


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857 1
TỪ NHA KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG ĐẾN KHOA RĂNG HÀM MẶT ĐH Y DƯỢC TP
HCM - VÀI NÉT LỊCH SỬ
Trích Kỷ yếu 70 năm Hình thành và Phát triển Đại học Y Dược Tp HCM – Vươn tầm cao mới, 1947 – 2017
“Xây dựng truyền thống không phải là nhắc lại chuyện cũ. Xây dựng truyền thống càng không
phải là nhiệm vụ của những thế hệ già, cũng như viết lịch sử không phải là nhiệm vụ của những
cán bộ đã về hưu, mà xây dựng truyền thống còn là nhiệm vụ của những người trẻ, là nhiệm vụ
của nhiều thế hệ để rút ra những bài học kinh nghiệm của đất nước chúng ta, để hiểu sâu sắc
những việc cũ và để xây dựng cái mới trên cơ sở thực tiễn nhất. Nhớ lại việc cũ để xây dựng việc
mới “ôn cố tri tân” là thế. Và sự nối tiếp các thế hệ, sự kế tục nhiệm vụ cũng là thế, như tác giả
người Pháp Edmond About từng viết” Chúng ta là những người thừa kế của những người đã mất,
người cộng tác với những người đang sống và người hộ mệnh của những người sắp sinh” MỤC TIÊU
- Trình bày sơ lược lịch sử phát triển giáo dục Nha khoa/ Răng hàm Mặt tại TP HCM
- Phân tích đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của Khoa RHM theo diễn biến của tình hình
kinh tế xã hội của đất nước
- Thảo luận về những bài học có thể rút ra từ lịch sử phát triển của Khoa RHM MỞ ĐẦU
Đào tạo Nha khoa chính quy tại Việt Nam bắt đầu từ tháng 10 năm 1939 với sự thành lập Ban Nha
khoa tại Trường Đại học Y Dược Đông Dương ở Hà Nội. Đến năm 1944, khóa đầu tiên tốt nghiệp
với 10 nha sĩ, sau này trở thành những người đã có những đóng góp rất lớn cho việc phát triển
ngành Nha khoa tại Việt Nam, ở những vị trí đầu ngành như GS Nguyễn Dương Hồng ở miền Bắc,
GS Nguyễn Huy Tiếp ở miền Nam. Đến năm 1949, Trường Đại học Y Dược Đông Dương đổi
thành Trường Đại học Y Dược Hà Nội và có một bộ phận được đặt tại Sài Gòn ở số 28 đường
Testard (đổi tên thành đườngTrần Quý Cáp rồi Võ Văn Tần) tại nhà của Bà BS Henriette Bùi
Quang Chiêu. Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết (20 tháng 7, 1954), vào tháng 10 năm 1954,
một số giảng viên và sinh viên Trường Đại học Y Dược Hà Nội vào Sài Gòn, trong đó có nhiều 1 lOMoAR cPSD| 45469857 2
giảng viên của Ban Nha khoa với người phụ trách Ban Giảng huấn lúc bấy giờ là GS Edouard Leriche.
Từ đó, theo dòng thời gian và những biến chuyển về chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước, đào
tạo Nha khoa/RHM đã trải qua nhiều thay đổi để phát triển cho đến ngày nay. Những nét lịch sử
chính được ghi nhận theo ba giai đoạn là: giai đoạn trước 1975, giai đoạn từ 1975 đến 1995 và giai đoạn từ 1995 đến nay.
I/ Giai đoạn trước 1975
Nét nổi bật trong giai đoạn này là trường đã chuyển cơ sở từ bệnh viện Bình Dân về cơ sở hiện nay
ở 652 Nguyễn Trãi, Quận 5.
Giai đoạn ở Bệnh viện Bình Dân (1954 – 1966)
Tháng 5 năm 1955, Ban Nha khoa được giao cho GS Trịnh Văn Tuất phụ trách. Cơ sở giảng dạy
và thực tập đặt tại bệnh viện Bình Dân bao gồm một phòng điều trị với 12 ghế máy nha khoa, một
phòng học và một labô phục hình.
Từ 1955 đến 1963, chương trình đào tạo Nha sĩ quốc gia là chương trình 5 năm, trong đó ở năm
thứ nhất sinh viên học các môn khoa học cơ bản ở Trường Đại học Khoa học (còn gọi là năm PCB,
Physique Chimie Biologie) và một số môn cơ sở Y học chung với sinh viên Y khoa như môn Cơ
thể học được học tại Cơ thể học viện ở đường Trần Hoàng Quân (hiện nay là đường Nguyễn Chí
Thanh). Năm thứ hai chủ yếu dành cho các môn cơ sở Y và cơ sở Nha. Từ năm thứ 3 đến năm thứ
5 sinh viên theo học các môn chuyên ngành Nha được giảng dạy theo khối: Khối Phục hình, Chỉnh
hình do GS E. Leriche phụ trách, Khối Bệnh lý, Phẫu thuật miệng do GS Trịnh Văn Tuất phụ trách
và Khối điều trị răng do GS Nguyễn Huy Tiếp phụ trách. Một số giảng viên người Pháp còn ở lại
giảng dạy trong thời gian đầu như BS Françoise Ruby (Phục hình răng).
Trong giai đoạn này, tuy điều kiện về cơ sở vật chất và nhân sự còn rất thiếu thốn, nhưng Ban Nha
khoa đã đào tạo được nhiều thế hệ nha sĩ trong số đó nhiều người đã gia nhập ban Giảng huấn của
trường và cùng với một số đồng nghiệp tốt nhiệp ở Pháp về, đã có nhiều đóng góp để xây dựng
dần Ban Nha khoa thành một trường Đại học Nha khoa hoàn chỉnh. 2 lOMoAR cPSD| 45469857 3
Nha khoa Đại học đường chính thức được thành lập tại Sắc lệnh số 83/ GD ngày 12/8/1963 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, nhưng đến một năm sau mới tách khỏi Y khoa Đại học đường để
trở thành một trong tám phân khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn lúc đó. GS Nguyễn Huy Tiếp được
bổ nhiệm làm Khoa trưởng thay cho GS Trịnh Văn Tuất (theo Sự vụ lệnh số 1246GD/NV/SVL ngày 9/10/1964).
Vào đầu năm 1963, Chính phủ Việt Nam với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(US Agency for International Development, USAID) khởi công xây dựng một cơ sở mới chung
cho Y khoa Đại học đường và Nha khoa Đại học đường, gọi là Trung tâm Giáo dục Y khoa. Cơ sở
này tọa lạc trên một khuôn viên rộng 15.000 m2 ở Quận 5 với tổng kinh phí xây dựng lên đến 2,7
triệu USD. Trung tâm Giáo dục Y khoa bao gồm 2 tòa nhà 4 tầng nối bằng một hành lang 2 tầng,
có một tòa nhà riêng làm Nhà ăn và Thư viện và một Đại giảng đường 500 ghế. Nha khoa Đại học
đường được sử dụng tầng trệt của tòa nhà phía nam để làm cơ sở giảng dạy và thực hành lâm sàng.
Ngoài Khu điều trị Nha khoa được trang bị 24 bộ ghế máy, có khu khám chẩn đoán, 2 labô thực
tập, 1 labô phục hình, 2 giảng đường với 200 chỗ, các phòng bộ môn và Văn phòng khoa. Ngoài
ra sinh viên Nha có thể dùng chung với sinh viên Y các phương tiện khác của Trung tâm như Thư
viện, Nhà ăn và các phòng thí nghiệm thuộc các môn Y cơ sở. Các sân trường được các sinh viên
Y và Nha dùng chung để chơi thể thao và các môn bóng rổ, bóng chuyền và bóng đá. Đến cuối
năm 1966, cùng với Y khoa Đại học đường, Nha khoa Đại học đường chuyển về cơ sở mới của
Trung Tâm Giáo dục Y khoa với cổng riêng tại số 652 Nguyễn Trãi. Nơi đó vừa là cơ sở giảng dạy
vừa có khu điều trị bệnh nhân cho sinh viên thực hành lâm sàng dưới sự hướng dẫn của các giảng viên.
Giai đoạn ở Trung tâm Giáo dục Y khoa (1967- 1975)
Cùng với việc chuyển Trường sang cơ sở mới, vào năm 1967, Nha khoa Đại học đường thông qua
USAID ký kết hợp tác với Hội Nha khoa Hoa Kỳ (ADA) thực hiện một dự án 5 năm mang tên
Vietnam Dental Education Project (Đào tạo Nha khoa tại Việt Nam) nhằm giúp phát triển Đào tạo
Nha khoa về mặt chất lượng và quy mô đào tạo, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc răng miệng rất
lớn ở miền nam Việt Nam lúc bấy giờ (150 nha sĩ phục vụ cho 17 triệu dân). Trong khuôn khổ dự
án này, ADA huy động nhiều giáo sư hàng đầu của các đại học Nha khoa Hoa Kỳ đến làm việc tại 3 lOMoAR cPSD| 45469857 4
Trường để giúp xây dựng một chương trình đào tạo tiên tiến hơn và bồi dưỡng chuyên môn cho
ban giảng huấn tại chỗ. GS Marvin E. Revzin, Phó Khoa trưởng phụ trách Điều trị ở Đại học Nam
California, USC được ADA chọn làm Trưởng Dự án. Các giáo sư Hoa Kỳ phục vụ cho dự án có
trách nhiệm cùng với các đối tác Việt Nam xây dựng hướng phát triển cho từng bộ môn và nâng
cao năng lực giảng dạy và chuyên môn cho các giảng viên. Trong giai đoạn này, nhiều giảng viên
của trường được đi tham quan, tu nghiệp ngắn hạn và dài hạn tại các trường Đại học Hoa Kỳ và
nhiều cố vấn Mỹ đã luân phiên sang tham gia giảng dạy tại Việt Nam. Qua dự án này các bộ môn
đã được củng cố, hiện đại hóa và một số bộ môn được xây dựng mới.
Phẫu thuật khẩu xoang được phát triển đầu tiên ở Bệnh viện Nguyễn Văn Học (nay là bệnh viện
Nhân dân Gia Định) với GS D. Gibson, GS R. Taylor và NS Đàm Bảo Kiếm. Đến 1973 một đơn
vị phẫu thuật thứ nhì được xây dựng tại BV Sài Gòn với NS Trương Như Sản, NS Trịnh Tuấn và NS Nguyễn Thị Anh Mai.
Theo Nghị định 1761-GDTN/PC/NĐ được Bộ trưởng Lê Minh Trí ký ngày 26/10/1968, chương
trình đào tạo được nâng từ 5 năm lên 7 năm (1 năm Dự bị và 6 năm nha Y khoa trong đó có 2 năm
khoa học cơ bản, 2 năm khoa học thực hành và 2 năm nội trú tại bệnh viện) để nhận bằng Bác sĩ
Nha Y khoa. GS Lâm Văn Mạnh được bổ nhiệm làm Quyền Khoa trưởng từ ngày 14/11/1968.
Để tiến đến việc thực hiện chương trình 7 năm, bên cạnh việc phát triển các môn chuyên ngành,
chương trình đào tạo được tăng cường các môn y cơ sở cho sinh viên Nha. Tuy nhiên, việc phối
hợp giảng dạy và học tập giữa hai Khoa Y và Nha găp nhiều khó khăn do Khoa Y đã quá tải với
các sinh viên của khoa mình. Do đó từ sau 1970 một số môn học Y cơ sở cho sinh viên Nha đã
được đưa sang học ở Viện Pasteur Sài Gòn (Vi sinh, Ký sinh) và khoa Dược (Sinh Hóa).
Trong giai đoạn này, ngoại ngữ Anh rất được chú trọng trong chương trình chính khóa ở năm thứ
1 và 2 để giúp sinh viên tiếp cận được với nguồn tư liệu học tập phong phú bằng tiếng Anh được
cung cấp qua Thư viện và Thư quán và học trực tiếp với các cố vấn Mỹ. Bộ môn Anh văn do Ô.
R. Young làm trưởng bộ môn được sự tham gia của nhiều giáo viên người Mỹ và người Việt Nam
nhằm giúp sinh viên đạt trình độ Medical Proficiency. 4 lOMoAR cPSD| 45469857 5
Trong giai đoạn này, những thay đổi trong chỉ tiêu tuyển sinh, tiêu chuẩn tuyển sinh, đánh giá sinh
viên trong quá trình đào tạo và trong kỳ thi tốt nghiệp được đổi mới, số tốt nghiệp được nâng dần
từ dưới 20 cho đến năm 1971 là trên dưới 50 nha sĩ tốt nghiệp mỗi năm.
GS Nguyễn Văn Thơ được bổ nhiệm làm Khoa trưởng thay cho GS Mạnh theo Quyết định ngày
7/1/1970. Nha khoa Đại học đường đổi tên thành Đại học Nha-Y khoa Sài Gòn theo sắc lệnh số
025/SL/GĐ ngày 31/3/1971 của Thủ tướng chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Bắt đầu từ niên khóa
1970-1971, sinh viên học năm Dự bị tại Trường Đại học Khoa học (chứng chỉ Sinh lý / Sinh hóa)
sau đó mới dự kỳ thi tuyển vào năm thứ hai của Trường Đại học Nha Y khoa thay vì như trước đó,
thi tuyển thẳng vào năm thứ nhất
Năm 1972, khi kết thúc dự án “Đào tạo Nha khoa tại Việt Nam” của USAID - ADA, cơ cấu tổ
chức của trường đã được củng cố và khá hoàn chỉnh với đầy đủ các bộ môn chuyên ngành nha khoa:
- Bộ môn Chữa răng do GS Nguyễn Huy Tiếp làm Trưởng bộ môn, GS Nguyễn Tư Mô làm
Phó Trưởng bộ môn, ngoài ra còn có GS Đinh Thị Tố Nhàn và GS Quản Định phụ trách môn Nội nha.
- Bộ môn Khẩu xoang với GS Trịnh Văn Tuất là Trưởng bộ môn đầu tiên. Tham gia bộ môn
có GS Lê Trọng Phong, BS Tạ Trung Quân, BS Hoàng Cơ Bình, BS Nguyễn Văn Kiều và
GS Hà Thị Hòe. Sau đó bộ môn Bệnh lý miệng tách ra riêng do GS Hà Thị Hòe làm Trưởng bộ môn
- Bộ môn Nhổ răng- Tiểu phẫu thuật do GS Lê Trọng Phong làm Trưởng Bộ môn, tham gia
bộ môn có GS Trương Như Sản, GS Nguyễn Tấn Cơ và GS Nguyễn Văn Đởm.
- Bộ môn Nhương Nha cố định và di động do GS Edouard Leriche làm Trưởng bộ môn phụ
trách chung trong 2 năm 1955- 1956, tham gia bộ môn có BS Trần Văn Thái, GS Tô Huệ
Mỹ, GS Trần Kim Chi. Đến năm 1966, bộ môn tách ra thành 2 bộ môn: bộ môn Nhương
nha di động do GS Trần Công Vàng làm Trưởng bộ môn và bộ môn Nhương nha cố định
do GS LâmVăn Mạnh làm Trưởng bộ môn.
- Bộ môn Nha chu được thành lập năm 1969, đầu tiên do GS Nghiêm Thị Hòa phụ trách và
sau đó GS Lê Văn Tài làm Trưởng bộ môn. 5 lOMoAR cPSD| 45469857 6
- Bộ môn Nha Nhi đồng do GS Phạm Thị Thân làm Trưởng bộ môn.
- Bộ môn Chỉnh nha do GS Edouard Leriche phụ trách đầu tiên, sau đó từ năm 1960 do GS
Nguyễn Văn Thơ làm Trưởng bộ môn. Kế đến có thêm GS Trương Văn Ngọc và GS Nguyễn Kim Nga.
- Bộ môn Giải phẫu răng do GS Tô Huệ Mỹ làm Trưởng bộ môn.
- Bộ môn X-quang do GS Phạm Hy Khang làm Trưởng bộ môn.
Bên cạnh các Giáo sư, có các giảng nghiệm viên chính ngạch và thỉnh giảng từ các cơ sở Dân Y
và Quân Y và các trợ giảng trẻ. Văn phòng Khoa lúc đó có 6 đơn vị hành chánh bao gồm: Học vụ,
Tiếp liệu, Tổng vụ, Nhân sự, Kế toán và Hành chính do Ô. Nguyễn Văn Quyển làm Chánh văn phòng.
Để bổ sung nhân lực cho ngành Nha, vào năm 1972, Trường Cán sự và Tá viên Nha khoa được
thành lập, đào tạo Cán sự Nha khoa theo mô hình Dental Nurse của Tân Tây Lan (chương trình 3
năm) và Tá viên nha khoa (chương trình 6 tháng). NS Nguyễn Thị Vĩnh làm Giám đốc Trường
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chuyên viên phụ trách Nha khoa của Bộ Y tế lúc bấy giờ là NS Nguyễn Thị Tịnh.
Cho đến năm 1975, Trường Đại học Nha Y khoa Sài Gòn đã đào tạo được 20 khóa với tổng số tốt
nghiệp là 314 nha y sĩ quốc gia. Sau khi tốt nghiệp các nha y sĩ được phân công phục vụ ở các cơ
sở dân y và quân y, sau hai năm phục vụ có thể nộp đơn vào Nha sĩ đoàn để xin hành nghề tư nhân.
Như vậy, trong giai đoạn từ 1954 đến 1975, Trường Đại học Nha-Y khoa Sài Gòn là cơ sở duy
nhất đào tạo chuyên viên chăm sóc răng miệng trình độ đại học cho tất cả các tỉnh phía Nam. Chất
lượng giảng dạy của Trường đã được nâng dần để ngang tầm với các trường trong Khu vực và
bằng tốt nghiệp được một số quốc gia công nhận tương đương. Đặc biệt Khu Điều trị của Trường
đã trở thành một cơ sở điều trị răng miệng có uy tín nhờ ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và đảm
bảo chất lượng điều trị cao.
II/ Giai đoạn xây dựng và củng cố Khoa RHM (1975 – 1995)
Sau ngày 30 tháng 4, 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trường Đại học Nha Y khoa được
tiếp quản do Tổ Quân quản của Chính quyền Cách mạng bao gồm BS Nguyễn Trung Trai, BS 6 lOMoAR cPSD| 45469857 7
Hoàng Tử Hùng và YS Huỳnh Thanh Phương. Ngày 5 tháng 5 năm 1975, GS Võ Thế Quang được
bổ sung vào Tổ Quân quản và giữ nhiệm vụ Tổ trưởng. GS Quang là người có nhiều kinh nghiệm
trong quản lý và đào tạo ngành RHM do đã từng đảm nhận nhiều chức vụ lãnh đạo ở Trường Đại
học Y khoa Hà Nội và trong chiến khu, do đó tình hình đã được nhanh chóng ổn định và trường đã
mở cửa vào ngày 12 tháng 6 năm 1975 để đón tiếp sinh viên vào học trở lại. Tháng 10 năm 1975,
thời kỳ quân quản kết thúc, GS Võ Thế Quang được bổ nhiệm phụ trách Trường.
Theo quyết định số 83/CP và 426/TTg ngày 27 tháng 10, 1976, Đại học Nha Y khoa Sài Gòn sáp
nhập với Đại học Y khoa và Đại học Dược khoa thành Trường Đại học Y Dược TP HCM. GS Võ
Thế Quang được bổ nhiệm làm Khoa trưởng Khoa RHM và sau đó làm Phó Hiệu trưởng của
Trường. BS Trần Minh Tâm và BS Võ Văn Đảnh làm Phó Trưởng khoa, BS Hoàng Tử Hùng phụ
trách Giáo vụ và Đoàn Thanh niên.
Từ năm học 1975-1976, Khoa RHM thực hiện chương trình 6 năm đào tạo Bác sĩ Răng Hàm Mặt
thống nhất cho cả nước và tăng quy mô tuyển sinh từ 50 lên đến 80 rồi 100 để đáp ứng nhu cầu
điều trị răng miệng cho các tỉnh phía Nam. Một khó khăn lớn nhất sau ngày thống nhất đất nước
là sự thiếu hụt Ban Giảng huấn. Thầy Quang đã động viên các thầy cô lúc đó còn ở Khoa RHM
tiếp tục làm việc, như GS Nguyễn Huy Tiếp, GS Nguyễn Tư Mô, GS Đinh Thị Tố Nhàn, GS Tô
Huệ Mỹ, GS Phạm Thị Thân, GS Hà Thị Hòe, GS Nguyễn Tấn Cơ, GS Phạm Hy Khang, GS
Trương Văn Ngọc, GS Nguyễn Thanh Trà, GS Trương Cao Đức, GS Hà Văn Trúc … và tuyển
dụng thêm các bác sĩ đã từng làm việc tại Tổng Y viện Cộng hòa và Trung tâm Nha khoa như BS
Đỗ Đức Vĩ, BS Lê Như Thưởng ở Bộ môn Nhổ răng-Tiểu phẫu thuật, BS Nguyễn Cẩn ở Bộ môn
Nha chu, BS Dương Đức Phước ở Bộ môn Phục hình răng, BS Bùi Quế Dương, BS Bùi Duy Đào
ở Bộ môn Chữa răng, BS Phạm Thế Thông ở Bộ môn Chỉnh nha,. Ngoài ra một số bác sĩ từ Hà
Nội và trong chiến khu cũng gia nhập vào đội ngũ giảng dạy như BS Ngô Thị Tuyết, BS Vũ Khoái,
BS Phạm Thị Năm, BS Ngô Văn Nhật, TS Mai Đình Hưng, BS Bùi Xuân Bích Đào, BS Nguyễn Anh Phương…
Từ năm học 1975-1976 đến 1987-1988, Khoa RHM đã từng bước củng cố lại đội ngũ giàng dạy,
hoàn chỉnh chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình của các bộ môn, nâng cao dần chất lượng
đào tạo. Cơ sở vật chất được bổ sung thêm hai khu điều trị cho thực hành lâm sàng của sinh viên 7 lOMoAR cPSD| 45469857 8
(Khu điều trị B và C) và một phòng điều trị ngoài giờ (Phòng số 9) do các cán bộ giảng đảm nhận
để điều trị cho bệnh nhân và tạo thêm nguồn thu nhập cho tập thể cán bộ nhân viện của Khoa.
Trong hai năm học 1978-1979 và 1979-1980, Khoa RHM nhận đào tạo BS RHM cho sinh viên
học hết năm thứ 3 Đại học Y khoa Huế, mỗi khóa 10 sinh viên để chuẩn bị cho Trường đại học Y
Huế mở mã ngành đào tạo RHM
Về mặt đào tạo, có thể kể đến một số thay đổi quan trọng trong giai đoạn này như sau:
- Năm 1976, Ban Kỹ thuật Nhương nha được đổi thành Phòng Kỹ thuật răng giả và CN Trịnh Văn
Sang được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng. Khoa RHM tuyển sinh khóa Kỹ thuật viên Phục hình
răng trung cấp đầu tiên của cả nước theo chương trình đào tạo 3 năm. Từ đó về sau, mỗi năm,
Khoa RHM tuyển sinh 30 học sinh kỹ thuật phục hình răng.
- Bộ môn Phẫu thuật Hàm mặt được thành lập từ tháng 7 năm 1975. Thực tập của sinh viên được
chuyển từ Trung tâm Thực tập Y khoa Gia định và Bệnh viện Saigon sang nơi thực tập mới là
Trung tâm Phẫu thuật tạo hình Barsky được xây dựng thành Trại 52, Viện RHM Việt Nam. GS
Lâm Ngọc Ấn giữ chức Trưởng bộ môn Phẫu thuật Hàm mặt cùng với GS Võ Thế Quang và sau
đó có thêm một số thầy từ trường Y Hà Nội vào như PGS Nguyễn Hoành Đức, PGS Nguyễn Văn
Thụ, BS Nguyễn Anh Phương. Ngoài ra sinh viên còn được thực tập ở Khoa Phẫu thuật Đầu Mặt
Cổ tại BV Bình dân, do GS Phan Ngọc Dương và BS Trần Quang Đôn phụ trách. Năm 1985, khi
Trung tâm Ung Bướu TP HCM được xây dựng, sinh viên RHM thực tập Bệnh lý miệng tại Khoa
Ung thư Đầu cổ của Trung tâm và được học về ung thư hốc miệng với GS Nguyễn Chấn Hùng.
Tại các bệnh viện này, sinh viên RHM có dịp tiếp xúc và học cách xử trí các bệnh lý hàm mặt phổ biến.
- Thực hiện phương châm “gắn nhà trường với xã hội”, hàng năm Khoa RHM tổ chức cho cán bộ
giảng và sinh viên đi thực tế ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong khoảng nửa tháng vào
dịp hè. Ngoài ra, sinh viên năm thứ 6 sau khi tốt nghiệp được phân công công tác tại các địa
phương, làm việc trong hai năm trước khi nhận bằng tốt nghiệp.
- Từ năm 1976, một số cán bộ giảng trẻ của Khoa RHM được cử theo học các môn Y học cơ sở để
xây dựng bài giảng cho các môn cơ sở RHM như: BS Trần Thiên Lộc và BS Ngụy Thị Thanh
Vân ở Bộ môn Phục hình răng theo học chứng chỉ Sinh lý động vật ở Khoa Sinh Trường Đại học 8 lOMoAR cPSD| 45469857 9
Khoa học, BS Hoàng Uyển Hằng và BS Huỳnh Anh Lan ở Bộ môn Bệnh lý miệng theo học lớp
Sơ bộ chuyên khoa Giải phẫu bệnh của Khoa Y, BS Hoàng Tử Hùng và BS Việt Minh Chánh theo
học môn Giải phẫu đầu mặt cổ ở Bộ môn Giải phẫu Khoa Y, BS Phạm Lê Hương, BS Lê Đức
Lánh, BS Ngô Lê Thu Thảo thực tập ở Bộ môn Mô Phôi của Khoa Y, BS Nguyễn Thị Hương học
ở Khoa Hóa Đại học Bách khoa và BS Ngô Thị Quỳnh Lan học ở Khoa Hóa Đại học Tổng hợp để
chuẩn bị giảng dạy môn Vật liệu nha khoa. Như thế là Bộ môn Nha Khoa cơ sở được hình thành
và hoàn chỉnh dần với các phân môn: Giải phẫu răng, Cắn khớp, Vật liệu nha khoa, Mô phôi răng
miệng và Sinh học miệng.
- Từ năm 1976 để tăng cường kiến thức về các môn Y lâm sàng, sinh viên RHM được tổ chức đi
luân khoa về Nội, Ngoại, Sản, Nhi, Tai Mũi Họng, Da liễu, Đông Y tại các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa của TP HCM.
- Vào năm 1982, Bộ môn Nha khoa Tổng quát được thành lập do GS Nguyễn Tấn Cơ, kế đến là
BS Đào Thị Hồng Quân và BS Trần Đức Thành phụ trách. Bộ môn tổ chức thực hành lâm sàng
Nha khoa tổng quát cho sinh viên năm thứ 6 với sự tham gia của nhiều bộ môn lâm sàng để tạo
điều kiện cho sinh viên xử trí bệnh nhân một cách tổng thể, tương tự như lúc hành nghề sau này.
Đến năm 1992, thực hành Nha khoa Tổng quát được đưa về bộ môn Nha khoa công cộng phụ trách cho đến năm 1998.
- Trong tình hình các bệnh răng miệng nhất là bệnh sâu răng và bệnh nha chu có tỷ lệ cao ở TP
HCM và các tỉnh phía Nam, BS RHM cần được trang bị các kỹ năng để dự phòng các bệnh răng
miệng cho cộng đồng. Để chuẩn bị cho việc giảng dạy Nha khoa dự phòng và Nha khoa công cộng
BS Đào Thị Hồng Quân được cử sang Khoa Nha Đại học UCSF ở Hoa Kỳ để tìm hiểu về chương
trình giảng dạy môn học này. Bộ môn Nha khoa Công cộng được thành lập từ năm 1988, do BS
Đào Thị Hồng Quân làm Chủ nhiệm bộ môn. Chương trình đào tạo bao gồm 3 học phần: Nha khoa
công cộng, Nha khoa phòng ngừa và Nha khoa tổng quát (từ năm 1992). Sinh viên được tổ chức
đi thực tập tại các trường tiểu học và mầm non ở các Quận huyện TP HCM. Khoa RHM là nơi đầu
tiên xây mô hình Nha học đường tại Trường Tiểu học Minh Đạo, Quận 5.
- Bên cạnh đó, do ý thức sâu sắc nhu cầu phòng bệnh sâu răng cho dân cư của TP HCM nên GS
Quang đã tìm hiểu và vận động các cấp chính quyền của Thành phố cho phép triển khai việc 9 lOMoAR cPSD| 45469857 10
Fluor hóa nước máy từ đầu năm 1990. Cũng trong thời gian đó, ở cương vị vừa là Khoa trưởng
vừa là Giám đốc Bệnh viện RHM trung ương tại TP HCM và Trưởng Đầu ngành RHM, GS Võ
Thế Quang đã xây dựng và cho triển khai chương trình Nha học đường trên cả nước.
- Để phục vụ cho việc xây dựng tài liệu giảng dạy, quyển Thuật ngữ RHM được xuất bản năm
1979, sau nhiều buổi họp hàng tuần Ban thuật ngữ với các thầy cô của Khoa RHM và hai lần họp
thống nhất với các thầy cô đầu ngành từ Hà Nội vào. GS Quang là chủ biên của quyển Thuật ngữ
thống nhất này với phần Anh Việt, Pháp Việt và Việt Anh Pháp được biên soạn rất công phu.
- Từ năm 1976, Khoa RHM bắt đầu đào tạo hệ nội trú Răng Hàm Mặt. Đến năm 1985, các chương
trình đào tạo sau đại học được triển khai dần để đào tạo Bác sĩ Chuyên khoa cấp I, II RHM và
Bác sĩ Chuyên khoa Phẫu thuật Hàm Mặt theo hệ nội trú tại bệnh viện. Sau đó Khoa RHM được
phép nhận nghiên cứu sinh để bắt đầu đào tạo tiến sĩ.
-Về mặt hợp tác quốc tế, Khoa bắt đầu rất sớm những quan hệ hợp tác với nước ngoài:
- Đoàn bác sĩ Việt kiều Pháp đầu tiên đến vào năm 1978 gồm có BS Võ Văn Phi Phụng, BS Ngô
Thuần Phương và BS Tôn Thất Nam.
- Tháng 11 năm 1979, sau ngày giải phóng Campuchia (7/1/1979) đoàn Bộ Y tế Campuchia với
BS Vit Kim Sen đến thăm khoa và tháng 9 năm 1980, GS My Samedy, hiệu trưởng ĐH Y Dược
Campuchia đề nghị Khoa RHM giúp đào tạo BS RHM cho Campuchia. Từ đó cho đến 1985, các
cán bộ giảng của khoa RHM được cử luân phiên giảng dạy tại Phnom Penh để bồi dưỡng nâng cao
cho hơn 40 BS trong số đó nhiều ngươi đã trở thành những lãnh đạo của ngành y tế và ngành RHM ở Campuchia
- Vào tháng 4 năm 1980, lần đầu tiên một đoàn giáo sư Pháp thuộc Trưởng Đại học Paris VII với
Khoa trưởng là GS Guy Penne đền thăm và làm việc với khoa RHM. Năm 1981, GS Marcel
Gaspard, của ĐH Paris V sang tham gia hội nghị khoa học và trình bày nhiều đề tài nghiên cứu về
giải phẫu hình thái và chức năng. BS Simone Gauvent Geneix của Ordre de Malte đến thăm khoa
vào năm 1981, và đến năm 1985 tặng cho Thư viện khoa RHM hàng trăm quyển sách giáo khoa
bằng tiếng Pháp. Kế đến, năm 1989, BS Jean Jacques Pelosse với hội AEMTM đến giúp Khoa
RHM, giới thiệu phương pháp chỉnh nha cố định lần đầu tiên tại Việt Nam và cho một số vật liệu 10 lOMoAR cPSD| 45469857 11
cho Bộ môn Chỉnh nha. Hội AOI với BS Philippe Darroze đã giúp Khoa trang bị một bộ ghế máy
nha khoa mới cho phòng điều trị giành cho giảng viên.
- Năm 1980, GS Judith Ladinsky, Chủ tịch và BS William Eisman, Tổng thư ký Tiểu Ban Y tế của
Hội đồng hợp tác khoa học Hoa Kỳ với Việt nam (US Committee for Scientific Cooperation with
Vietnam) giúp khoa RHM nối nhịp cầu với khoa Nha Đại học UCSF. BS Eisman là người luôn tận
tình hỗ trợ cho Khoa RHM và sau khi mất đã di chúc tặng lại số tiền 50.000 USD.
-Vào năm 1985, Trưởng Văn phòng Sức khỏe Răng miệng Khu vực Tây Thái Bình Dương của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), BS Wong Hee Deong sang dự Hội thảo phòng bệnh răng miệng toàn
quốc do WHO bảo trợ. Hội thảo được tổ chức tại Khoa RHM, có sự tham gia của GS Marcel
Gaspard, BS Lý Thanh Tòng một giảng viên của ĐH Bordeaux II chuyên về phân tích Fluor trong
thiên nhiên. Hội thảo này đã khởi đầu cho việc chuẩn bị triển khai chương trình Fluor hóa nước
máy TP HCM vào đầu năm 1990.
- Năm 1990, khi còn trong thời kỳ cấm vận và rất thiếu thốn về trang thiết bị nha khoa, Hội Aide
Dentaire au Vietnam (ADV) với chủ tịch là BS Dương Minh Đức đã trang bị toàn bộ ghế máy
thiết bị (đã qua sử dụng nhưng vẫn còn tốt) cho khu điều trị 3 của Khoa RHM là Khu điều trị vừa
được Khoa xây dựng mới. Khu điều trị này được đưa vào hoạt động từ ngày 15 tháng 8, 1992,
dưới sự điều hành của BS Phan Thị Thanh Xuân và được dùng vừa là cơ sở thực tập cho sinh
viên vừa để điều trị miễn phí cho bệnh nhân nghèo với dụng cụ vật liệu được hội ADV viện trợ hàng năm.
- Một chương trình hợp tác liên đại học quy mô lớn và bền lâu giữa Khoa RHM và một số khoa
Nha các trường Đại học Pháp bắt đầu vào năm 1990 với Hội nghị Pháp Việt lần thứ I có sự tham
dự của GS Jean Louis Brouillet và André Faucher của Đại học Aix Marseille II. Chương trình
hợp tác này được mở rộng sang nhiều trường khác như Bordeaux, Strasbourg, Rennes, Lille,
Nice… với chương trình đào tạo theo chuyên đề được cấp bằng liên đại học (DIU) được phía
Pháp công nhận. Hiện nay các DIU vẫn được duy trì dưới sự điều phối của BS Jean Francois
Lasserre. Bên cạnh đó Hội nghị RHM Việt Pháp được tổ chức hai năm môt lần, cho đến năm
2018 đã được tổ chức lần thứ 15.
- Đặc biệt vào năm 1992, Khoa RHM đã nhận sự hỗ trợ quý báu của GS Nguyễn Thành Nguyên,
từng là trưởng bộ môn Nội nha ở trường UCSF trong nhiều năm. GS Nguyên đã hỗ trợ rất nhiều 11 lOMoAR cPSD| 45469857 12
Khoa RHM trong việc giảng dạy Nội nha và là cầu nối để kết nạp hội viên Việt Nam vào hai hội
Hàn lâm Nha khoa quốc tế là Hội ADI (1994) và hội ICD (1998).
- Vào năm 1993, BS Jean Darcel thành lập Hội APBV (Association de Parodontologie Bretagne
Vietnam) để giúp phát triển bộ môn Nha chu qua nhiều đợt đào tạo liên tục và hỗ trợ trang thiết
bị chuyên môn. Môn Cắn khớp học được GS Hoàng Tử Hùng khởi xướng cùng với sứ đóng góp của GS Jose Abjean.
Cơ cấu tổ chức nhân sự trong giai đoạn này gồm có
- Ban Lãnh đạo Khoa RHM với GS Võ Thế Quang làm Trưởng Khoa (1975- 1994). Ở chức vụ
Phó Trưởng khoa có BS Võ Văn Đảnh (1977- 1981), BS Trần Minh Tâm (1978 – 1989), PGS
Lâm Ngọc Ấn (1977 – 2003). Kế đến có các Phó Trưởng khoa là BS Nguyễn Anh Nam (1984- 1987),
Ông Nguyễn Trước (1987 – 1988), ThS Lê Văn Chánh (1989 – 2008), BS Huỳnh Anh Lan (1989
– 2009), BS Hoàng Tử Hùng (1990 – 1995).
- Đảng bộ Khoa RHM có Chi Bộ Cán bộ công nhân viên và Chi Bộ sinh viên. Về mặt Đoàn thể,
có Đoàn Thanh niên Cộng sản và Công đoàn cơ sở.
- 12 bộ môn với các Trưởng Phó bộ môn như sau: BS Hoàng Tử Hùng (Nha khoa cơ sở), GS Phạm
Hy Khang, BS Trần Đạt Nghĩa, BS Ngô Văn Nhật (Tia X), GS Hà thị Hòe, BS Huỳnh Anh Lan
(Bệnh lý miệng), PGS Lâm Ngọc Ấn (Phẫu thuật Hàm mặt) , BS Trương Văn Ngọc (Chỉnh hỉnh
Răng mặt), GS Nguyễn Tấn Cơ, BS Đỗ Đức Vĩ (Nhổ răng Tiểu phẫu thuật), GS Phạm Thị Thân,
BS Dương Tuyết Vân, BS Phạm Thị Năm, BS Trần Thúy Nga (Răng trẻ em), GS Nguyễn Huy
Tiếp, GS Nguyễn Tư Mô, GS Đinh Thị Tố Nhàn, BS Bùi Quế Dương (Chữa răng Nội nha), TS
Nguyễn Cẩn (Nha chu), BS Ngô Thị Tuyết, TS Huỳnh Khắc Thiện, BS Trần Thiên Lộc (Phục
hình), BS Đào Thị Hồng Quân (Nha khoa công cộng), CN Trịnh Văn Sang (Kỹ thuật phục hình răng)
- Các ban chức năng bao gồm: Ban Hành chánh Quản trị do Ông Nguyễn Trước làm trưởng ban,
Ban Kế toán Tài vụ do Bà Đặng Thị Hà kế đến là Bà Nguyễn Thị Điểm làm trưởng ban, Ban
Giáo tài do BS Võ Văn Quý, Bà Nguyễn Thị Hạnh, DS Phạm Thị Hoàng, Ô Nguyễn Hữu Tấn
làm trưởng ban, Ban Quản lý Đào tạo do BS Trần Thanh Văn kế đến là BS Nguyễn Trường Thành 12 lOMoAR cPSD| 45469857 13
làm trưởng ban, Ban Tổ chức cán bộ do Ô Nguyễn Thành Công kế đến là bà Nguyễn Thị Định,
BS Nguyễn Việt Tuyết là trưởng ban. Tiểu ban Nghiên cứu khoa học và Thư viện trực thuộc ban
Chủ nhiệm do BS Đỗ Đức Vĩ kế đến là BS Lương Văn Tô My, BS Võ Chí Hùng phụ trách, Cô
Nguyễn Thị Diệu kế đến Cô Huỳnh Lệ Tâm phụ trách thư viện.
Các Khu điều trị do BS Nguyễn Tiến Tâm, BS Nguyễn Quang Bảo, BS Phan Thị Thanh Xuân phụ
trách. Labô Kỹ thuật Phục hình răng do CN Trịnh Văn Sang phụ trách.
Giai đoạn phát triển và hội nhập (1995 – 2017)
GS Hoàng Tử Hùng được bổ nhiệm làm khoa trưởng vào năm 1995, cho đến 2010, PGS Lê Đức
Lánh kế nhiệm và đến 2013 là PGS Ngô Thị Quỳnh Lan. Khoa RHM tiếp tục phát triển và củng
cố những thành quả đã đạt được trong giai đoạn trước, mở rộng quy mô đào tạo, nâng cấp cơ sở
vật chất để tiến tới hội nhập vào Khu vực và quốc tế.
Về mặt đào tạo trong giai đoạn này có thể ghi nhận một số điểm đáng lưu ý như sau: -
Năm 1998, bộ phận đào tạo Y sĩ răng Trẻ em thuộc trường Trung học Kỹ thuật Y tế 3 sáp
nhập vào Khoa RHM thành Bộ Môn Điều dưỡng với BS Lâm Hữu Đức làm trưởng bộ môn. Tiền
thân của bộ môn là Ngành Nha học đường do BS Trần Hồng Nhung phụ trách từ 1975 dưới sự chỉ
đạo về chuyên môn của GS Võ Thế Quang. Và năm 2003, chương trình 3 năm đào tào Y sĩ RTE
được rút xuống còn 2 năm đào tạo Điều dưỡng nha khoa để phù hợp với mô hình đào tạo điều dưỡng chung toàn quốc. -
Năm 2002, Khoa RHM bắt đầu đào tạo Cử nhân Kỹ thuật Phục hình răng, tuyển sinh 30
sinh viên mỗi năm. Bộ môn Kỹ thuật Phục hình răng được bổ sung thêm nhân sự để đảm đương
song song hệ trung cấp Kỹ thuật PHR và hệ đại học Cử nhân KT PHR. Khoa RHM là cơ sở đầu
tiên và duy nhất trong cả nước đào tạo loại hình Cử nhân này. -
Qui mô đào tạo của Khoa RHM ngày càng tăng về số lượng học viên và loại hình đào tạo
nhất là đào tạo Sau Đại học. Số sinh viên Khoa tiếp nhận mỗi năm lên đến hàng ngàn với tất cả
các loại hình đào tạo thuộc ngành RHM từ bậc trung học (Kỹ thuật viên PHR, Điều dưỡng nha
khoa) đến đại học (BS RHM, CN PHR) và sau đại học (BS nội trú, BS CKI, BS CKII, Thạc sĩ và Tiến sĩ (từ 1997)). 13 lOMoAR cPSD| 45469857 14 -
Chương trình đào tạo BS RHM 6 năm được cập nhật thường xuyên. Khung chương trình
đào tạo BS RHM được xây dựng lại vào năm 2012. Gần đây nhất, vào năm 2015, để thực hiện
thỏa thuận công nhận lẫn nhau (Mutual Recognition Arrangements - RMA) giữa các nước ASEAN.
Khoa RHM được Bộ Y tế ủy nhiệm phối hợp với Viện Đào tạo RHM của ĐH Y Hà Nội soạn thảo
Chuẩn năng lực cho BS RHM Việt Nam (với sự hỗ trợ của chuyên gia về đào tạo nha khoa của
khu vực Đông Nám Á, GS Krassanai Wangranshimakul). Căn cứ trên bộ chuẩn năng lực này, Khoa
RHM xây dựng chương trình đào tạo dựa trên năng lực, nằm trong Dự án Đối mới chương trình
và phương pháp Đào tạo do Bộ Y tế chủ trì (dự án HPET).
Cơ sở vật chất được mở rộng thêm rất nhiều để tiếp nhận số sinh viên ngày càng đông hơn. Thực
hành lâm sàng được triển khai tại 5 khu điều trị và các đơn vị ghế máy cũ được thay mới dần. Khu
Vô trùng Trung tâm được hội ADV hỗ trợ trang bị ban đầu được tăng cường thêm thiết bị với kinh
phí từ Dự án ADB. Ngoài ra dự án này đã hỗ trợ cho Khoa khá nhiều thiết bị cho Khu Lâm sàng,
Tiền Lâm sang và labô Phục hình răng. Một labô tiền lâm sàng được trang bị ban đầu với 40 đơn
vị mô phỏng do TS Nguyễn Cẩn xin từ các trường đại học nha khoa ở Tokyo nay đã phát triển
thành Khu thực hành Tiền lâm sàng Nha khoa. Năm 1998, Bộ Y tế công nhận Trung tâm Nha khoa
phục hồi chất lượng cao là một trong 6 đơn vị thuộc Trung tâm Y tế chuyên sâu của ĐH Y Dược
TP HCM. Một labô Cấy ghép nha khoa được trang bị với những thiết bị nha khoa và nghe nhìn tối
tân cho thực hành tiền lâm sàng về implant là kết quả vận động của GS Hoàng Tử Hùng với tập
đoàn Nobel Biocare. Đến năm 2012, Khoa RHM được giao một tầng trong toà nhà 15 tầng của
Trường Đại học Y Dược để làm cơ sở giảng dạy, thực tập và nghiên cứu. Khu điều trị lâm sàng
được trang bị thêm 20 ghế máy nha khoa nâng tổng số ghế máy lên đến 100. Sau môt quá trình
hợp tác lâu dài với Khoa Nha Đại học Hiroshima với sự ủng hộ của GS Takashi Takata, đến năm
2016, lần đầu tiên Khoa RHM xây dựng các labo nghiên cứu, đó là labô Giải phẫu bệnh Răng Hàm
Mặt (trực thuộc bộ môn Bệnh học miệng) và labô Sinh học miệng và hàm mặt (trực thuộc Bộ môn
Nha khoa cơ sở). với sự hỗ trợ trang thiết bị ban đầu, đáng chú ý là 30 kính hiển vi, từ ĐH
Hiroshima, Nhật Bản. Đây là những labo nghiên cứu về RHM đầu tiên trong hệ thống các đơn vị
đào tạo RHM trong cả nước, đánh dấu định hướng phát triển nghiên cứu cơ sở của Khoa.
Đội ngủ giảng dạy của Khoa được nâng cấp dần với nhiều giảng viên trẻ được đào tạo lấy bằng
thạc sĩ và tiến sĩ trong nước và nước ngoài (Pháp, Nhật, Thái Lan…). Các bộ môn được củng cố 14 lOMoAR cPSD| 45469857 15
và thế hệ giảng viên được đào tạo sau 1975 thay thế dần ở cương vị trưởng phó bộ môn như: PGS
TS Ngô Thị Quỳnh Lan, PGS TS Nguyễn Thị Kim Anh (Nha khoa cơ sở), PGS Lê Đức Lánh, hiện
nay là TS Nguyễn Thị Bích Lý (Phẫu thuật miệng), BS CKII Trần Giao Hòa, sau đó là ThS Hà
Thị Bảo Đan và hiện nay là TS Nguyễn Thị Bích Vân (Nha chu), BSCKII Trần Thiên Lộc, kế đến
là ThS Nguyễn Thị Bích Thủy, TS Lê Hồ Phương Trang, hiện nay là ThS Nguyễn Hiếu Hạnh, TS
Đoàn Minh Trí (Phục hình), ThS Dương Tú Hạnh, GS Hoàng Tử Hùng, ThS Đinh Thị Khánh Vân,
và PGS TS Phạm Văn Khoa (Chữa răng- Nội nha), BS CKII Huỳnh Anh Lan kế đến là PGS TS
Nguyễn Thị Hồng, TS Võ Đắc Tuyến (Bệnh học miệng), PGS TS Đống Khắc Thẩm, kế đến là TS
Hồ Thị Thùy Trang (Chỉnh hình Răng mặt), PGS Lâm Hoài Phương, BS CKII Trần Công Chánh,
ThS Bùi Hữu Lâm kế đến là TS Hồ Nguyễn Thanh Chơn (Phẫu thuật hàm mặt), BSCKII Đào Thị
Hồng Quân kế đến là BSCKII Trần Đức Thành, TS Hoàng Trọng Hùng (Nha khoa công cộng), TS
Trần Thúy Nga kế đến là ThS Nguyễn Thị Thanh Yên, hiện nay là TS Phan Ái Hùng (Răng Trẻ
em), BS CKII Lâm Hữu Đức kế đến là BSCKII Nguyễn Trường Sơn, BS CKII Nguyễn Trọng
Phúc, hiện nay là ThS Trương Hải Ninh (Điểu dưỡng nha khoa), BS Lương Văn Tô My, TS
Nguyễn Văn Lân và TS Lâm Đại Phong (Chẩn đoán hình ảnh RHM), CN Trịnh Văn Sang kế đến
là CN Nguyễn Quang Tỳ, ThS Đào Ngọc Lâm (Kỹ thuật Phục hình răng). Bộ môn Cấy ghép Nha
khoa được thành lập vào năm 2010 với PGS TS Lê Đức Lánh và sau đó TS Võ Chí Hùng, TS Phạm Thị Hương Loan.
Hợp tác quốc tế: Trong giai đoạn này, mối quan hệ với khối Pháp ngữ được phát triển hơn nữa
sau khi Hợp tác giữa AUF (Agence Universitaire de la Francophonie) và Khoa RHM được ký kết
vào năm 1995. Qua hợp tác này, sự trao đổi liên đại học được tăng cường, các sinh viên theo học
chương trình Pháp ngữ có nhiều cơ hội học bổng, nhiều giảng viên của Khoa được bồi dưỡng
chuyên môn tại Pháp. Một số bác sĩ trẻ được theo học các chương trình cao học, tiến sĩ, chuyên
khoa tại các đại học Marseille, Bordeaux, Strasbourg,.. Từ năm 1995, GS Jean Louis Brouillet (ĐH
Marseille) đã tập họp các trường đại học Pháp có chương trình hợp tác với Khoa RHM và từ năm
1999 đã thành lập một Hội đồng điều phối các trao đổi trong lĩnh vực RHM với Việt Nam
(CCFEOV). Từ đó các lớp DIU (Diplôme Inter-universitaire) dưới sự điều phối của BS Jean
Francois Lasserre (ĐH Bordeaux) được tổ chức đều đặn tại Khoa RHM và được sự công nhận của
các đại học Pháp. Các lớp này quy tụ các giáo sư hàng đầu của các đại học Pháp ngữ về những
chuyên ngành mũi nhọn của RHM và đã góp phần đáng kể để cập nhật kiến thức và nâng cao kỹ 15 lOMoAR cPSD| 45469857 16
năng thực hành cho các học viên trong và ngoài trường. Bắt đầu từ năm 1990, các hội nghị RHM
Việt Pháp được tổ chức mỗi 2 năm một lần tại Khoa RHM đã trở thành truyền thống của ngành
RHM Việt Nam (đến năm 2018 đã có 15 hội nghị). Đặc biệt, GS Corinne Taddei và BS Jean
Nonclercq của ĐH Strasbourg đã hỗ trợ trong suốt thời gian từ 1990 cho đến nay cho Bộ môn Phục
hình. Ngoài ra hợp tác quốc tế được mở rộng sang nhiều nước khác như: với khối ASEAN sau khi
gia nhập các hội nghiên cứu khoa học (IADR- SEA) và đào tạo (SEAADE) của khu vực; với Úc
đặc biệt với trường Adelaide qua sự giới thiệu của GS Ngô Hiền và GS Graham Mount; với Nhật
qua trường Tokyo Medical Dental University (TMDU), trường Hiroshima (HU), trường Aichi
Gakuin, sau đó là các trường Kyushu, trường Niigata, là những nơi nhận nhiều nghiên cứu sinh từ
Khoa RHM, có những chương trình hợp tác nghiên cứu, trao đổi giảng viên/ sinh viên và hỗ trợ
trang thiết bị cho Khoa RHM; với Canada qua trường British Columbia tại Vancouver (UBC) có
chương trình hợp tác lâu dài với Bộ môn Bệnh học miệng nghiên cứu về ung thư hốc miệng; với
Hoa Kỳ qua trường UCSF và sau này trường Washington trong lĩnh vực Nha khoa công cộng; với
Thái Lan qua trường Mahidol, Chulalongkorn và Khon Kaen là những trường nhận đào tạo thạc
sĩ, tiến sĩ cho Khoa RHM và rất tích cực trong việc trao đổi giàng viên và sinh viên đặc biệt sau
khi hình thành Hợp tác Nha khoa trong tiểu vùng sông Mekong (IDCMR); với Hàn quốc qua
trường Chosun và gần đây là với trường Pusan.
Vào các năm 1994 và 1998, được sự dẫn dắt của GS Nguyễn Thành Nguyên, Hội Hàn lâm Nha
khoa thế giới (ADI) và Hội Nha sĩ danh dự thế giới (International College of Dentists - ICD) kết
nạp nhiều hội viên Việt Nam trong đó các giảng viên của Khoa RHM chiếm một phần lớn. Hội
này thường xuyên hỗ trợ cho các hội nghị Đào tạo liên tục của Khoa cho đến ngày nay. Vào năm
2005, qua sự kết nối của Hội ADI, BS Lâm Ngọc Châu đã vận động các nha sĩ Việt Nam tại Hoa
Kỳ tặng hàng trăm đầu sách giáo khoa cho Thư viện Khoa RHM. Một số khóa đào tạo chuyên
ngành mang tính hệ thống được Tổ chức HVO (Health Volunteers Overseas) thực hiện trong nhiều
năm liên tiếp trong lĩnh vực Chỉnh hình Răng mặt với các chuyên gia như GS Haskell Gruber, BS
Neil Kay, GS Marc Retrouvey và trong lĩnh vực Nha khoa công cộng với GS Martin Hobdell, GS
Colman McGrath… Hiện nay chương trình đào tạo Chỉnh hình răng mặt vẫn đang tiếp tục với sự
hỗ trợ của BS Neil Kay để giúp cho BS RHM Việt Nam có cơ hội và đủ điều kiện gia nhập các hội Chỉnh nha quốc tế. 16 lOMoAR cPSD| 45469857 17
Là cơ sở đào tạo RHM lớn nhất ở miền Nam và cả nước, Khoa RHM đã hỗ trợ xây dựng và giảng
dạy cho Khoa RHM nhiều trường được thành lập sau 1995 như các Khoa RHM ĐH Cần Thơ,
trường ĐH Y Huế, trường Đại họ Y Tây nguyên, trường ĐH Y Hải Phòng, trường ĐH Y Thái
Nguyên, trường ĐH Trà Vinh, Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế TP HCM (nay là ĐH
Y khoa Phạm Ngọc Thạch), các Trường Cao đẳng Y tế Hải Dương (nay là trường ĐH Kỹ thuật Y
tế Hải Dương, Đà Nẵng, Kiên Giang, Tây Nguyên…
Công tác nghiên cứu khoa học được đi vào nề nếp với việc xác định một số trục nghiên cứu của
Khoa. Hội nghị Khoa học và Đào tạo liên tục tháng 4 của Khoa RHM (cho đến năm 2016 là lần
thứ 37) đã trở thành một sự kiện được đông đảo đồng nghiệp trong nước hưởng ứng và dần có
tiếng vang ra ngoài biên giới. Hội nghị Việt Pháp tổ chức 2 năm một lần trở thành sự kiện khoa
học lớn của cả nước thu hút hàng ngàn người tham dự. Từ 1996, Khoa RHM xuất bản đều đặn mỗi
năm một lần quyển “Kỷ yếu công trình Nghiên cứu khoa học RHM”, cho đến năm 2010, chuyển
qua đăng trên Tạp chí Y học TP HCM. Bên cạnh đó, quyển tài liệu đào tạo liên tục RHM “Cập
nhật Nha khoa” ra đời lần đầu năm 2006, được xuất bản mỗi năm từ một đến hai kỳ cho đến nay.
Chương trình đào tạo liên tục và các đợt đào tạo cấp chứng chỉ chuyên sâu cho các bác sĩ làm việc
tại TP HCM và các tỉnh lân cận ngày càng khẳng định giá trị học thuật, kỹ năng tay nghề thực tế
và thu hút rất đông các bác sĩ đăng ký tham dự.
SINH VIÊN CỦA KHOA RHM
Sinh viên đã và mãi là trung tâm của nhà trường. Qua quá trình hình thành và phát triển nhà trường,
các thế hệ sinh viên Nha Y khoa - Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy
truyền thống của các thế hệ đi trước. Sinh viên luôn thể hiện sức mạnh của tuổi trẻ trong mọi hoạt
động học tập, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Trong giai đoạn trước 1975, các hoạt động của tổ chức sinh viên độc lập với các ban giám hiệu
nhà trường. Sinh viên của mỗi trường bầu ban đại diện của trường mình và tham gia Ban Đại diện
Y Nha Dược và Tổng Hội sinh viên Sài Gòn. Từ những năm 1960, Ban Đại diện sinh viên Nha
khoa tham gia phong trào đầu tranh rất sôi nỗi của sinh viên Y Nha Dược. Từ 1960- 1967 là giai
đoạn chuyển biến về học thuật y khoa, phòng trào sinh viên vận động chuyển ngữ Việt và dãy
Đông Tây Y kết hợp. Đến niên học 1967 – 1968 phần lớn các môn học được dạy bằng tiếng Việt.
Từ 1967 – 1971 Thầy và trò các trường thực hiện phong trào vận động tự trị Đại học với hai mục 17 lOMoAR cPSD| 45469857 18
tiêu: xây dựng nền y học Việt mới và chống chính sách của chính phủ Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh
tại Việt Nam. Năm 1971, Đoàn công tác y tế sinh viên Y Nha Dược được thành lập tổ chức nhiều
hoạt động xã hội tại các khu dân cư nghèo vừa khám chữa bệnh miễn phí vừa vận động quần chúng theo cách mạng.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Liên Chi hội Sinh viên Giải phóng Y Nha Dược và Đại học xá
Minh Mạng giúp nhà trường ổn định tổ chức để khai giảng lại. Các sinh viên được kết nạp vào Hội
sinh viên Giải phóng và tiếp tục rèn luyện để gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Ban Chấp hành Đoàn TNCS HCM trường Đại học Y Dược Nhiệm kỳ I được thành lập vào năm
1977 và cho đến nay đã là Nhiệm kỳ XVIII.
Từ ngày Giải phóng đến nay, tự hào về truyền thống của trường, trân trọng những đóng
góp của các thế hệ sinh viên đi trước, sinh viên Răng Hàm Mặt luôn ra sức phấn đấu để giữ vững
uy tín và truyền thống tốt đẹp cho nhà trường.
Với tinh thần truyền thống “Học hết sức, chơi hết mình”, sinh viên RHM đã tổ chức nhiều
hoạt động sôi nổi. Lễ hội ẩm thực và Lễ kết nghĩa giữa sinh viên năm I và năm II được tổ chức vào
tháng 10, 11 hàng năm được thiết kế và thực hiện một cách chuyên nghiệp, quy mô hoành tráng và
với nhiều tiết mục văn nghệ rất đặc sắc “Răng Hàm Mặt”. Hội trại truyền thống tổ chức vào tháng
3 hàng năm là khóa học dã ngoại, cơ hội để sinh viên thỏa sức thể hiện mình với những tiết mục
thể thao sôi nổi, văn nghệ hài hước và đậm chất sinh viên. Lễ Kết nghĩa và hội trại hàng năm còn
có sự tham gia của giảng viên và cựu sinh viên, là dịp giao lưu giũa các thế hệ sinh viên Răng Hàm
Mặt, cơ hội tìm hiểu truyền thống của Khoa, tăng sự gắn kết anh em, thầy trò, khơi lên ngọn lửa
lòng học tập, yêu nghề và niềm tự hào về nhà trường. Sau khi ra trường các sinh viên tiếp tục gắn
kết với Khoa. Năm 2012, BS Bùi Quốc Thái tặng sách giáo khoa bằng tiếng Anh cho các bộ môn
và góp phần xây dựng góc truyền thống của Khoa. Ngày 9 tháng 8, 2015 đánh dấu sự thành lập
Ban Liên lạc Cựu sinh viên RHM, nối kết các sinh viên thuộc nhiều thế hệ để góp sức phát triển Khoa RHM.
Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, không ngừng phát triển chuyên môn và nhu cầu xã hội ngày càng
nâng cao, sinh viên phải chủ động hơn trong quá trình tự đào tạo của mình. Hàng năm, sinh viên
khoa RHM được tham gia các hội nghị khoa học kỹ thuật, các hoạt động ngoại khóa. Đối với các 18 lOMoAR cPSD| 45469857 19
hoạt động liên kết đào tạo, trao đổi với các trường đại học trong nước (Hà Nội, Huế, Cần Thơ, Hải
Phòng, Thái Nguyên…) và nước ngoài (Pháp, Thái lan, Nhật…), sinh viên là nhân vật trung tâm,
thể hiện được tính năng động, sáng tạo, thông minh của tuổi trẻ. Các khóa học và hoạt động giao
lưu trao đổi sinh viên thông qua các Hội Nghiên cứu khoa học và Đào tạo Khu vực là cơ hội tìm
hiểu văn hoá, giao lưu với SV quốc tế để có sự hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng và trải nghiệm sự tồn
tại cộng đồng đa văn hóa. Các hoạt động này hướng đến sự phát triển mạng lưới nghiên cứu, giáo
dục và thực hành nha khoa tiên tiến và hội nhập quốc tế trong tương lai.
Công tác xã hội luôn là thế mạnh của khoa, hoạt động thu hút sự tham gia nhiệt tình của nhiều sinh
viên. Chiến dịch mùa hè xanh, Chương trình Xuân tình nguyện, Blouse trắng tình nguyện, Hiến
máu nhân đạo… có nhiều hoạt động chuyên môn - tuyên truyền chăm sóc sức khỏe ban đầu, sức
khỏe răng miệng, giáo dục giới tính, tập huấn kĩ năng sơ cứu. Ngoài ra vào các dịp Trung thu,
Giáng sinh, sinh viên tổ chức đến thăm và tặng quà cho trẻ em nghèo, khuyết tật và cơ nhỡ
Đến đây, Khoa RHM bước vào môt giai đoạn mới với nhiều thành tựu do các thế hệ đi trước để
lại, nhiều thuận lợi do sự phát triển chung của đất nước nhưng cũng không ít thử thách. Tuy nhiên
chúng tôi luôn tin tưởng là nhà trường sẽ tiếp tục phát triển để luôn là một cơ sở đào tạo RHM
hàng đầu của cả nước, có uy tín trong khu vực, chính thống trong đào tạo và mẫu mực trong y đức
không phụ lòng các thế hệ thầy cô và sinh viên đi trước. 19