, ý thức tự giác sẽ thúc đẩy họ chủ động hơn trong việc học
tập, nghiên cứu và rèn luyện. Việc phát triển ý thức tự giác giúp sinh viên không chỉ học để thi cử mà còn học vì sự
tiến bộ và phát triển bản thân, từ đó nâng cao chất lượng học tập và đạt được kết quả cao.
Phát triển ý thức về nghề nghiệp tương lai là một yếu tố quan trọng trong học tập của sinh viên .Ý thức về
nghề nghiệp giúp sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn trang bị cho mình các kỹ năng, kiến thức và thái độ phù
hợp với yêu cầu thực tế của nghề nghiệp. Khi sinh viên phát triển ý thức về nghề nghiệp, họ sẽ chủ động tìm hiểu
các lĩnh vực chuyên môn, tham gia các khóa đào tạo bổ sung, và thực hành để tích lũy kinh nghiệm. Ý thức về nghề
nghiệp còn giúp sinh viên nhìn nhận tầm quan trọng của việc học, từ đó nỗ lực hơn trong việc hoàn thiện bản thân,
đáp ứng nhu cầu xã hội và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ý thức không chỉ là sự tiếp thu kiến thức mà còn là khả năng phản biện và sáng tạo. Sinh viên cần học cách
không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn phải biết đặt câu hỏi, phân tích và đánh giá thông tin, từ đó hình thành tư duy
độc lập và sáng tạo. Phát triển ý thức phản biện giúp sinh viên không chỉ học một cách thụ động mà còn chủ động
tìm tòi, sáng tạo và giải quyết vấn đề một cách có hệ thống. Điều này sẽ giúp sinh viên có khả năng ứng dụng lý
thuyết vào thực tiễn, cải thiện chất lượng học tập và góp phần vào sự phát triển xã hội.
Triết học Mác - Lênin nhấn mạnh rằng sự phát triển của con người không thể tách rời khỏi sự phát triển của
xã hội và môi trường xung quanh. Sinh viên cần phát triển ý thức về sự phát triển bền vững trong học tập, tức là học
không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn phải nghĩ đến tác động lâu dài của sự phát triển đó đối với cộng đồng và xã hội.
Việc phát triển ý thức này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của mình trong việc đóng góp cho sự phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường và phát triển xã hội công bằng. Từ đó, sinh viên sẽ có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng
tài nguyên, nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp bền vững trong học tập cũng như trong công việc tương lai.
Một trong những ứng dụng quan trọng của triết học Mác - Lênin trong học tập là phát triển ý thức học tập
suốt đời. Theo quan điểm của Mác - Lênin, con người cần có ý thức tự giác trong việc cải thiện bản thân và phát
triển năng lực không ngừng. Sinh viên cần nhận thức rằng học tập không chỉ giới hạn trong thời gian học ở trường
mà là quá trình liên tục trong suốt cuộc đời. Phát triển ý thức học tập suốt đời giúp sinh viên luôn chủ động trong
việc tìm kiếm kiến thức mới, cải thiện kỹ năng và thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Đồng thời, khả năng tự học
giúp sinh viên trở nên độc lập, sáng tạo và tự tin trong việc giải quyết các vấn đề trong học tập và công việc. lOMoAR cPSD| 61622044
Triết học Mác - Lênin cho rằng sự thay đổi và phát triển là quy luật tự nhiên của thế giới. Trong học tập, sinh
viên cần phát triển ý thức về sự thay đổi và khả năng thích ứng với những thay đổi trong phương pháp học tập, yêu
cầu của xã hội và công nghệ. Khi có ý thức về sự thay đổi, sinh viên sẽ chủ động trong việc tiếp thu các phương
pháp học tập mới, ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập, và tích lũy các kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội. Điều này giúp sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn phát triển bản thân một cách
toàn diện và sẵn sàng đối mặt với những thử thách trong công việc và cuộc sống.
Phát triển ý thức trong triết học Mác - Lênin không chỉ là việc tiếp thu kiến thức một cách thụ động, mà là
quá trình hình thành và phát triển các giá trị tư tưởng, trách nhiệm xã hội và khả năng tự chủ trong học tập. Đối với
sinh viên, việc phát triển ý thức trong học tập giúp họ có sự tự giác, sáng tạo, trách nhiệm và khả năng ứng dụng
kiến thức vào thực tế. Đồng thời, phát triển ý thức còn giúp sinh viên hình thành những phẩm chất đạo đức, nâng
cao năng lực cá nhân và đóng góp tích cực cho xã hội.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất: Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động. Vật chất vận
động trong không gian và thời gian; Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể
và là hình thức tồn tại của vật chất.
Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của
ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên: Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật
chất. Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác nhau của vật chất.
Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người.
Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của loài người
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vật chất quyết định ý thức:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là
hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội
(lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: lOMoAR cPSD| 61622044
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của
sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội
dung của ý thức con người qua các thế hệ.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức:
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch
chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức:
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức
cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì
dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh. Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được
đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật
chất phải được đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong
đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác
động trở lại thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt
động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể quyết định
làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay
đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế
hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà
tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định của những
tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế tự cung,
quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh
được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất. lOMoAR cPSD| 61622044
Ý nghĩa phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính khách quan;
trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan,
nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả
điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan, tức phải nhận thức và giải quyết các quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân và tập thể, xã hội, đồng thời phải có động cơ trong sáng, thái độ khách quan, khoa học trong nhận thức và hành động.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN] * Vận dụng
Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của em phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản
thân em phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Trong học tập, em cần có ý thức chấp hành đúng quy định trường học, giờ học, thời
khóa biểu, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra. Trong thời gian dịch bệnh Covid-
19 diễn biến phức tạp, em nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch,
tuân thủ quy định phòng chống dịch, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng. Thứ hai, ý thức
cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Em phải chủ động
tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, phải tự phát huy tính
sáng tạo, suy nghĩ mới lạ để tránh phụ thuộc vào người khác. Trước mỗi giờ học, em phải chủ động xem trước giáo trình
của ngày hôm đó, đánh dấu những chỗ còn chưa hiểu. Thường xuyên tích cực đóng góp xây dựng bài học, phát biểu và
hỏi ngay nhưng vấn đề chưa hiểu. Sau giờ học em sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến
thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm em cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các
tổ chức xã hội. Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, em còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc
sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
Thứ ba, em phải biết vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ ích, không để bản thân thụ động, bảo thủ,không
chủ quan trước mọi tình huống. Khi tham gia thảo luận nhóm, em sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các thành
viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, em không chủ quan vào năng
lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một
người nào đó, em phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó,
không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
Câu 3: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. lOMoAR cPSD| 61622044
Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, quy định lẫn nhau, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Có rất nhiều loại,
nhiều mối liên hệ, trong đó có mối liên hệ chung, nhất là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Mối liên hệ
này được gọi là mối liên hệ phổ biến.
Tính chất của mối liên hệ. Tính khách quan.
Mối liên hệ là cái vốn có của sự vật, hiện tượng đó có tính khách quan. Không phụ thuộc vào ý thức, Ý muốn
của con người chứ không phải là sự áp đặt nào đó từ bên ngoài.
vd: mối liên hệ giữa trái đất và mặt trời, mối liên hệ giữa con người và môi trường,... Tính Phổ biến
Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú, song chúng
đều có những dạng những biểu hiện khác nhau cùng một thế giới vật chất, chúng luôn chuyển hóa lẫn nhau từ dạng
này sang dạng khác. Chúng đều là nguyên nhân và kết quả của nhau. Vì vậy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
tồn tại trong mọi lúc, mọi nơi, cả trong tự nhiên trong xã hội và trong 4 duy. Tính đa dạng, phong phú.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng có nhiều loại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, liên hệ bên trong,
liên hệ bên ngoài liên hệ chủ yếu liên hệ thứ yếu liên hệ, tất nhiên liên hệ ngẫu nhiên, liên hệ bản chất liên hệ không
bản chất. Liên hệ với không gian liên hệ về thời gian....
Ý nghĩa phương pháp luận sau:
Thứ nhất, muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên
hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó
Thứ hai, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ
đó nắm được bản chất của sự vật.
Thứ ba, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật cần phải xem xét, đối chiếu với các mối liên hệ của những
sự vật, hiện tượng khác để tránh sai lầm trong nhận thức
Thứ tư, cần phải tránh lối xem xét một chiều, phiến diện, chống chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Đầu tiên, muốn thực sự hiểu được sự vật, em cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Không chỉ học thuộc lòng định nghĩa, công thức, mà cần hiểu bản chất, ý nghĩa của
chúng, mối liên hệ giữa các khái niệm, kiến thức. Ví dụ, khi học về tiếng Pháp, cần tìm hiểu về các khía cạnh cơ bản
như phát âm, từ vựng và ngữ pháp. Việc này giúp nâng cao kỹ năng đọc hiểu và viết, giúp em giao tiếp hiệu quả và hiểu
sâu sắc ngôn ngữ này. Khi nghiên cứu một vấn đề, cần tìm hiểu từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau (sách, báo, tạp chí,
internet...), so sánh các quan điểm khác nhau để có cái nhìn toàn diện. Ví dụ, khi nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Pháp,
cần tìm hiểu về nhiều cách diễn đạt, câu từ…từ nhiều nguồn tài liệu uy tín, qua đó giúp em học được nhiều từ vựng và
cách viết, giao tiếp hay hơn. Hơn hết, em phải biết liên kết kiến thức các môn học với nhau không tồn tại độc lập mà có
mối liên hệ với nhau. Việc nhận ra mối liên hệ này giúp hiểu sâu hơn kiến thức và áp dụng vào thực tiễn. Ví dụ, kiến
thức về tiếng Pháp có nhiều điểm giống với những ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Đức… lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ hai, thay vì học thuộc lòng tất cả các chi tiết, sinh viên nên xác định những kiến thức trọng tâm, cốt lõi của bài
học, môn học. Ví dụ, trong môn tiếng Pháp, cần nắm vững các cấu trúc ngữ pháp cơ bản, cách sử dụng các điểm ngữ
pháp ấy thay vì chỉ học thuộc các ví dụ minh họa. Nắm vững nền tảng này sẽ giúp bạn dễ dàng tiếp thu các quy tắc
phức tạp hơn sau này. Phân tích mối quan hệ giữa chủ ngữ, động từ, tân ngữ, trạng ngữ... để hiểu cách chúng phối hợp
và tạo thành ý nghĩa của câu. Ví dụ, hiểu cách sử dụng các đại từ quan hệ (qui, que, dont, où) để nối các mệnh đề và
tạo thành câu phức. Trong tiếng Pháp có rất nhiều quy tắc ngữ pháp, nhưng không phải quy tắc nào cũng được sử dụng
thường xuyên. Hãy tập trung vào những quy tắc được sử dụng phổ biến trong giao tiếp và văn viết.
Thứ ba, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật cần phải xem xét, đối chiếu với các mối liên hệ của những sự vật,
hiện tượng khác để tránh sai lầm trong nhận thức. Sau khi nắm vững bản chất của một thì em cần so sánh nó với các
thì khác; so sánh các từ đồng nghĩa để hiểu rõ sắc thái ý nghĩa khác nhau của chúng. Tiếng Pháp có nhiều âm tương tự
nhau, dễ gây nhầm lẫn cho người học. Cần luyện tập so sánh các âm này để phân biệt chúng.
Thứ tư, cần phải tránh lối xem xét một chiều, phiến diện, chống chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Trong tiếng
Pháp, không nên áp dụng một quy tắc ngữ pháp một cách máy móc cho tất cả các trường hợp. Cần xem xét ngữ cảnh cụ
thể để áp dụng quy tắc một cách chính xác. Trong tiếng Pháp, có nhiều trường hợp ngoại lệ so với các quy tắc ngữ pháp,
từ vựng, phát âm chung. Cần nhận biết và ghi nhớ các trường hợp này để tránh sai sót. b) Nguyên lý về sự phát triển.
Quá trình vận động từ thấp đến cao từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn từ chất cũ đến chất mới ở trình độ
cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển chỉ sự vận động
nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển
Cần phân biệt phát triển với tiến hóa và tiến bộ. tiến hóa là một dạng phát triển diễn ra theo cách từ từ và
thường là sự biến đổi của hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Tiến bộ là một quá trình biến
đổi, hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu.
Tính chất của sự phát triển.
Tính khách quan: Sự phát triển của nguồn gốc nằm trong chính bản thân sự vật hiện tượng chứ không phải do sự
tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở khắp nơi, cả trong tự nhiên xã hội và 4 duy.
Tính kế thừa: Trong quá trình phát triển sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ nhưng chúng
không xóa bỏ hoàn toàn, phủ định sạch trơn sự vật, hiện tượng cũ, sự vật, hiện tượng mới chỉ gạt bỏ những mặt tiêu
cực, lỗi thời lạc hậu của sự vật hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển. Đồng thời tiếp thu, giữ lại có chọn
lọc Và cải tạo, những yếu tố còn tác dụng còn thích hợp với sự phát triển.
Tính đa dạng, phong phú: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực cả trong tự nhiên trong xã hội và trong 4
duy mặt khác, mỗi Phẩy. sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, tính đa dạng phong phú của
sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian, thời gian vào các yếu tố điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
Ý nghĩa phương pháp luận sau:
Thứ nhất, cần xem xét đối tượng trong sự vận động, phát triển của nó, phải phát hiện xu hướng biến đổi của
nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm,
tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó. lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển, chống
lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, phải biết kế thừa những yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Đầu tiên, em cần xem xét đối tượng trong sự vận động, phát triển của nó, phải phát hiện xu hướng biến đổi của nó để
không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển trong tương lai. Tiếng Pháp
cũng như mọi ngôn ngữ khác, luôn có sự xuất hiện của từ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn
hóa. Cần theo dõi sự xuất hiện của các từ mới này để cập nhật vốn từ vựng. Nghĩa của từ có thể thay đổi theo thời
gian. Cần tìm hiểu về sự biến đổi nghĩa này để tránh hiểu sai nghĩa của từ trong các ngữ cảnh khác nhau.
Thứ hai, em cần nhận thức được rằng phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính
chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển đó. Quá trình học tiếng Pháp có thể được chia thành nhiều giai đoạn: A1, A2, B1… Ứng với mỗi giai đoạn, người
học cần có phương pháp và hình thức tác động phù hợp để giúp người học tiếng Pháp có lộ trình học tập rõ ràng, phù
hợp với từng giai đoạn, từ đó đạt hiệu quả cao nhất. Họ sẽ không bị quá tải với kiến thức quá khó ở giai đoạn đầu và
cũng không bị nhàm chán với những bài tập quá dễ ở giai đoạn sau.
Thứ ba, em phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển, chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Trong việc học tiếng Pháp, điều này có nghĩa là chúng ta cần cởi mở với những thay
đổi, những xu hướng mới trong ngôn ngữ như đơn giản hóa ngữ pháp, từ vựng mới… , sẵn sàng tiếp nhận và áp dụng
chúng để học tập hiệu quả hơn, thay vì khư khư giữ những quan điểm cũ, lạc hậu.
Thứ tư, phải biết kế thừa những yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Trong việc học ngôn ngữ, người học nên kế thừa kiến thức này và áp dụng nó vào việc phân tích và xây dựng các câu
phức, câu ghép. Nắm vững các mẫu câu giao tiếp thông dụng giúp chúng ta giao tiếp một cách tự tin và hiệu quả trong
các tình huống hàng ngày.
Câu 4: Quy luật lượng - chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật , hiện tượng. Là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành SV, HT nói lên SV, HT đó là gì, phân biệt nó với các
SV, HT khác. VD: Nguyên tố Al có nguyên tử khối là 27đvC, nhiệt độ nóng chảy là 660,32 độ C; nhiệt độ sôi là
2519 độ C. Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất riêng của nhôm , phân biệt nhôm với các kim loại khác.
Nó thể hiện tính ổn định tương đối của SV, HT. Mỗi SV, HT trong mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có chất riêng.
Mỗi SV, HT không chỉ có 1 chất mà có thể nhiều chất. Chất được biểu hiện qua những thuộc tính: thuộc tính cơ bản
→ là cái tạo thành chất, thuộc tính không cơ bản. → Cả 2 thuộc tính đều mang tính tương đối.
Không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính,
các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều lOMoAR cPSD| 61622044
hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…Ví dụ: Từ thí nghiệm trên ta thu được
2,24 lít CO2 . (2,24 lít là lượng)
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính biến đổi. VD: lượng kiến thức của mỗi chúng ta ngày càng tăng chứ không
dừng lại. Lượng có tính khách quan vì là một dạng biểu hiện của vật chất → chiếm vị trí không gian và tồn tại trong
thời gian nhất định. Có nhiều loại lượng khác nhau. Có loại có thể đếm được→ gọi là định lượng. Có loại thì phải
nhận biết bằng năng lực trừu tượng hóa.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong đó sự thay
đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về
chất của sự vật dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng do những
thay đổi về lượng trước đó gây ra là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng bước giải kết thúc một giai đoạn
biến đổi về lượng là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật hiện tượng.
Các hình thức của bước nhảy: Bước nhảy đột biến, Bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ, Bước nhảy cục bộ.
Quy luật: Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần
về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp
tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ
cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thực hiện bước nhảy để chuyển hóa về
chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải biết nỗ lực tích lũy dần dần về lượng để làm biến đổi về
chất, tránh thái độ chủ quan, nóng vội.
Hai là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng trong lĩnh vực xã hội, mặc dù có tính khách quan nhưng các
quy luật xã hội tác động thông qua các hoạt động có ý thức của con người, do đó khi đã tích lũy đầy đủ về lượng
phải quyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất. Do vậy, cần
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.
Ba là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, em phải biết nỗ lực tích lũy dần dần về lượng để làm biến đổi về
chất, tránh thái độ chủ quan, nóng vội. Việc học tiếng Pháp là một quá trình tích lũy lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì và nỗ
lực không ngừng. Không có "phương pháp thần kỳ" nào có thể giúp người học thành thạo tiếng Pháp chỉ trong một lOMoAR cPSD| 61622044
thời gian ngắn. Thay vào đó, em cần tập trung vào việc tích lũy kiến thức (từ vựng, ngữ pháp) và kỹ năng (nghe, nói,
đọc, viết) một cách đều đặn, từng bước một. Em đặt mục tiêu quá cao so với khả năng của mình mà sẽ chia nhỏ mục
tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ đạt được hơn. Thay vì cố gắng học thuộc lòng một lượng lớn từ vựng trong
một thời gian ngắn, em chia nhỏ mục tiêu và học một số lượng từ vựng vừa phải mỗi ngày.
Thứ hai, em cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi phát triển chỉ là thay đổi
đơn thuần về lượng. Không nên khư khư giữ một phương pháp học tập duy nhất mà không chịu tìm tòi, áp dụng các
phương pháp mới, hiệu quả hơn. Lo sợ mắc lỗi khi nói tiếng Pháp, dẫn đến ngại giao tiếp và không có cơ hội thực
hành cũng là trở ngại chung của những bạn học ngôn ngữ mới. Do đó, người học cần sẵn sàng tiếp nhận những kiến
thức mới, kỹ năng mới, phương pháp học tập mới. Không ngại thử nghiệm và áp dụng những cái mới vào quá trình học tập.
Thứ ba, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên
cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó. Em cần hiểu rõ bản chất và quy luật của các yếu tố cấu
thành ngôn ngữ (âm vị, từ vựng, ngữ pháp, ngữ cảnh) và cách chúng liên kết với nhau để tạo thành một hệ thống hoàn
chỉnh. Từ đó, chúng ta có thể tác động một cách có ý thức vào các mối liên kết này để học tập hiệu quả hơn.
Câu 5: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất
của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguồn gốc, nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách
quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên
thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh
vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau
đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh;
vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. VD: Nhân vật phản diện và chính diện tồn
tại thống nhất và đấu tranh lẫn nhau trong tác phẩm nghệ thuật, mối quan hệ qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng trong
hoạt động kinh tế xã hội,…
Tính khách quan: Mâu thuẫn là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phải đem từ bên ngoài vào.
Tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người
Tính phổ biến: Mâu thuẫn diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng. Mâu thuẫn này mất đi sẽ có mâu thuẫn khác thay thế.Tính phong phú, đa dạng: Sự vật, hiện tượng
khác nhau sẽ có mâu thuẫn khác nhau.Trong một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều mâu thuẫn khác nhau và có
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật đó.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhautạo nên trạng thái ổn
định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở việc: lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại.
Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình
thành với cái cũ chưa mất hẳn.
Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ
tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng. Sự đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh
phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập phát triển làm mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc và khi đến một mức
độ nhất định, trong điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết, sự vật, hiện tượng chuyển hóa.
Sự vật, hiện tượng mới ra đời tự nó lại có mặt đối lập mới, có mâu thuẫn mới, có quá trình thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập.
Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành những mâu
thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận
động và phát triển,làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển nên cần phải thừa nhận tính khách quan của
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn
phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát
triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa
giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,không điều hòa mâu
thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Thứ nhất, Muốn phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Trong
việc học tiếng Pháp, em cần nhận thức được những cặp phạm trù đối lập tồn tại trong ngôn ngữ (Ngữ âm - Ngữ
nghĩa…), cách chúng vừa đối lập vừa thống nhất, tác động lẫn nhau như thế nào để từ đó hiểu rõ hơn về bản chất của
tiếng Pháp và học tập hiệu quả hơn.
Thứ hai, em phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan
hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Đồng thời em phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn và
đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành; Mâu thuẫn giữa
phương pháp học tập và khả năng tiếp thu… Thay vì né tránh khó khăn, hãy coi mâu thuẫn là động lực để phát triển và hoàn thiện bản thân.
Thứ ba, em phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,không điều hòa mâu
thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay
chưa. Một người học tiếng Pháp có thể học thuộc lòng rất nhiều từ vựng, quy tắc ngữ pháp, nhưng lại gặp khó khăn lOMoAR cPSD| 61622044
khi sử dụng chúng trong giao tiếp. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết khi người học có đủ điều kiện và thời
gian để thực hành sử dụng từ vựng, luyện tập giao tiếp, áp dụng kiến thức ngữ pháp vào trong các tình huống giao tiếp thực tế.
Câu 6: Quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh
hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ) của sự phát triển
của chúng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển; nghĩa là sự vật, hiện tượng
mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ
định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng;
là “mắt xích” trong “sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Tính chất của phủ định
Tính khách quan: nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu tranh,
giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên
xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa: loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ còn phù hợp
để đưa vào sự vật, hiện tượng mới.
Tính phổ biến: diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tính đa dạng, phong phú: thể hiện ở nội dung, hình thức của nó.
Sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ theo đường xoáy ốc mà
thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai đoạn sau vẫn bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở
giai đoạn trước. Với đặc điểm này, phủ định biện chứng không chỉ khắc phục hạn chế của sự vật, hiện tượng cũ; mà
còn gắn chúng với sự vật, hiện tượng mới; gắn sự vật, hiện tượng được khẳng định với sự vật, hiện tượng bị phủ
định. Vì vậy, phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.
Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng mới ra đời vẫn giữ lại có chọn lọc và
cải tạo yếu tố còn thích hợp để chuyển sang chúng; loại bỏ các yếu tố không còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ
đang gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Đặc điểm của kế thừa biện chứng là duy trì các yếu
tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng vượt bỏ, các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi để
phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai trò của yếu tố phù
hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định làm cho sự vật, hiện tượng
mới có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến bộ hơn. lOMoAR cPSD| 61622044
Đường xoáy ốc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội dung mang tính kế thừa có trong sự vật,
hiện tượng mới nên không thể đi theo đường thẳng, mà diễn ra theo đường tròn không nằm trên một mặt phẳng tựa
như đường xoáy trôn ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng
ở tính kế thừa qua khâu trung gian, tính lặp lại, nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. Trong đó, sự
phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của
phủ định. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện trình độ phát triển cao hơn và sự nối tiếp nhau các vòng của
đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao
Nội dung quy luật Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết
định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt
khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đốilập với mình (cái phủ định, phủ định
cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập
với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo
ra chu kỳ phủ định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập
với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân
tố mới cao hơn, tích cực
Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm
quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện
sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và
trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung
toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất. Kết quả của sự
phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển
tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới
hơn. Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song phát
triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc"
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của
sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao
hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối
tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa của phương pháp luận
Qúa trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có liềm tin vào xu hướng của sự phát triển. lOMoAR cPSD| 61622044
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của các nhân tố chủ
quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính năng động sáng tạo, phát hiện những
cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu tố tích cực. Kế thừa
phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Loại bỏ những hủ tục lạc hậu,
những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ. [VẬN DỤNG ĐẢNG]
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập
trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng
bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế tập trung là
tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mới có kết
quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng
tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Thứ nhất, Tuân theo quan điểm phủ định biện chứng, chống lại quan điểm phủ định siêu hình. Trong quá trình học
tiếng Pháp, chúng ta thường gặp phải những giai đoạn khó khăn, cảm thấy kiến thức cũ không còn đủ để tiếp thu kiến
thức mới. Không nên cho rằng kiến thức đã học là vô ích khi học kiến thức mới. Kiến thức cũ là nền tảng cho việc tiếp
thu kiến thức mới. Việc học thuộc lòng một cách máy móc mà không hiểu bản chất sẽ khiến kiến thức nhanh chóng bị
quên và khó áp dụng vào thực tế. Em cần hiểu rằng sai lầm là một phần tất yếu của quá trình học tập. Quan trọng là
biết nhận ra sai lầm và sửa chữa. Ngôn ngữ luôn phát triển và thay đổi. Em cần liên tục học hỏi và cập nhật kiến thức
mới để không bị tụt hậu.
Thứ hai, Kế thừa có chọn lọc, phê phán, bổ sung, … Trong quát trình học, việc kế thừa cần có chọn lọc, không phải
cái gì của tiếng Pháp cũng nên tiếp thu một cách máy móc. Ví dụ: Không nên quá tập trung vào việc học tiếng lóng và
tiếng địa phương, đặc biệt là ở giai đoạn đầu học tiếng Pháp, vì chúng có thể gây khó khăn trong giao tiếp chính thức.
chúng ta cần phê phán những yếu tố không phù hợp, ví dụ: Phương pháp học tập không hiệu quả; tài liệu học tập
không chất lượng… Đồng thời cần bổ sung những kiến thức và kỹ năng còn thiếu như Kỹ năng giao tiếp, Kiến thức về văn hóa…
Thứ ba, Cần nắm điều kiện khách quan thuận lợi, phát huy nhân tố chủ quan tích cực để tạo ra cái mới phù hợp với
yêu cầu tiến bộ xã hội. Điều kiện khách quan thuận lợi tác động đến việc học ngôn ngữ: Môi trường học tập (Giáo
viên, Cơ sở vật chất, Bạn học); Tài liệu học tập; cơ sở vật chất; Cơ hội giao tiếp... Người học ngôn ngữ cần tìm kiếm
và sử dụng các tài liệu học tập, phần mềm, ứng dụng học tiếng Pháp phù hợp; tham gia các câu lạc bộ tiếng Pháp, các lOMoAR cPSD| 61622044
hoạt động giao lưu văn hóa; Xây dựng kế hoạch học tập cụ thể; Tìm bạn học cùng để trao đổi kinh nghiệm, tạo động lực cho nhau…
Thứ tư, Hiểu và vận dụng một cách phù hợp logic của tiến trình phủ định biện chứng trong đời sống xã hội: phủ định
tư tưởng và phủ định thực tiễn. Chúng ta nên Thường xuyên tự đánh giá quá trình học tập, nhận diện những điểm
mạnh và điểm yếu. Xin ý kiến phản hồi từ giáo viên, bạn bè hoặc người bản xứ để có cái nhìn khách quan hơn. Lập kế
hoạch học tập cụ thể, bao gồm mục tiêu, phương pháp và thời gian biểu. Kiên trì thực hiện kế hoạch học tập, không
nản lòng trước khó khăn. Sẵn sàng điều chỉnh phương pháp học tập nếu cần thiết.
Câu 7: Bản chất của nhận thức: Lý luận và ý nghĩa
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết
ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, không phải nhận thức một
lần là xong, mà có phát triển, có bổ sung và hoàn thiện.
Trong quá trình nhận thức của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và
nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng hay các thí nghiệm
thực nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm thông thường hoặc
tri thức thực nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của
con người nhưng có hạn chế vì nó mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, bề ngoài của sự vật, và còn
rời rạc, chưa chỉ ra được tính tất yếu, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận là
nhận thức sự vật, hiện tượng một cách gián tiếp dựa trên các hình thức tư duy trừu tượng như khái niệm,
phán đoán, suy luận để khái quát tính bản chất, quy luật, tính tất yếu của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp trong hoạt động hằng ngày của con người.
Nhận thức khoa học là nhận thức được hình thành chủ động, tự giác của chủ thể nhằm phản ánh những mối liên
hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức trên cơ sở hoạt động
thực tiễn của con người.
Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất khách quan bởi con người.
Vì thế, chủ thể nhận thức chính là con người. Các yếu tố đó gián tiếp hay trực tiếp đều tham gia vào quá trình
nhận thức của chủ thể. Con người là chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử.
Chủ thể nhận thức không chỉ là những cá nhân con người (với tư cách là thành viên của xã hội) mà còn là
những tập đoàn người cụ thể, một dân tộc cụ thể, là loài người nói chung. Khách thể nhận thức không đồng
nhất với toàn bộ hiện thực khách quan mà chỉ là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực khách quan, nằm
trong miền hoạt động nhận thức và trở thành đối tượng nhận thức của chủ thể nhận thức. Vì thế, khách thể
nhận thức không chỉ là thế giới vật chất mà có thể còn là tư duy, tâm lý, tư tưởng, tinh thần, tình cảm, v.v..
Hoạt động thực tiễn của con người chính là cơ sở của mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận
thức. Chính vì vậy, hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, có thể thấy, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng
tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.
Câu 8: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn với nhận thức
Thực tiễn, có nghĩa đen là hoạt động tích cực. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ
những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Từ quan niệm trên về thực tiễn có thể thấy thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất - cảm
tính, như lời của C.Mác, đó là những hoạt động vật chất của con người cảm giác được. Nghĩa là con người có thể
quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người lOMoAR cPSD| 61622044
phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng. Trên
cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan phục vụ cho mình.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người. Nghĩa là, thực tiễn
là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn
con người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hoạt động thực tiễn
luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có trải qua các giai đoạn lịch sử
phát triển cụ thể của nó.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người. Khác với
hoạt động có tính bản năng, tự phát của động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới, con người bằng và thông
qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ
động, tích cực với thế giới. Như vậy, nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác
với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của động vật.
Nếu cắt theo chiều dọc, thực tiễn bao giờ cũng bao gồm mục đích, phương tiện và kết quả. Mục đích được nảy
sinh từ nhu cầu và lợi ích, nhu cầu xét đến cùng được nảy sinh từ điều kiện khách quan. Lợi ích chính là cái thoả
mãn nhu cầu. Để đạt mục đích, con người trong hoạt động thực tiễn của mình phải lựa chọn phương tiện (công cụ)
để thực hiện. Kết quả của hoạt động thực tiễn phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng trước kết là phụ thuộc vào mục
đích đặt ra và phương tiện mà con người sử dụng để thực hiện mục đích.
Dù xem xét theo chiều dọc hay chiều ngang thì thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích, tính tự giác cao
của con người - chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội, phục vụ con người, khác với những hoạt động
mang tính bản năng thụ động của động vật, nhằm thích nghi với hoàn cảnh. Rõ ràng, hoạt động thực tiễn là hoạt
động cơ bản, phổ biến của con người và xã hội loài người, là phương thức cơ bản của mối quan hệ giữa con người
với thế giới. Nghĩa là con người quan hệ với thế giới bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Không có hoạt động
thực tiễn thì bản thân con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng gồm những hình thức cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất
Hoạt động chính trị - xã hội
Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất. Bởi lẽ,
ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người, con người đã phải tiến hành sản xuất vật chất
dù là giản đơn để tồn tại. Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Không có sản xuất vật chất, con người và xã hội loài người không thể
tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất
cả các hoạt động sống khác của con người.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến lOMoAR cPSD| 61622044
đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội...tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho con
người phát triển. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các hoạt động như đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải phóng
dân tộc; đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội, nhằm tạo ra
môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người phát triển. Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này,
con người và xã hội loài người cũng không thể phát triển bình thường.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Bởi lẽ, trong hoạt
động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên cũng như xã
hội để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu
khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị - xã
hội phục vụ con người. Ngày nay, khi mà cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, ‘‘khi mà tri thức xã
hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp” thì hình thức hoạt động thực tiễn
này ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, sản xuất
vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình thức thực tiễn kia. Tuy nhiên, hai hình thức thực tiễn kia là hoạt
động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
Như vậy, thực tiễn là cầu nối con người với tự nhiên, xã hội, nhưng đồng thời thực tiễn cũng tách con người
khỏi thế giới tự nhiên, để “làm chủ” tự nhiên. Nói khác đi, thực tiễn ‘‘tách” con người khỏi tự nhiên là để khẳng định
con người với tư cách là chủ thể trong quan hệ với tự nhiên, nhưngmuốn “tách” con người khỏi tự nhiên thì trước
hết phải “nối” con người với tự nhiên đã. Cầu nối này chính là hoạt động thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng phải bộc lộ
những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận
thức của con người. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức
của con người xét đến cùng đều được nảy sinh từ thực tiễn.
Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy cho
sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp quá trình nhận thức của con người hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong
quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển vi, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy vi tính, v.v.. đã mở rộng khả năng
của các khí quan nhận thức của con người. Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở để nhận thức của con người
nảy sinh, tồn tại, phát triển. Không những vậy, thực tiễn còn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người đã bị quy định
bởi những nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất và cải tạo tự nhiên và xã hội. lOMoAR cPSD| 61622044
Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh. Nhận
thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ không phải để trang trí, hay
phục vụ cho những ý tưởng viển vông. Nếu không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức
khoa học - kết quả của nhân thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay
gián tiếp để phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng
hiện thực khách quan. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức, cũng không thể lấy sự hiển nhiên, hay sự tán thành
của số đông hoặc sự có lợi, có ích để kiểm tra sự đúng, sai của tri thức. Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng, qua đó
mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó.
Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác nhau, có thể
bằng thực nghiệm khoa học, có thể áp dụng lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã hội...Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách tiêu
chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra, khảng định chân lý, bác bỏ
sai lầm. Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng minh được chân lý, bác bỏ được sai lầm. Tính tương
đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát triển,
do đó "không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù
biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa". Vì vậy, nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng
dài, trong chỉnh thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Triết học Mác- Lênin yêu cầu quan điểm về đời sống,
về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức và khẳng định “con người chứng minh
bằng thực tiễn của mình sự đóng dấu khách quan của những ý niệm, khái niệm tri thức của mình, của khoa học, của mình”.
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta rút ra nguyên tắc thực tiễn trong nhận thức và hoạt động.
Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật luôn phải gắn với nhu cầu thực tiễn. Coi trọng tổng kết thực tiễn, để bổ sung,
hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Do vậy, nguyên tắc này có ý
nghĩa to lớn trong việc chống bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Nếu không quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn thì
dễ mắc phải bệnh bệnh giáo điều. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận coi
nhẹ thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả
cả hai loại giáo điều này, chúng ta phải từng bước quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn; tăng cường tổng kết thực tiễn…
Ý nghĩa phương pháp luận:
Vai trò thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi nhận thức cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu của thực tiễn để thực tiễn thực hiện đầy đủ vai trò của nó. lOMoAR cPSD| 61622044
Hai là, phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của kết quả nhận thức.
Ba là, phải tăng cường tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận góp phần bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lí luận.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Thứ nhất, Bám sát nhu cầu thực tiễn. Việc học tiếng Pháp cần xuất phát từ mục đích và nhu cầu cụ thể của bạn.
Người học nên tự hỏi: "Tôi học tiếng Pháp để làm gì?". Câu trả lời sẽ định hướng quá trình học tập của bản thân.
Nếu bạn học tiếng Pháp chuyên ngành du lịch, hãy tập trung vào các cụm từ giao tiếp cơ bản, cách hỏi đường, đặt
món ăn, đặt phòng khách sạn, hiểu các biển báo và thông tin du lịch.
Thứ hai, Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc tổng kết thực tiễn là quá trình đánh giá lại quá trình học
tập, rút ra bài học kinh nghiệm. Điều này giúp bạn nhận biết điểm mạnh, điểm yếu và điều chỉnh phương
pháp học tập cho phù hợp. Thường xuyên tự kiểm tra kiến thức, làm bài tập, tự đánh giá khả năng nghe, nói,
đọc, viết. Hỏi ý kiến của giáo viên, bạn bè hoặc người bản xứ về khả năng tiếng Pháp của bạn.
Dựa trên kết quả tự đánh giá và phản hồi, hãy điều chỉnh phương pháp học tập cho phù hợp.
Thứ ba, Chống lại bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Không áp dụng máy móc một phương pháp học tập
duy nhất mà không xem xét đến đặc điểm cá nhân. Mỗi người có một cách học riêng, hãy tìm ra phương
pháp phù hợp nhất với bản thân. Không tự đánh giá quá cao khả năng của bản thân. Hãy luôn kiểm tra và
đánh giá một cách khách quan để biết được mình đang ở đâu và cần cải thiện điều gì. Đừng cố gắng đạt được
những mục tiêu quá xa vời trong một thời gian ngắn. Việc học ngôn ngữ là một quá trình dài hơi, đòi hỏi sự
kiên trì và bền bỉ. Hãy đặt ra những mục tiêu thực tế và chia nhỏ chúng thành những bước nhỏ để dễ dàng đạt được.
Câu 9 : Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:
Lực lượng sản xuất: là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Trong đó:
Người lao động: là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá
trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất của xã hội.
Tư liệu sản xuất: là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động
Đối tượng lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm
biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người
Tư liệu lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động
nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người
Phương tiện lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để
tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất
Công cụ lao động: là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động
nhằm biến đổi chúng, tạo ra của của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với
nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Trong đó: lOMoAR cPSD| 61622044
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư
liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế - xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy
định quan hệ quản lý và phân phối.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, luôn có vai
trò quyết định các quan hệ khác. Bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản
xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.
Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ chức sản xuất và phân
công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả
năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất
hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩm
lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có
vai trò đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là "chất xúc tác" kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu
sản xuất, làm năng động hoá toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Hoặc ngược lại, nó có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Các mối quan hệ trên có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó quan
hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất
hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội. Nội dung quy luật:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất có tác động biện chứng
Trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất → Đây là quy luật cơ bản nhất của
sự vận động và phát triển xã hội
Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX:
Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển.
Quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối, khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất sẽ tạo điều kiện phát triển cho lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, vì lực lượng sản xuất không ngừng vận động, phát triển theo nhu cầu của con người, do công cụ
lao động ngày càng phát triển và do tính kế thừa khách quan của lực lượng sản xuất trong suốt tiến trình lịch sử mà
từ đó, quan hệ sản xuất cũ dần trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.