Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản từ lúc sơ khai cho đến lúc hiện đại môn Chủ nghĩa xã hội và khoa học | Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội

Trong suốt cuộc đời nghiên cứu khoa học và đấu tranh cách mạng củamình, trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tác phẩm Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại. Các ông viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Tài liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 48541417
Mục Lục
Mở Đầu
Nội Dung
1 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay.
3 Những đặc trưng cơ bản của xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai.
4 Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay.
Kết Luận
lOMoARcPSD| 48541417
Mở Đầu
Trong suốt cuộc đời nghiên cứu khoa học đấu tranh cách mạng của mình, trong nhiều
tác phẩm, đặc biệt trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tác phẩm Chống
Đuyrinh, C.Mác Ph.Ăngghen đã khẳng định sra đời của chnghĩa tư bản là một giai đoạn
phát triển mới của nhân loại. Các ông viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Nhưng mặt khác, các ông cũng chỉ ra rằng, trong
hội đối kháng giai cấp đó, con người càng chinh phục thiên nhiên, cải tạo tự nhiên thì tình
trạng người áp bức, bóc lột người càng được mở rộng.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản từ lúc sơ khai cho đến lúc hiện đại và văn minh
như ngày nay đã chứng minh rõ một sự thật hiển nhiên là, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư
bản càng phát triển đến trình độ xã hội hóa cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cu phát
triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính nhân bản
chủ nghĩa thêm sâu sắc. Vấn đề này hoàn toàn đúng với nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng: “Từ hàng chục năm nay, lịch sử công
nghiệp thương nghiệp không phải cái khác hơn lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng
sản xuất hiện đại chống lại quan hệ sản xuất hiện đại”.
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa bản biểu hiện trên lĩnh
vực chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp
sản ngày càng trở nên quyết liệt.
lOMoARcPSD| 48541417
Nội Dung
1 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Khái niệm: Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa
học) là chủ nghĩa Mác Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh tế
chính trị và xã hội chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu
của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu
tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của
chủ nghĩa Mác –nin.
Theo nghĩa hẹp, chnghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác –
Lênin. Chủ nghĩa hội khoa học bộ phận thể hiện tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn
sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa hội khoa học khoa học về các quy luật hội – chính trị, học thuyết về những
điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, về cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân, vcuộc cách mạng hội chủ nghĩa, vcác quy luật, biện pháp
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới slãnh đạo của chính đảng mácxít
nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội: Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chnghĩa tư bản châu Âu đã đạt
được những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự
phát triển đó làm cho phương thức sản xuất bản chủ nghĩa bộc lmâu thuẫn giữa sự phát
triển của lực lượng sản xuất tính chất hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa. Chính vậy mà chnghĩa tư bản tạo ra
những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên
đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với cách một lực lượng hội độc lập. Giai cấp
công nhân là lực lượng xã hội khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã
tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên
quy rộng khắp. đòi hỏi một luận khoa học hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong
trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc
khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 1848.
Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong
trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống luận khoa học cách
mạng.
Đó những điều kiện kinh tế - hội khách quan cho chnghĩa xã hội khoa học ra đời để thay
thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chnghĩa đã tra lỗi thời, không còn khả năng
lOMoARcPSD| 48541417
đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa
xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận )
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa
tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen T. Savanxơ (Đức);
thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn chuyển hóa năng lượng của M.
Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách, …),
kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa hội không tưởng phê
phán (H. Xanhximông, S. Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tưởng
đã tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng.
Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa
học
Mác (1818 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) trưởng thành ở một quốc gia có nền triết
học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện
chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí tuệ uyên bác, các ông đã tiếp thu với một tinh thần phê
phán đối với các giá trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế
hệ trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động… tất cả những điều đó đã cho phép các ông đến với nhau, trở thành đôi bạn cùng chí
hướng, giúp các ông nhận thức được bản chất của những sự kiện kinh tế – xã hội, chính trị –
xã hội đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản. Kế thừa các giá trị khoa học trong kho tàng tư
tưởng nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa học những sự kiện đang diễn ra…
đã cho phép các ông từng bước phát triển học thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận
nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về chất.
Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư, các ông
đã luận giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, (đây được coi
phát kiến lớn thứ ba của C. Mác và Ph. Ăngghen), khắc phục một cách triệt để những hạn chế
có tính lịch sử ca chủ nghĩa xã hội không tưởng.
[1]
chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên
lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩmy đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và
người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất
yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc
lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần thiết phải
thực hiện chủ nghĩa quốc tế sản trong phong trào cộng sản và công nhân…
Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa hc (1844-1895)
Quá trình C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng phát triển chủ nghĩa xã hội – khoa học thể chia
thành ba thời kỳ nhỏ.
Thời kỳ thứ nhất (1844-1848):
lOMoARcPSD| 48541417
Nét tiêu biểu trong thời kỳ này là C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự
chuyển biến ấy được phản ánh trong các tác phẩm tiêu biểu như: Lời nói đầu
của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế – triết học
1844, Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn
cùng của triết học…
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào đầu năm
1848 do C.Mác Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu shình thành về bản chủ nghĩa hội
khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ
nghĩa điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội, để giai cấp công
nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị kinh tế. Nó thừa nhận
vai tlãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh một xã hội mới. cũng chứng
minh sự cần thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế sản trong phong trào cộng sản công
nhân…
Thời kỳ thứ hai (1848-1871):
Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước Tây Âu
(1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được đánh dấu
bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa
vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển phong phú thêm nhờ tổng
kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là,
để giành lại quyền thống trị về chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan
liêu tư sản, xây dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các nhà sáng lập chủ
nghĩa khoa học đã xây dựng học thuyết vềcách mạng không ngừng, về liên minh
giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các
phương pháp và hình thức đấu tranh trong các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách mạng,…
Thời kỳ thứ ba (1871-1895):
C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương
lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh, Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học,
Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng về phá huỷ bộ máy nhà
nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà nước mới, thừa nhận Công xã Pari là một hình
thái nhà nước của giai cấp công nhân. ở thời kỳ này, nhất là trong hai tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gôta và Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã trình bày khá tập trung dự kiến
khoa học về chủ nghĩa xã hội với những nét khái quát: Hình thái cộng sản chủ nghĩa chia
thành hai giai đoạn thấp và cao; về mục đích, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác về
cơ bản với tất cả các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Đó là một xã hội tạo mọi điều kiện để
phát huy năng lực của con người và nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con
lOMoARcPSD| 48541417
người. Để đạt mục đích trên, các ông chỉ ra một số phương hướng cần phải làm2 Ý
nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay.
Nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta thấy được tính khoa học,
ch mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Đó là,
được khái quát từ phong trào công nhân, phát triển gắn với thực tiễn phong trào công nhân. Điều
này đã làm cho chnghĩa hội khoa học khác về chất với tất cả các dạng chủ nghĩa hội
trước đó. Nó khoa học bởi vì nó đã tìm ra con đường để’ giải phóng xã hội loài người khỏi mọi
áp bức, bóc lột, bất công bằng việc khẳng định: giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền,
sử dụng chính quyền đó để tổ chức xây dựng một xã hội tương lai ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân lao động. Xã hội tương lai đó chỉ có thể tồn tại được trên một nền sản xuất đại công nghiệp.
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta tin tưởng vào thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, tin tưởng vào sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân. Những biến động sâu sắc của thế
giới nói chung và của hệ thống xã hội chủ nghĩa nói riêng như hiện nay đã khiến cho không ít
người hoang mang, dao động, hoài nghi vào tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa hội khoa học đòi xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin… thì việc nghiên cứu chủ
nghĩa xã hội khoa học sẽ củng cố niềm tin vào tính khoa học và cách mạng của học thuyết này.
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ’ không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội sụp đổ; mặt
khác, chủ nghĩa hội các nước nêu trên sụp đổ không phải do chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ
nghĩa xã hội khoa học lỗi thời, không tưởng như một sở người nêu ra, mà chính là do việc vận
dụng những nguyêncủa chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cách mạng của các nước này đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng (duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, nóng vội…) cũng như
âm mưu phá hoại của một số kẻ phản bội và cơ hội. Do vậy, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa
học giúp cho chúng ta thấy được những khiếm khuyết, thiếu sót để có thể tránh được trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nghiên cứu chủ nghĩa hội khoa học giúp cho chúng ta cần cứ để khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân
ta lựa chọn đúng đắn tất yếu sẽ đi tới thắng lợi. Đó là con đường duy nhất sở thực
tiễn, khách quan phợp về cả luận thực tiễn để Đảng nhân dân ta lựa chọn nếu
nhân dân ta mong muốn xây dựng được một xã hội không còn áp bức, bất công, cuộc sống
tự do, hạnh phúc. Đồng thời, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giúp cho chúng ta lựa
chọn những bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa hội phù hợp với điều kiện khách quan
của Việt Nam, có như vậy mới giành được thắng lợi.
Ngoài ra nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn:
- Về mặt lý luận:
Hiểu được chủ nghĩa Mác – Lênin một cách cân đối, toàn diện, đầy đủ và hoàn chỉnh;
Trang bị vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân để tìm ra con đường, biện pháp đấu tranh giải
phóng giai câp, giải phóng dân tộc, giải phóng triệt để con người khỏi chế đọ sở hữu tư sản,
ách áp bức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội thật sự công bằng, bình đẳng, vì sự tiến bộ
của con người, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Tóm lại, về mặt luận, nghiên cứu chủ nghĩa hội khoa học không chỉ để nhận thức, giải
thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế giới.
lOMoARcPSD| 48541417
- Về mặt tư tưởng:
Nghiên cứu chủ nghĩa hội khoa học giúp thấy được tính chất khoa khọc cách mạng của
chủ nghĩa Mac – nin nói chung, chủ nghĩa khoa học nói riêng;
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta có cơ sở khoa học tin tưởng vào
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, vào sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, những
khát vọng tốt đẹp của nhân loại;
Gíup chúng ta có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, không hoang mang, dao
động, hoài nghi trước những biến cố của lịch sử, vững tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa, thấy rõ
thêm bản chất và âm mưu phá hoại của những kẻ phản bội, cơ hội và các thế lực phản động,
thù địch;
Giúp chúng ta có cơ sở và khẳng định tính tất yếu thắng lợi của con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã lựa chọn, vững
tin vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học là vấn đề rất quan trọng của Việt
Nam trong công cuôc đổi mới;
cơ sở luận trực tiếp giúp cho Đảng xác định mục tiêu, đường lối chiến lược, sách lược của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới;
Nghiên cứu tạo cơ sở bản lĩnh vững vàng để tránh những sai lầm trong xây dựng đường lối,
chính sách và chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa;
Tạo sở khoa học để đấu tranh phê phán chống các quan điểm sai trái, thù địch, cũng cố
trận địa tư tưởng vô sản;
- Ý nghĩa về mặt lý luận, tư tưởng và thực tiễn quan hệ chặt chẽ với nhau trong qua trình
nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học.
3 Những đặc trưng cơ bản của xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai.
Theo những phác thảo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về hội cộng sản
tương lai thì đó là mt xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, về sự phát triển của kinh tế và chế độ phân phối. Do sự phát triển hết sức cao của
sức sản xuất nên của cải của toàn xã hội đã được tạo ra vô cùng phong phú và giàu có đến mức
xã hội có thể bỏ qua giới hạn của chế độ phân phối theo lao động để tiến hành thực hiện chế độ
phân phối theo nhu cầu (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu).
lOMoARcPSD| 48541417
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác đã có dự báo: “Khi lao động trở thành
không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của
đời sống; khi cùng với sự phát triển toàn diện của các nhân, sức sản xuất của họ cũng
ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta
mới có thvượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản hội mới thể ghi
trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
- Hai là, về sự tiêu vong của nhà nước trong xã hội cộng sản tương lai.
Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp đã hoàn toàn mất đi, sự hoàn thiện, phát triển của chế
độ dân chủ ở giai đoạn phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa đã tất yếu dẫn tới sự tự tiêu vong của
yếu tố nhà nước trong thượng tầng kiến trúc của xã hội.
Theo V.I. Lênin: “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa là giữa
các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ xã hội của họ
đối với những liệu sản xuất hội) chỉ lúc đó “nhà nước mới không còn nữa mới thể
nói đến tự do”. Chỉ lúc đó, mt nền dân chủ thực sự hoàn bị, thật sự không hạn chế, mới có thể
có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì do dơn giản là
một khi thoát khỏi chế độ lệ bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự
man... thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc thiểu của đời sống chung
xã hội”.
- Ba là, về các quan hệ xã hội và sự phát triển của con người
Do điều kiện kinh tế - hội đã đạt đến mức rất hoàn thiện nên xã hội đã có thể đạt được sự hài
hoà cao độ trong việc giải quyết các mối quan hệ hội đời sống tinh thần của con người
được nâng lên rất cao. Khi đó con người có đầy đủ những điều kiện cần thiết để mỗi con người
thể phát triển tự do toàn diện các năng lực của mình. Đó chính là lúc nhân loại có thể thực
hiện "bước nhảy từ vương quốc của tính tất yếu sang vương quốc của tự do".
Qua phân ch của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế
hội cộng sản chủ nghĩa đã cho thấy:
Thứ nhất, chthể đạt tới giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa khi trong thực tế khách
quan của sự phát triển hội đã được những điều kiện, tiền đề phù hợp. Mọi ý muốn chủ
quan muốn thực hiện ngay những nguyên tắc của giai đoạn cao trong sự phát triển của hình thái
kinh tế - hội cng sản chủ nghĩa khi chưa có nhiều điều kiện phát triển kinh tế - hội tương
ứng thì nhất định sẽ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và nhất định sẽ thất bại.
Thứ hai, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái tế - hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình
lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tchức xã hội về mọi
mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người. Nếu không có quá trình đó cũng không
thể xuất hiện được giai đoạn đó.
Thứ ba, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa
các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu
về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì trong một thời gian nhất định, dưới
chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản
nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa dạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - hội
lOMoARcPSD| 48541417
cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới
thì những vấn đề luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên
giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước dân chủ vẫn tồn tại. 4 Liên hệ vấn đề ở Việt Nam
hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
(1998) đưa ra đến nay vẫn Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng
phát triển sự nghiệp văn hóa nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ
mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
1
.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (Bổ sung, phát triển
2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sc mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển
2
.
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta phát huy
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây
dựng bảo vệ tổ quốc hội chủ nghĩa, xây dựng phát triển nền văn hViệt Nam tiên
tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cng đồng,
từng địa n dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa
học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mục tiêu dân giàu,
nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”
2
.
- Về phương hướng xây dựng phát triển văn hóa hiện nay, chúng ta cần nhấn mạnh hai
điểm sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất nước nhưng không phải
thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mra một cuộc chiến đấu mới chống lại nghèo
nàn, lạc hậu, đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chnghĩa yêu nước, sự thông minh và giàu năng lực
sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường là
sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản lĩnh của dân tộc trong quá trình đấu tranh gian khổ, vất
vả, đầy thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ
1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khóa VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.54-55.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI, Sđ d, tr.76.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.106.
lOMoARcPSD| 48541417
sung những nội dung mới vào khái niệm yêu nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tưởng
cách mạng và tiến bộ của thời đại; giáo dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường
hội chủ nghĩa Bác Hồ, Đảng ta nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính
trị, xây dựng ý chí và bản lĩnh của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu mới này là nhiệm vụ chung
của toàn Đảng, toàn dân ta.
Thứ hai, về hành động, chúng ta phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc
nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo
điều kiện hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực khoa học
công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. đây, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong
trào quần chúng trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn
kết chặt đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội.
Năm quan điểm chỉ đạo bản trong quá trình xây dựng phát triển sự nghiệp phát triển
văn hoá nước ta là:
- Văn hoá nền tảng tinh thần của hội, vừa mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
- Xây dựngphát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá một mặt trận; xây dựng phát triển văn hoá một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mng và sự kiên trì thận trọng.
Năm quan điểm này đều mang tầm chiến lược lâu dài cần quán triệt nhất quán và xuyên
suốt quá trình xây dựng và phát triển snghiệp văn hoá ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
lOMoARcPSD| 48541417
Kết Luận
Dù bằng hình thức cách mạng nào, đấu tranh bằng bạo lực, đấu tranh nghị trường hoặc
kết hợp cả hai thì sự tất yếu về kinh tế hội đó cũng đang diễn ra một cách nhanh chóng
hơn bao giờ hết. Các nội dung, tiền đề cho một sự đổi thay về lớn lao, có tính chất cách mạng
đa diễn ra trong xã hội tư bản hiện nay. Cho dù vừa qua chế độ xã hội chủ nghĩa có bị sụp đổ
Liên Đông Âu (trước đây) chế độ hội hội chủ nghĩa các nước còn lại hiện
nay đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, thì tính tất yếu lịch sử tự nhiên về sự tiến hóa
và phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hiển nhiên.
Các thủ đoạn xuyên tạc, đánh đồng, quy chụp chủ nghĩa phát xít với chủ nghĩa hội;
xuyên tạc lý tưởng cộng sản; phủ định tương lai, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản… theo lối mượn danh của các “nhà sử học”, hay vuốt đua, ăn theo, nói leo của những
kẻ cố tình theo đuôi và tán dương chủ nghĩa tư bản cũng không thể nào thay đổi được bản chất
tốt đẹp của tưởng cộng sản chủ nghĩa hiện thực của chủ nghĩa hội tkhi ra đời đến
nay.
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48541417 Mục Lục Mở Đầu Nội Dung
1 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay.
3 Những đặc trưng cơ bản của xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai.
4 Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay. Kết Luận lOMoAR cPSD| 48541417 Mở Đầu
Trong suốt cuộc đời nghiên cứu khoa học và đấu tranh cách mạng của mình, trong nhiều
tác phẩm, đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tác phẩm Chống
Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn
phát triển mới của nhân loại. Các ông viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Nhưng mặt khác, các ông cũng chỉ ra rằng, trong
xã hội đối kháng giai cấp đó, con người càng chinh phục thiên nhiên, cải tạo tự nhiên thì tình
trạng người áp bức, bóc lột người càng được mở rộng.

Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản từ lúc sơ khai cho đến lúc hiện đại và văn minh
như ngày nay đã chứng minh rõ một sự thật hiển nhiên là, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư
bản càng phát triển đến trình độ xã hội hóa cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản
chủ nghĩa thêm sâu sắc. Vấn đề này hoàn toàn đúng với nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng: “Từ hàng chục năm nay, lịch sử công
nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng
sản xuất hiện đại chống lại quan hệ sản xuất hiện đại”.

Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh
vực chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư
sản ngày càng trở nên quyết liệt.
lOMoAR cPSD| 48541417 Nội Dung
1 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Khái niệm: Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa
học) là chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh tế
chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu
của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu
tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác –
Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn
sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học thuyết về những
điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, về cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít
nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội: Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt
được những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự
phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra
những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên
vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp
công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên
quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong
trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc
khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848.
Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong
trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời để thay
thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, không còn có khả năng lOMoAR cPSD| 48541417
đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa
xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận )
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa
và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức);
thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của M.
Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách, …),
kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê
phán (H. Xanhximông, S. Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng
đã tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng.
Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) trưởng thành ở một quốc gia có nền triết
học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện
chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí tuệ uyên bác, các ông đã tiếp thu với một tinh thần phê
phán đối với các giá trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế
hệ trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động… tất cả những điều đó đã cho phép các ông đến với nhau, trở thành đôi bạn cùng chí
hướng, giúp các ông nhận thức được bản chất của những sự kiện kinh tế – xã hội, chính trị –
xã hội đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản. Kế thừa các giá trị khoa học trong kho tàng tư
tưởng nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa học những sự kiện đang diễn ra…
đã cho phép các ông từng bước phát triển học thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận
nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về chất.
Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư, các ông
đã luận giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, (đây được coi là
phát kiến lớn thứ ba của C. Mác và Ph. Ăngghen), khắc phục một cách triệt để những hạn chế
có tính lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng. [1] chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên
lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là
người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất
yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc
lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần thiết phải
thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân…
Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1844-1895)
Quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội – khoa học có thể chia thành ba thời kỳ nhỏ.
Thời kỳ thứ nhất (1844-1848): lOMoAR cPSD| 48541417
Nét tiêu biểu trong thời kỳ này là C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự
chuyển biến ấy được phản ánh trong các tác phẩm tiêu biểu như: Lời nói đầu
của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế – triết học
1844, Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học…
Sự xuất hiện tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vào đầu năm
1848 do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu sự hình thành về cơ bản chủ nghĩa xã hội
khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ
nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công
nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng
minh sự cần thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân…
Thời kỳ thứ hai (1848-1871):
Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước Tây Âu
(1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được đánh dấu
bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa
vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển phong phú thêm nhờ tổng
kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là,
để giành lại quyền thống trị về chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan
liêu tư sản, xây dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các nhà sáng lập chủ
nghĩa khoa học đã xây dựng học thuyết vềcách mạng không ngừng, về liên minh
giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các
phương pháp và hình thức đấu tranh trong các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách mạng,…
Thời kỳ thứ ba (1871-1895):
C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương
lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh, Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học,
Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng về phá huỷ bộ máy nhà
nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà nước mới, thừa nhận Công xã Pari là một hình
thái nhà nước của giai cấp công nhân. ở thời kỳ này, nhất là trong hai tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gôta và Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã trình bày khá tập trung dự kiến
khoa học về chủ nghĩa xã hội với những nét khái quát: Hình thái cộng sản chủ nghĩa chia
thành hai giai đoạn thấp và cao; về mục đích, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác về
cơ bản với tất cả các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Đó là một xã hội tạo mọi điều kiện để
phát huy năng lực của con người và nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con lOMoAR cPSD| 48541417
người. Để đạt mục đích trên, các ông chỉ ra một số phương hướng cần phải làm… 2 Ý
nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay.

Nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta thấy được tính khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Đó là, nó
được khái quát từ phong trào công nhân, phát triển gắn với thực tiễn phong trào công nhân. Điều
này đã làm cho chủ nghĩa xã hội khoa học khác về chất với tất cả các dạng chủ nghĩa xã hội
trước đó. Nó khoa học bởi vì nó đã tìm ra con đường để’ giải phóng xã hội loài người khỏi mọi
áp bức, bóc lột, bất công bằng việc khẳng định: giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền,
sử dụng chính quyền đó để tổ chức xây dựng một xã hội tương lai ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân lao động. Xã hội tương lai đó chỉ có thể tồn tại được trên một nền sản xuất đại công nghiệp.
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta tin tưởng vào thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, tin tưởng vào sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân. Những biến động sâu sắc của thế
giới nói chung và của hệ thống xã hội chủ nghĩa nói riêng như hiện nay đã khiến cho không ít
người hoang mang, dao động, hoài nghi vào tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học đòi xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin… thì việc nghiên cứu chủ
nghĩa xã hội khoa học sẽ củng cố niềm tin vào tính khoa học và cách mạng của học thuyết này.
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ’ không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội sụp đổ; mặt
khác, chủ nghĩa xã hội ở các nước nêu trên sụp đổ không phải do chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ
nghĩa xã hội khoa học lỗi thời, không tưởng như một sở người nêu ra, mà chính là do việc vận
dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cách mạng của các nước này đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng (duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, nóng vội…) cũng như
âm mưu phá hoại của một số kẻ phản bội và cơ hội. Do vậy, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa
học giúp cho chúng ta thấy được những khiếm khuyết, thiếu sót để có thể tránh được trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta có cần cứ để khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân
ta lựa chọn là đúng đắn và tất yếu sẽ đi tới thắng lợi. Đó là con đường duy nhất có cơ sở thực
tiễn, khách quan và phù hợp về cả lý luận và thực tiễn để Đảng và nhân dân ta lựa chọn nếu
nhân dân ta mong muốn xây dựng được một xã hội không còn áp bức, bất công, có cuộc sống
tự do, hạnh phúc. Đồng thời, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giúp cho chúng ta lựa
chọn những bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện khách quan
của Việt Nam, có như vậy mới giành được thắng lợi.
Ngoài ra nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn:
- Về mặt lý luận:
Hiểu được chủ nghĩa Mác – Lênin một cách cân đối, toàn diện, đầy đủ và hoàn chỉnh;
Trang bị vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân để tìm ra con đường, biện pháp đấu tranh giải
phóng giai câp, giải phóng dân tộc, giải phóng triệt để con người khỏi chế đọ sở hữu tư sản,
ách áp bức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội thật sự công bằng, bình đẳng, vì sự tiến bộ
của con người, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Tóm lại, về mặt lý luận, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ để nhận thức, giải
thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế giới. lOMoAR cPSD| 48541417
- Về mặt tư tưởng:
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp thấy được tính chất khoa khọc và cách mạng của
chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung, chủ nghĩa khoa học nói riêng;
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp cho chúng ta có cơ sở khoa học tin tưởng vào
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, vào sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, những
khát vọng tốt đẹp của nhân loại;
Gíup chúng ta có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, không hoang mang, dao
động, hoài nghi trước những biến cố của lịch sử, vững tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa, thấy rõ
thêm bản chất và âm mưu phá hoại của những kẻ phản bội, cơ hội và các thế lực phản động, thù địch;
Giúp chúng ta có cơ sở và khẳng định tính tất yếu thắng lợi của con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã lựa chọn, vững
tin vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học là vấn đề rất quan trọng của Việt
Nam trong công cuôc đổi mới;
Là cơ sở lý luận trực tiếp giúp cho Đảng xác định mục tiêu, đường lối chiến lược, sách lược của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới;
Nghiên cứu tạo cơ sở bản lĩnh vững vàng để tránh những sai lầm trong xây dựng đường lối,
chính sách và chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Tạo cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán và chống các quan điểm sai trái, thù địch, cũng cố
trận địa tư tưởng vô sản;
- Ý nghĩa về mặt lý luận, tư tưởng và thực tiễn quan hệ chặt chẽ với nhau trong qua trình
nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học.
3 Những đặc trưng cơ bản của xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai.
Theo những phác thảo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội cộng sản
tương lai thì đó là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây: -
Một là, về sự phát triển của kinh tế và chế độ phân phối. Do sự phát triển hết sức cao của
sức sản xuất nên của cải của toàn xã hội đã được tạo ra vô cùng phong phú và giàu có đến mức
xã hội có thể bỏ qua giới hạn của chế độ phân phối theo lao động để tiến hành thực hiện chế độ
phân phối theo nhu cầu (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). lOMoAR cPSD| 48541417
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác đã có dự báo: “Khi mà lao động trở thành
không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của
đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng
ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta
mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi
trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. -
Hai là, về sự tiêu vong của nhà nước trong xã hội cộng sản tương lai.
Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp đã hoàn toàn mất đi, sự hoàn thiện, phát triển của chế
độ dân chủ ở giai đoạn phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa đã tất yếu dẫn tới sự tự tiêu vong của
yếu tố nhà nước trong thượng tầng kiến trúc của xã hội.
Theo V.I. Lênin: “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa là giữa
các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ xã hội của họ
đối với những tư liệu sản xuất xã hội) chỉ lúc đó “nhà nước mới không còn nữa và mới có thể
nói đến tự do”. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thật sự không hạn chế, mới có thể
có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì do dơn giản là
một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự
dã man... thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời sống chung xã hội”. -
Ba là, về các quan hệ xã hội và sự phát triển của con người
Do điều kiện kinh tế - xã hội đã đạt đến mức rất hoàn thiện nên xã hội đã có thể đạt được sự hài
hoà cao độ trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của con người
được nâng lên rất cao. Khi đó con người có đầy đủ những điều kiện cần thiết để mỗi con người
có thể phát triển tự do và toàn diện các năng lực của mình. Đó chính là lúc nhân loại có thể thực
hiện "bước nhảy từ vương quốc của tính tất yếu sang vương quốc của tự do".
Qua phân tích của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế xã
hội cộng sản chủ nghĩa đã cho thấy:
Thứ nhất, chỉ có thể đạt tới giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa khi trong thực tế khách
quan của sự phát triển xã hội đã có được những điều kiện, tiền đề phù hợp. Mọi ý muốn chủ
quan muốn thực hiện ngay những nguyên tắc của giai đoạn cao trong sự phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi chưa có nhiều điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tương
ứng thì nhất định sẽ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và nhất định sẽ thất bại.
Thứ hai, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình
lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi
mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người. Nếu không có quá trình đó cũng không
thể xuất hiện được giai đoạn đó.
Thứ ba, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở
các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu
về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới
chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản
nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa dạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội lOMoAR cPSD| 48541417
cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới
thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên
giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước dân chủ vẫn tồn tại. 4 Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
(1998) đưa ra đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và
phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ
mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
”1.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển
”2.
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa
học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”2.
- Về phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay, chúng ta cần nhấn mạnh hai điểm sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất nước nhưng không phải
là thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mở ra một cuộc chiến đấu mới chống lại nghèo
nàn, lạc hậu
, đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chủ nghĩa yêu nước, sự thông minh và giàu năng lực
sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường là cơ
sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản lĩnh của dân tộc trong quá trình đấu tranh gian khổ, vất
vả, đầy thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khóa VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.54-55.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI, Sđ d, tr.76.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.106. lOMoAR cPSD| 48541417
sung những nội dung mới vào khái niệm yêu nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tư tưởng
cách mạng và tiến bộ của thời đại; giáo dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường
xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính
trị, xây dựng ý chí và bản lĩnh của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu mới này là nhiệm vụ chung
của toàn Đảng, toàn dân ta.
Thứ hai, về hành động, chúng ta phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc
nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo
điều kiện và cơ hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và khoa học
công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Ở đây, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong
trào quần chúng
trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn
kết chặt và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội.
Năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp phát triển văn hoá nước ta là: -
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế- xã hội. -
Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. -
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. -
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. -
Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Năm quan điểm này đều mang tầm chiến lược lâu dài cần quán triệt nhất quán và xuyên
suốt quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. lOMoAR cPSD| 48541417 Kết Luận
Dù bằng hình thức cách mạng nào, đấu tranh bằng bạo lực, đấu tranh nghị trường hoặc
kết hợp cả hai thì sự tất yếu về kinh tế – xã hội đó cũng đang diễn ra một cách nhanh chóng
hơn bao giờ hết. Các nội dung, tiền đề cho một sự đổi thay về lớn lao, có tính chất cách mạng
đa diễn ra trong xã hội tư bản hiện nay. Cho dù vừa qua chế độ xã hội chủ nghĩa có bị sụp đổ
ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở các nước còn lại hiện
nay đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, thì tính tất yếu lịch sử tự nhiên về sự tiến hóa
và phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hiển nhiên.

Các thủ đoạn xuyên tạc, đánh đồng, quy chụp chủ nghĩa phát xít với chủ nghĩa xã hội;
xuyên tạc lý tưởng cộng sản; phủ định tương lai, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản… theo lối mượn danh của các “nhà sử học”, hay vuốt đua, ăn theo, nói leo của những
kẻ cố tình theo đuôi và tán dương chủ nghĩa tư bản cũng không thể nào thay đổi được bản chất
tốt đẹp của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và hiện thực của chủ nghĩa xã hội từ khi ra đời đến nay.