lOMoARcPSD| 47028186
BÀI LÀM
Trong tiến trình lịch sử, Việt Nam đã trải qua các cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc không ngừng, thu được những thắng lợi cụ thể trong từng thời kì. Trong
đó, phải kể đến hơn 10 thế kỉ đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa đã để
lại hậu quả căn bản cho quá trình hình thành, quá trình phát triển của Nhà nước và
pháp luật Việt Nam thời quân chủ cũng như trong suốt tiến trình lịch sử cho đến
ngày nay. Pháp luật của nước ta thời kì này có nhiều nét riêng biệt về tổ chức cũng
như việc thực hiện. Pháp luật ở Việt Nam thời kì Bắc thuộc (179 TCN - 938) cũng
có những đặc điểm riêng biệt và nổi bật.
Năm 179 trước ng Nguyên, Triệu Đà vua nước Nam Việt (một chính
quyền căn cứ nam Trung Quốc) đánh bại triều An Dương Vương, thống trị Âu
Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp nhau thống trị nước ta. Thời
kỳ này thường được gọi là thời Bắc thuộc. Đến năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán m lược, xác lập nền độc lập dân tộc một cách vững chắc, chấm dứt 1117
năm đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trong hơn 10 thế kỷ đó, không
chỉ Bắc thuộc mà còn cả chống Bắc thuộc; sự tồn tại thường xuyên của
chính quyền đô hộ xen vào đó trong một số thời gian ngắn, những chính quyền
tự chủ - thành quả của các phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân ta. Đặc
điểm chính cả nhà nước Việt Nam thời kỳ này là có hai hệ thống chính quyền hoặc
đan xen tồn tại hoặc song song tồn tại trong các thời gian lịch sử khác nhau:
1. Tính đan xen
Sự đan xen của 2 hệ thống pháp luật được thể hiện rất rõ qua các giai đoạn
nhất định.
Giai đoạn đầu Năm 179 TCN Triệu Đà xâm lược, Âu Lạc bước vào thời kì
Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm. Khi nhà Tây Hán xâm chiếm, dân tộc Lạc Việt
sống trên lãnh thổ Nam Việt cũng bị đô hộ trong 150 năm từ 111 TCN đến cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40. Ở giai đoạn này Nhà Hán thực hiện chính
sách đồng hóa triệt để đối với nhân dân ta vì thế pháp luật thời kì này là pháp luật
của người hán.
Giai đoạn hai: Cuộc đấu tranh giành độc lập của Hai Bà Trưng mùa xuân
năm 40 thắng lợi, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc cũ. Thời gian độc lập ngắn ngủi
nên sử dụng chủ yếu những luật lệ cổ truyền của người Việt để quản lý đất nước,
xóa bỏ các thứ thuế nặng nề do chính quyền đô hộ đặt ra. Vì vậy giai đoạn này
pháp luật của người Việt được áp dụng.
Giai đoạn ba: Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà
Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ: vươn xuống cai quản cấp
lOMoARcPSD| 47028186
huyện, tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện
pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Nhà Đồng Hán bất nhân
dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cổ gắng xóa bỏ tận gốc
truyền thống "dùng tục cũ mà cai trị của người Việt. Nên ở thời kì này nhân ta lại
chịu sự áp đặt pháp luật của người Hán,
Giai đoạn thứ tư: Khúc Thừa Dụ xác lập nên tự chủ, thực hiện những cải
cách về cơ cấu hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đến năm 907 Khúc Hạo lên
thay, nỗ lực xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung trong đến xã.
Đồng thời ông còn thực hiện đường lối chính trị thân dân, sửa lại chế độ thuế khoa
và lao dịch nặng nề của thời Đường giúp chính quyền tự chủ được cũng có một
bước. Giai đoạn này pháp luật người Việt lại được xác lập.
Đến năm 930 Nam Hán xâm lược nhưng chưa thiết lập được một chính
quyền đô hộ bao trùm lên cả nước là Năm 931 Dương Đình Nghề đánh chiếm được
thành Đại La lập lại nên tự chủ. Đến năm 937 Dương Đình Nghệ bị Kiều Công
Tiên giết chết đoạt chức tiết độ sứ. Năm 938 thì Ngô Quyền diệt Kiều Công Tiền
và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hơn 1000 năm Bắc
thuộc của nhân dân ta.
Như vậy, trong thời kỳ Bắc thuộc này có sự ngắt quãng thống trị nên pháp luật thời
kỳ này thể hiện tính đan xen của hai hệ thống pháp luật.
2. Tính song song
Tính song song thể hiện rất rõ thông qua nhà nước Chăm Pa và nhà nước
Phù Nam. Cụ thể là nhà nước Chăm Pa gồm hai tiểu quốc là tiểu quốc Nam Chăm
và tiểu quốc Bắc Chăm, năm 111 TCN nhà Hán thay thế nhà Triệu thống trị Âu
Lạc và lập thêm quân Nhật Nam. Chính sự xác lập bởi hai hệ thống chính quyền ở
hai tiểu quốc của nhà nước Chăm Panên pháp luật có sự thể hiện song song của
pháp luật Hán và pháp luật của người Việt. Đồng thời tỉnh song song được thể hiện
ở cả nhà nước Phù Nam.
Bên cạnh đó thì tính song song còn được thể hiện ở một số đặc điểm về hiệu
lực và phạm vi tác động của pháp luật. Thực tế chính quyền đô hộ chỉ không chế
trực tiếp các vùng quanh thành trấn, nhiệm sở và đồn binh, những nơi có dân
Trung Hoa cư trú nên luật pháp chỉ có hiệu lực ở vùng đó. Luật pháp Trung Quốc
chỉ tác động đến người hạn ở Âu Lạc và những quý tộc người Việt và thường chi
trong lĩnh vực hành chính, hình sự, tài chính. Vì vậy nước ta bị đô hộ thời gian kéo
dài nhưng không liên tục. Xét theo chiều sâu thì chính quyền đô hộ không thể làm
thay đổi cơ cấu làng xã cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn
ngoài phạm vi cai trị của chúng. Chính vậy mà pháp luật của người việt chủ yếu là
lOMoARcPSD| 47028186
lệ làng và tác động tới các làng xã, đối tượng điều chỉnh là đại đa số dân cư người
việt, chủ yếu ở các lĩnh vực hôn nhân gia đình, dân sự, quan hệ ruộng đất trong nội
bộ làng xã. những luật lệ này về sau nhà Hán cũng phải thừa nhận. Đồng thời với
luật tục của người việt thì một số pháp luật của phong kiến Trung Hoa đã được áp
dung ở Âu Lạc, nhưng phạm vi tác động chủ yếu là điều chỉnh các quan hệ hành
chính giữa quân – bộ (thời Triều), quận – huyện (Tây Hán) và hiệu lực cũng chỉ ở
mức độ hạn chế.
Như vậy có thể thấy bên cạnh sự đan xen thì cái đặc điểm song song giữa luật tục
của người Việt và một số luận pháp phong kiến trung quốc ở Âu Lạc cũng được thể
hiện rất rõ nét.
3. Tại sao lại có hai đặc điểm vừa đan xen, vừa song song tồn tại của các hệ
thống chính quyền ?
Trong thời Bắc thuộc, những giai đoạn sự đô hộ bị gián đoạn (có các
cuộc khởi nghĩa nổi lên), chính quyền đô hộ không thể thiết lập được quyền cai trị
trên lãnh thổ nước ta, và trong giai đoạn đó luôn có chính quyền của người Việt đan
xen tồn tại. Mặt khác, tuy trên danh nghĩa nước ta chỉ một bộ phận của lãnh thổ
Trung Quốc và bộ máy Nhà nước cũng chỉ là một phần của bộ máy chính quyền đô
hộ nhưng về bản chất, vẫn luôn là chính quyền của người Việt, tồn tại song song
cùng với chính quyền đô hộ. Điều này đặc biệt được thể hiện ở cấp chính quyền
sở (làng, xã) khi người đứng đầu làng luôn người Việt, do người dân trong
làng bầu lên.
Thứ hai, trong thời kì này, tuy người Việt cũng đã xây dựng được hệ thống
chính quyền tự chủ của mình, nhưng hệ thống chính quyền đóng vai trò chủ đạo vẫn
là hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán.
Vai trò chủ đạo này được thể hiện thông qua thời gian cai trị (chính quyền
đô hộ của người Hán cai trị 966 năm trên tổng số 1059 năm trong khi chính quyền
tự chủ của người Việt chỉ nắm được chính quyền trong 93 năm trên tổng số 1059
năm).
Hơn thế vai trò chủ đạo của hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán còn
thể hiện qua cách thức tổ chức chính quyền của người Việt: người Việt đã học theo
cách thức tổ chức chính quyền của người Hán. hthống chính quyền đan
xen hay song song tồn tại thì mô hình chính quyền của người Hán vẫn luôn giữ vai
trò chủ đạo (ví dụ: chính quyền của Lí Bí, chính quyền của Khúc Hạo…).
4. Sự duy trình hai nguồn luật: Luật Việt và luật Hán
Ngoài ra, ở thời kỳ Bắc thuộc pháp luật Việt Nam còn duy trình hai nguồn
luật. Đó là luật Việt và luật Hán:
lOMoARcPSD| 47028186
- Thừa nhận luật Việt là các tập quán điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong
dời sống xã hội vì nó gần gũi với đời sống người dân, lại có từ lâu đời nên đã
chống lại được sự áp đặt của pháp luật phong kiến Trung Hoa. Trên cơ sở đó, các
nhà nước độc lập sau này đã ban hành pháp luật thực định và thừa nhân các tập
quán pháp ( sự kết hợp luật và lệ ).
- Luật Hán là luật thành vẫn nên nó đã đưa vào nước là kỹ thuật xây dựng
pháp luật thành văn (văn bản quy phạm pháp luật). Đây là sự tiếp thu có chọn lọc
và sáng tạo được sử dụng ở các nhà nước phong kiến Việt Nam sau này. Đó là hình
thức các văn bản luật như: Bộ luật lệnh, chiếu, chỉ.
Như vậy hệ thống pháp luật phong kiến cũng trở thành khuôn mẫu cho việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật phong kiến Việt Nam sau này. Tư tưởng chính tr
pháp lí Nho giáo của nhà nước phong kiến Trung Quốc truyền bá vào Âu Lạc và đã
tham nhập vào các tầng lớp cư dân người Việt ở mức độ nhất định là cơ sở lịch sử
để đất nên tặng cho Nho giáo trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong thời gian
này. Đồng thời hình thành một tâm là nhập thể truyền thống là từ tưởng từ trí, từ
quán và hình thức trong lệ hơn trong luật.
Nói tóm lại, qua phân tích trên chúng ta có thể hiểu rõ hơn về pháp. luật
Việt Nam thời Bắc thuộc với hai hệ thống pháp luật cũng đan xen và cũng song
song tồn tại. Bên cạnh pháp luật truyền thông, nước ta còn du nhập pháp luật Trung
Hoa sau hơn 1000 năm đã giúp cho người Việt trong quá trình xây dựng pháp luật
thành văn, kết hợp hài hòa các yếu tố Đại Việt và Trung Hoa. Đồng thời nó đã ảnh
hưởng đến sự hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam ở thời kì đó và cả pháp
luật hiện nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186 BÀI LÀM
Trong tiến trình lịch sử, Việt Nam đã trải qua các cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc không ngừng, thu được những thắng lợi cụ thể trong từng thời kì. Trong
đó, phải kể đến hơn 10 thế kỉ đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa đã để
lại hậu quả căn bản cho quá trình hình thành, quá trình phát triển của Nhà nước và
pháp luật Việt Nam thời quân chủ cũng như trong suốt tiến trình lịch sử cho đến
ngày nay. Pháp luật của nước ta thời kì này có nhiều nét riêng biệt về tổ chức cũng
như việc thực hiện. Pháp luật ở Việt Nam thời kì Bắc thuộc (179 TCN - 938) cũng
có những đặc điểm riêng biệt và nổi bật.
Năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà vua nước Nam Việt (một chính
quyền căn cứ ở nam Trung Quốc) đánh bại triều An Dương Vương, thống trị Âu
Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp nhau thống trị nước ta. Thời
kỳ này thường được gọi là thời Bắc thuộc. Đến năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán xâm lược, xác lập nền độc lập dân tộc một cách vững chắc, chấm dứt 1117
năm đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trong hơn 10 thế kỷ đó, không
chỉ có Bắc thuộc mà còn có cả chống Bắc thuộc; có sự tồn tại thường xuyên của
chính quyền đô hộ và xen vào đó trong một số thời gian ngắn, có những chính quyền
tự chủ - thành quả của các phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân ta. Đặc
điểm chính cả nhà nước Việt Nam thời kỳ này là có hai hệ thống chính quyền hoặc
đan xen tồn tại hoặc song song tồn tại trong các thời gian lịch sử khác nhau:
1. Tính đan xen
Sự đan xen của 2 hệ thống pháp luật được thể hiện rất rõ qua các giai đoạn nhất định. –
Giai đoạn đầu Năm 179 TCN Triệu Đà xâm lược, Âu Lạc bước vào thời kì
Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm. Khi nhà Tây Hán xâm chiếm, dân tộc Lạc Việt
sống trên lãnh thổ Nam Việt cũng bị đô hộ trong 150 năm từ 111 TCN đến cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40. Ở giai đoạn này Nhà Hán thực hiện chính
sách đồng hóa triệt để đối với nhân dân ta vì thế pháp luật thời kì này là pháp luật của người hán. –
Giai đoạn hai: Cuộc đấu tranh giành độc lập của Hai Bà Trưng mùa xuân
năm 40 thắng lợi, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc cũ. Thời gian độc lập ngắn ngủi
nên sử dụng chủ yếu những luật lệ cổ truyền của người Việt để quản lý đất nước,
xóa bỏ các thứ thuế nặng nề do chính quyền đô hộ đặt ra. Vì vậy giai đoạn này
pháp luật của người Việt được áp dụng. –
Giai đoạn ba: Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà
Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ: vươn xuống cai quản cấp lOMoAR cPSD| 47028186
huyện, tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện
pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Nhà Đồng Hán bất nhân
dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cổ gắng xóa bỏ tận gốc
truyền thống "dùng tục cũ mà cai trị của người Việt. Nên ở thời kì này nhân ta lại
chịu sự áp đặt pháp luật của người Hán, –
Giai đoạn thứ tư: Khúc Thừa Dụ xác lập nên tự chủ, thực hiện những cải
cách về cơ cấu hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đến năm 907 Khúc Hạo lên
thay, nỗ lực xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung trong đến xã.
Đồng thời ông còn thực hiện đường lối chính trị thân dân, sửa lại chế độ thuế khoa
và lao dịch nặng nề của thời Đường giúp chính quyền tự chủ được cũng có một
bước. Giai đoạn này pháp luật người Việt lại được xác lập. –
Đến năm 930 Nam Hán xâm lược nhưng chưa thiết lập được một chính
quyền đô hộ bao trùm lên cả nước là Năm 931 Dương Đình Nghề đánh chiếm được
thành Đại La lập lại nên tự chủ. Đến năm 937 Dương Đình Nghệ bị Kiều Công
Tiên giết chết đoạt chức tiết độ sứ. Năm 938 thì Ngô Quyền diệt Kiều Công Tiền
và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của nhân dân ta.
Như vậy, trong thời kỳ Bắc thuộc này có sự ngắt quãng thống trị nên pháp luật thời
kỳ này thể hiện tính đan xen của hai hệ thống pháp luật.
2. Tính song song
Tính song song thể hiện rất rõ thông qua nhà nước Chăm Pa và nhà nước
Phù Nam. Cụ thể là nhà nước Chăm Pa gồm hai tiểu quốc là tiểu quốc Nam Chăm
và tiểu quốc Bắc Chăm, năm 111 TCN nhà Hán thay thế nhà Triệu thống trị Âu
Lạc và lập thêm quân Nhật Nam. Chính sự xác lập bởi hai hệ thống chính quyền ở
hai tiểu quốc của nhà nước Chăm Panên pháp luật có sự thể hiện song song của
pháp luật Hán và pháp luật của người Việt. Đồng thời tỉnh song song được thể hiện
ở cả nhà nước Phù Nam. –
Bên cạnh đó thì tính song song còn được thể hiện ở một số đặc điểm về hiệu
lực và phạm vi tác động của pháp luật. Thực tế chính quyền đô hộ chỉ không chế
trực tiếp các vùng quanh thành trấn, nhiệm sở và đồn binh, những nơi có dân
Trung Hoa cư trú nên luật pháp chỉ có hiệu lực ở vùng đó. Luật pháp Trung Quốc
chỉ tác động đến người hạn ở Âu Lạc và những quý tộc người Việt và thường chi
trong lĩnh vực hành chính, hình sự, tài chính. Vì vậy nước ta bị đô hộ thời gian kéo
dài nhưng không liên tục. Xét theo chiều sâu thì chính quyền đô hộ không thể làm
thay đổi cơ cấu làng xã cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn
ngoài phạm vi cai trị của chúng. Chính vậy mà pháp luật của người việt chủ yếu là lOMoAR cPSD| 47028186
lệ làng và tác động tới các làng xã, đối tượng điều chỉnh là đại đa số dân cư người
việt, chủ yếu ở các lĩnh vực hôn nhân gia đình, dân sự, quan hệ ruộng đất trong nội
bộ làng xã. những luật lệ này về sau nhà Hán cũng phải thừa nhận. Đồng thời với
luật tục của người việt thì một số pháp luật của phong kiến Trung Hoa đã được áp
dung ở Âu Lạc, nhưng phạm vi tác động chủ yếu là điều chỉnh các quan hệ hành
chính giữa quân – bộ (thời Triều), quận – huyện (Tây Hán) và hiệu lực cũng chỉ ở mức độ hạn chế.
Như vậy có thể thấy bên cạnh sự đan xen thì cái đặc điểm song song giữa luật tục
của người Việt và một số luận pháp phong kiến trung quốc ở Âu Lạc cũng được thể hiện rất rõ nét.
3. Tại sao lại có hai đặc điểm vừa đan xen, vừa song song tồn tại của các hệ
thống chính quyền ?
Trong thời kì Bắc thuộc, có những giai đoạn sự đô hộ bị gián đoạn (có các
cuộc khởi nghĩa nổi lên), chính quyền đô hộ không thể thiết lập được quyền cai trị
trên lãnh thổ nước ta, và trong giai đoạn đó luôn có chính quyền của người Việt đan
xen tồn tại. Mặt khác, tuy trên danh nghĩa nước ta chỉ là một bộ phận của lãnh thổ
Trung Quốc và bộ máy Nhà nước cũng chỉ là một phần của bộ máy chính quyền đô
hộ nhưng về bản chất, vẫn luôn là chính quyền của người Việt, tồn tại song song
cùng với chính quyền đô hộ. Điều này đặc biệt được thể hiện ở cấp chính quyền cơ
sở (làng, xã) khi mà người đứng đầu làng luôn là người Việt, do người dân trong làng bầu lên.
Thứ hai, trong thời kì này, tuy người Việt cũng đã xây dựng được hệ thống
chính quyền tự chủ của mình, nhưng hệ thống chính quyền đóng vai trò chủ đạo vẫn
là hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán.
Vai trò chủ đạo này được thể hiện thông qua thời gian cai trị (chính quyền
đô hộ của người Hán cai trị 966 năm trên tổng số 1059 năm trong khi chính quyền
tự chủ của người Việt chỉ nắm được chính quyền trong 93 năm trên tổng số 1059 năm).
Hơn thế vai trò chủ đạo của hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán còn
thể hiện qua cách thức tổ chức chính quyền của người Việt: người Việt đã học theo
cách thức tổ chức chính quyền của người Hán. Dù là ở hệ thống chính quyền đan
xen hay song song tồn tại thì mô hình chính quyền của người Hán vẫn luôn giữ vai
trò chủ đạo (ví dụ: chính quyền của Lí Bí, chính quyền của Khúc Hạo…).
4. Sự duy trình hai nguồn luật: Luật Việt và luật Hán
Ngoài ra, ở thời kỳ Bắc thuộc pháp luật Việt Nam còn duy trình hai nguồn
luật. Đó là luật Việt và luật Hán: lOMoAR cPSD| 47028186 -
Thừa nhận luật Việt là các tập quán điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong
dời sống xã hội vì nó gần gũi với đời sống người dân, lại có từ lâu đời nên đã
chống lại được sự áp đặt của pháp luật phong kiến Trung Hoa. Trên cơ sở đó, các
nhà nước độc lập sau này đã ban hành pháp luật thực định và thừa nhân các tập
quán pháp ( sự kết hợp luật và lệ ). -
Luật Hán là luật thành vẫn nên nó đã đưa vào nước là kỹ thuật xây dựng
pháp luật thành văn (văn bản quy phạm pháp luật). Đây là sự tiếp thu có chọn lọc
và sáng tạo được sử dụng ở các nhà nước phong kiến Việt Nam sau này. Đó là hình
thức các văn bản luật như: Bộ luật lệnh, chiếu, chỉ.
Như vậy hệ thống pháp luật phong kiến cũng trở thành khuôn mẫu cho việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật phong kiến Việt Nam sau này. Tư tưởng chính trị
pháp lí Nho giáo của nhà nước phong kiến Trung Quốc truyền bá vào Âu Lạc và đã
tham nhập vào các tầng lớp cư dân người Việt ở mức độ nhất định là cơ sở lịch sử
để đất nên tặng cho Nho giáo trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong thời gian
này. Đồng thời hình thành một tâm là nhập thể truyền thống là từ tưởng từ trí, từ
quán và hình thức trong lệ hơn trong luật.
Nói tóm lại, qua phân tích trên chúng ta có thể hiểu rõ hơn về pháp. luật
Việt Nam thời Bắc thuộc với hai hệ thống pháp luật cũng đan xen và cũng song
song tồn tại. Bên cạnh pháp luật truyền thông, nước ta còn du nhập pháp luật Trung
Hoa sau hơn 1000 năm đã giúp cho người Việt trong quá trình xây dựng pháp luật
thành văn, kết hợp hài hòa các yếu tố Đại Việt và Trung Hoa. Đồng thời nó đã ảnh
hưởng đến sự hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam ở thời kì đó và cả pháp luật hiện nay.