












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601779
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
Như chúng ta đã biết rằng thế kỉ XVIII ghi nhận sự kiện lần đầu tiên xuất hiện tác
phẩm mang tên Tâm lý học, khẳng định được sự tồn tại của tâm lý học với tư cách
là một khoa học độc lập. Vậy thế kỉ XIX đã đem lại cho ngành này những gì ? VẤN
ĐỀ 1: TÂM LÝ HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XIX. 1. Khái quát chung
- Đầu thế kỷ XIX, kinh tế của các nhà nước tư bản châu Âu đạt được
nhữngthành tựu đáng kể. Những phát kiến trong các lĩnh vực khoa học khác nhau;
đặc biệt là trong sinh lý học, vật lý, hoá học... đã làm cho chính xác hơn cách nhìn
của con người về các hiện tượng thuộc đời sống tâm hồn, kích thích các nghiên cứu
về tâm hồn, tâm lý con người phát triển, đặc biệt là các nghiên cứu trong lĩnh vực nhận thức.
- Một số tác phẩm văn học tiêu biểu ra đời trong thời kỳ này cũng lấy chủ đềvề tâm lý con người:
+Dr Jekyll and Mr. Hyde của Robert Stevenson : Lấy đề tài về bản ngã của con
người và nhiều khi chúng ta phải che đậy đi cá tính thật sự của mình vì định kiến
của xã hội. Sự kìm nén quá lâu có thể đẩy con người vào bước đường tội ác
+Frankenstein của Mary Shelley: Tác phẩm đầu tiên lấy đề tài khoa học viễn
tưởng, khai thác sâu khía cạnh tâm sinh lý học
+A Study in scarlet của Conan Doyle: Đánh dấu thời kỳ đổi mới về thị hiếu,
không còn bó gọn trong chủ nghĩa duy tâm lãng mạn.
- Các thành tựu tâm lý học thời kỳ này là đáng kể, có sự tham gia đồng thờicủa
nhiều nhà khoa học ở nhiều nước, có thành tựu đạt được cùng một lúc ở nhiều nơi.
Tâm lý học đã có tên gọi riêng. Khoa học tâm lý đang trên đường trưởng thành trở
thành một khoa học độc lập.
2. Các thành tựu tâm lý học nửa đầu thế kỷ XIX *
Học thuyết phản xạ
- Một trong những người đi tiên phong nghiên cứu về giải phẫu thần kinh là nhà
thần kinh học người Anh Charles Bell (1774-1842), người chuyên nghiên cứu sâu
về sự truyền dẫn của các dây thần kinh tuỷ sống.
Các tác phẩm của ông gồm có: Phác thảo giải phẫu mới về não (1811) và Về
các dây thần kinh (1821). Các công trình nghiên cứu của Ch.Bell đã phát hiện:
+ Dây thần kinh, trên thực tế là bó các dây thần kinh khác nhau có tính chất
riêng. Tính chất này được xác định bởi phần não mà sợi thần kinh tham gia vào. Từ lOMoAR cPSD| 61601779
đó, Bell đã theo dõi tất cả các sợi thần kinh đi vào não nhằm phát hiện cấu trúc của
não, với đại não ông không thành công.
+ Với tuỷ sống ông đã có các phát kiến quan trọng. Ông đã thiết lập được sự
khác nhau về chức năng của các rễ trước và rễ sau của thần kinh tuỷ sống. Ông đã
chứng minh bằng thực nghiệm cho thấy các sợi thần kinh của rễ sau làm nhiệm vụ
tiếp nhận các xung động thần kinh truyền tới (dây nhận cảm) còn các sợi dây thần
kinh rễ trước làm nhiệm vụ điều khiển vận động. Ông đã tiến hành chuyển xung
động theo các dây thần kinh hướng tâm thông qua tuỷ sống tới các dây thần kinh ly
tâm. Các kết luận này đã được Bell chứng minh bằng thực nghiệm.
-Bell chỉ thông truyền các khám phá của ông giữa bạn bè. Điều này có thể cắt
nghĩa tại sao nhà sinh lý học lỗi lạc người Pháp Francois Magendie (1783- 1855) đã
có thể xuất bản các kết quả tương tự như của Bell mười một năm sau mà không hay
biết gì về các khám phá của Bell. Một cuộc tranh cãi nóng bỏng đã nổ ra giữa các đồ
đệ của Bell và của Magendie về quyền ưu tiên của khám phá về sự phân biệt giữa
các thần kinh cảm giác và vận động. Lịch sử đã giải quyết vụ tranh chấp này bằng
cách gọi khám phá này là luật Bell – Magendie.
Việc phát hiện này có ý nghĩa to lớn đối với sinh lý học, tâm lý học tương tự
như việc phát hiện ra hệ tuần hoàn ở con người. Từ các công trình này, biểu tượng
về định vị các con đường thần kinh dần dần được hình thành.
- Học thuyết về phản xạ được phát triển nhất quán, triệt để do một bác sĩ người
Anh là M.Hall và Mỹller J.P. ( nhà sinh lý học Đức, 1801-1858) thực hiện. J.P.Mỹller
là giáo sư tại trường đại học Beclin (Đức), viện sĩ thông tấn nước ngoài của việc hàn
lâm khoa học Pêtécbua (1832).
Ông là người chuyên nghiên cứu về sinh lý học thần kinh trung ương và các
cơ quan cảm giác. Các tác phẩm của ông tập trung vào phản ánh kết quả phân tích
tìm hiểu hệ thống thần kinh, các cơ quan cảm giác, giải phẫu so sánh, các vấn đề về
sự phát triển phôi. Ông cũng là một trong những người sáng lập nên cái gọi là chủ
nghĩa duy tâm sinh lý học. Các nghiên cứu của M.Hall và J.P.Mỹller đã đi đến kết
luận: Các rễ sau và rễ trước của thần kinh tuỷ sống bao gồm từ hai loại thần kinh
khác nhau là cảm giác và vận động. Trong một nghiên cứu của Hall (1837) ông viết:
“Phản xạ được gây ra bởi kích thích không phải là các bó cảm nhận mà là từ các bó
thần kinh vận động không phụ thuộc vào các bó nhận cảm”. Năm 1833 J.P.Mỹller
cho ra mắt cuốn “Giáo khoa sinh lý người”.
* Học thuyết về các cơ quan cảm giác
- Nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động
củacác cơ quan cảm giác đưa đến những kết luận quan trọng về các qui luật tâm- sinh lý giác quan người.
- Những người đóng góp công sức to lớn trong lĩnh vực này có thể kể
đếnCh.Bell (1774-1842) nhà sinh lý học, thần kinh học người Anh; F.Magendie lOMoAR cPSD| 61601779
(1783-1855) nhà sinh lý học thần kinh Pháp; J.Muller (1801-1858) nhà sinh lý học
Đức; Thomas Young (1773-1829) nhà vật lý học và là bác sĩ người Anh; Ch.
Wheatstone (1802-1875) nhà vật lý học người Anh; I.Procháska (1749-1820) nhà
sinh lý học, nhà giải phẫu học người Tiệp Khắc; J.Purkyne (1787-1869) nhà sinh lý
học, tương lai học người Tiệp Khắc E.H.Weber (1795-1875) nhà giải phẫu, nhà sinh lý học người Đức...
Các thành tựu trong lĩnh vực này có thể kể đến:
- Nghiên cứu hoạt động của thị giác (mắt) với tư cách là một hệ thống sinh lý
học mang chức năng sống.
+ Liên quan đến khía cạnh này có công trình nghiên cứu về lý thuyết 3 thành
phần sự nhìn màu của Thomas Young nhà vật lý học và là bác sĩ người Anh và
H.Helmholtz (1821-1894) nhà sinh lý học, nhà khoa học tự nhiên người Đức.
T.Young (1773-1829) là nhà bác học người Anh, một trong những người sáng lập ra
lý thuyết sóng về ánh sáng. Đưa ra qui luật giao thoa của sóng ánh sáng (1801), nêu
ra tư tưởng về thiết diện ngang của sóng ánh sáng (1817). Ông cũng đã đưa ra luận
điểm giải thích về sự điều tiết, thích ứng của mắt. Ông cũng đã soạn thảo về lý thuyết
nhìn màu. Đưa vào áp dụng “suất đàn hồi” được mang tên ông. Các tác phẩm của
ông khá nhiều liên quan đến cả lĩnh vực âm học, thiên văn học cũng như sự giải mã
các chữ khó đọc của Ai Cập.
- Công trình của Stêbyx ( nhà sinh lý học người Đức) đã đi đến kết luận: Tri
giác của con người được hình thành dần dần nhờ vào quan hệ giữa các sản phẩm
của hoạt động của các cơ quan cảm giác và phản ứng vận động.
- Nghiên cứu của Ch.Bell đã khẳng định: Hình ảnh không gian của vật thể được
hình thành nhờ vào hoạt động phản xạ của cơ mắt từ đó có thể kết luận về tính phụ
thuộc của hình ảnh chủ quan vào cơ chế khách quan thần kinh cơ bắp.
Ch.Wheatston (1802-1875) nhà vật lý học người Anh, Ông cũng đã có những
kết luận có giá trị về hoạt động của mắt: Các quan hệ thần kinh- tâm lý trong hệ
thống thị giác không có được ngay từ khởi đầu mà được hình thành nhờ vào kinh
nghiệm luyện tập. Chính Wheatston đã nghiên cứu thị giác bằng kính lập thể tự sáng
chế. Xêtrênốp đã có sự đánh giá cao các kết quả nghiên cứu của Wheatstone và coi
các kết quả này là sự khởi đầu của tâm lý học như là một khoa học kinh nghiệm.
- Một hướng nghiên cứu khác về thị giác ở thời kỳ này có thể kể đến là
cácnghiên cứu hoạt động của các cơ quan cảm giác khác liên quan đến thị giác,
chẳng hạn biểu tượng không gian về vật thể liên quan rất chặt tới biểu tượng của xúc
giác... (công trình của Stênbyx).
- Nghiên cứu sâu về cấu trúc thần kinh thị giác do Thomas Young (17731829)
tiến hành. Ông đã đưa ra giả thuyết võng mạc chứa 3 loại sợi thần kinh trong đó mỗi
sợi điều khiển một tia sáng cho ta cảm giác màu đỏ, màu xanh lá cây, màu xanh da trời (1801). lOMoAR cPSD| 61601779
- Công trình nghiên cứu về cảm giác màu sắc do J.W.Goethe (1749-1832) lànhà
thơ, nhà khoa học tự nhiên và là nhà tư tưởng vĩ đại người Đức thực hiện trong công
trình mang tên “Về lý thuyết màu sắc” viết từ năm 1805-1810.
+Trong công trình này, Goethe cho rằng màu đen và màu trắng là các màu cơ
bản. Các môi trường khoảng cách (như không khí) tham gia tạo thành các mầu còn
lại. Mặt trời phụ thuộc vào môi trường không khí mờ đục được tiếp nhận khi là màu
trắng, da cam và thậm chí là màu đỏ.
+ Các kết luận của Goethe là không đúng song các phát hiện này của ông đã
kích thích cho việc quan sát kỹ đằng sau các trải nghiệm trực tiếp về màu sắc ở con người.
Dưới ảnh hưởng của Goethe, Muller cũng bắt tay vào nghiên cứu cảm giác màu
sắc; tiếp theo các nghiên cứu của Goethe đã đi sâu khảo cứu sinh lý học tri giác thị
giác và đã khám phá ra một loạt các tri thức trong cảm giác thị giác. Ông đã phát
hiện ra sự biến đổi các màu xanh da trời và màu đỏ khi nhìn lúc hoàng hôn tạo nên
cái gọi là “Các hiện tượng kỳ lạ Puakine”.
- Một kết quả nữa phải kể đến là sự xuất hiện giả thuyết “Vòng thần kinh” hợp
nhất não với cơ bắp và cơ bắp với não. Điều này liên quan đến các công trình của
Ch.Bell lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng liên hệ vòng giữa các quá trình cảm giác và
cơ bắp... đã được đánh giá là một phỏng đoán tuyệt vời về bản chất phản xạ của nhận thức cảm tính.
- Nghiên cứu bằng thực nghiệm tính nhạy cảm của da và cơ được E.H.Weber
(1795-1878) thực hiện. Ông là nhà bác học, nhà giải phẫu, nhà sinh lý học người
Đức, viện sĩ thông tấn người nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Pêtécpua (1869).
Weber là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học thực nghiệm.
Các công trình của ông liên quan nhiều đến sinh lý học của các cơ quan thị giác,
thính giác, xúc giác. Lần đầu tiên, ông đã đưa ra ngưỡng phân biệt của cảm giác da,
bằng cách cố định 2 điểm xác định trên bề mặt của da và tiến hành các kích thích
cho đến khi chủ thể nhận ra có sự khác nhau ở các kích thích này. Tư tưởng xác định
ngưỡng của các cảm giác là tư tưởng trung tâm đối với tâm sinh lý học lúc đó.
* Học thuyết về đại não
Nửa đầu thế kỷ XIX đã xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu
về hoạt động của đại não từ đó đi đến xác định bản thể của hoạt động tâm lý. Các
công trình nghiên cứu này hoà chung với dòng tâm lý học năng lực.
-Nổi lên trong số đó là một loạt các công trình nghiên cứu của F.J.Gall
(17581828) nhà thần kinh học, nhà sinh lý học người Đức. Người đã đề xuất ra lý
thuyết định khu chức năng tâm lý trên vỏ các bán cầu đại não (từ 1810 đến 1819).
Các kết luận của Gall có một số điểm đáng lưu ý:
+ Vỏ não chứ không phải là các buồng não được xem là bản thể của hoạt động
tâm lý. Gall và các cộng sự đã giới thiệu bản đồ của não, trên đó ông đã chỉ các vùng
não riêng biệt đối với mỗi loại năng lực hoặc vùng cho một loại hiện tượng tâm lý lOMoAR cPSD| 61601779
như: vùng yêu thương, vùng thù ghét, cùng khả năng toán học, khả năng sáng tạo thi ca...
+ Gall nêu ra luận điểm: Sự phát triển khác nhau của các vùng trên vỏ não dẫn
đến ảnh hưởng tới hình thức của xương sọ. Bởi vậy nếu nghiên cứu bề ngoài của
xương sọ sẽ cho phép chẩn đoán các đặc trưng cá nhân của nhân cách. Theo Gall,
các vùng tâm lý trên não phát triển thì phần bề ngoài của xương sọ chỗ đó sẽ lồi lên
gọi là “bướu” năng khiếu. Độ lớn của bướu ăn khớp với mức độ phát triển của năng
lực tương ứng. Ông là người sáng lập ra một khoa học gọi là “Phrinôlôghia”Một lý
thuyết phản khoa học về mối quan hệ của các thần kinh đạo đức và tâm lý của con
người với cấu trúc của xương sọ. Vào thời điểm lúc đó, lý thuyết của Gall đã được
hưởng ứng mang tính khá rộng rãi trong dân chúng. Dẫu sao lý thuyết
PhiPhinôlôghia của Gall đã làm cho vấn đề định khu chức năng tâm lý trên não trở
thành hấp dẫn kích thích các công trình nghiên cứu thực sự mang tính khoa học về
cấu trúc thần kinh não bộ.
- Các nghiên cứu về bán cầu đại não và tiểu não của Pierre Flourens
(P.Phrurensơ) (1794-1876) là bác sĩ người Pháp.
Các công trình thực nghiệm khoa học nghiên cứu về não của P.Flourens, bác sĩ,
nhà sinh lý học người Pháp, viện sĩ viện hàn lâm khoa học Pháp (1840) viện sĩ thông
tấn người nước ngoài của viện hàn lâm khoa học Pêtécbua (1856). Ông đã dùng
phương pháp loại trừ một số phần nào đó của hệ thần kinh trung ương và trong một
loạt các trường hợp tác động vào trung tâm não, nơi khu vực nghiên cứu, bằng thuốc
mê và đi đến các kết luận: Các quá trình tâm- sinh lý cơ bản là tri giác, trí tuệ, ý chí
là sản phẩm của não như là một cơ quan hoàn chỉnh. Tiểu não phối hợp vận động.
Trong hành não có trung tâm hô hấp điều khiển sự sống (phát hiện năm 1822). Thị
giác có quan hệ với củ não sinh tư. Chức năng của tuỷ sống là tiến hành thúc đẩy
kích thích thần kinh. Các công trình của P.Phrurensơ giữ vai trò quan trọng trong
việc phá vỡ bức tranh thần thoại phản khoa học về hoạt động của não và “bướu”
năng khiếu mà Gall đã đề ra.
* Tâm lý học liên tưởng
- Trước hết, Liên tưởng là sự phản ánh trong ý thức mối liên hê qua ḷ ại của
các sự vât, hiệ n tự ợng trong thế giới hiên tự ợng dưới hình thức liên hê c ̣ ó tính quy
luât c ̣ ủa hê tḥ ần kinh và tâm lý. Sự nhớ lại môt ṣ ự vât, hiệ n tự ợng nào đó khi nhắc
tên môt ṣ ự vât, hiệ n tự ợng khác. Tâm lý học liên tưởng mang tính duy vât ṿ ì coi
tâm lý con người là cái thứ hai sau cơ thể, máy móc do không nhân tḥ ấy sự khác
biêt trong ̣ cơ chế hình thành của cái tâm lý đơn giản, cũng như cái tâm lý phức tạp,
đồng thời thuyết liên tưởng cũng mang tính khoa học tự nhiên do nó nghiên cứu mối
quan hê gị ữa tâm lý và sinh lý.
- Dòng Tâm lý học liên tưởng đã có từ thế kỷ XVIII, sang thế kỷ này vẫn được
tiếp tục phát triển nhưng đã có những biến đổi để phù hợp với những tiến bộ mới
của khoa học tự nhiên. Thuyết liên tưởng muốn tồn tại, tất yếu phải có các giải thích
mới, trong đó cần phải từ bỏ các quan niệm tư biện trừu tượng về bản thể của cơ thể.
Chẳng hạn, rung động của các sợi thần kinh như rung động của sợi dây đàn theo lOMoAR cPSD| 61601779
quan niệm của D. Hartley (1705-1757) nhà vật lý là bác sĩ người Anh là không thể đứng vững.
- Các công trình mới của dòng phái này là liên quan các đóng góp củaThomas
Braun (1778-1820) nhà giáo dục, giáo sư triết học của trường đại học Êđinbua, nhà
thơ. Quan niệm của T.Braun nhấn mạnh liên tưởng cần phải hiểu như là thuộc tính
nội tại, như là hoạt động của trí tuệ chứ không được cắt nghĩa theo thuộc tính cơ thể.
- Ngược lại với ý kiến của T.Braun là quan điểm của D.Mill (1773-1836)
nhàtriết học, nhà lịch sử và kinh tế học người Anh. Về mặt triết học D.Mill tuyên bố
là người kế tục triết học duy tâm của Hium. Trong xã hội học, ông đã phủ nhận lý
thuyết luật tự nhiên. Năm 1829 D.Mill công bố tác phẩm “Phân tích các hiện tượng
đặc biệt của trí tuệ con người” trong đó tỏ rõ quan điểm chủ nghĩa liên tưởng “cứng
rắn” của mình, xem xét liên tưởng theo quan điểm cơ học.
-Tác giả Herbart (1776-1841). Ông là nhà triết học, nhà tư tưởng, nhà tâm lý
học và giáo dục học người Đức, người sáng lập trường phái giáo dục học Đức thế
kỷ XIX, đại biểu của chủ nghĩa đa nguyên. Herbart quan niệm cơ sở của thế giới là
tập hợp của các hiện tượng không thể biết. Ông mưu toan xây dựng tâm lý học như
là một hệ thống các khoa học dựa trên phép siêu hình, kinh nghiệm và toán học.
Trong giáo dục, huấn luyện Herbart đã đưa ra 4 mức độ (4 nguyên tắc) của việc dạy
học (huấn luyện): a. Tính sáng rõ; b. Tính liên tưởng; c. Tính hệ thống; d. Phương
pháp. Herbart cũng được xem là người sáng lập đặt nền móng cho cái gọi là mỹ học
chính thống trong đó bàn về cội nguồn của cái đẹp, cái tỉ lệ, cái hài hoà cân đối...
Trong tác phẩm tâm lý học được luận giải theo một cách mới đối với phép siêu
hình, kinh nghiệm và toán học (1816), Herbart đã bộc lộ các quan điểm chính của
mình về tâm lý học liên tưởng như sau:
+ Phép siêu hình là một phạm trù triết học, tiền đề của một hệ thống tâm lý học mới.
+ Tâm hồn là cái không thể nhận biết được. Trong tâm hồn không có cái gì là
khởi đầu. Sự thống nhất giữa cuộc sống tâm lý và nguồn gốc khởi nguồn của tính
tích cực của tâm lý là không thể có. Tâm hồn không thể là đối tượng của khoa học.
+ Mỗi một biểu tượng không chỉ có một số nội dung mà là đại lượng “mang
năng lượng”. Xuất phát từ tiền đề này, Gerbats đã soạn thảo học thuyết “Trạng thái
tĩnh và năng động của các biểu tượng”.
+ Herbart đã chống lại quan niệm của Kant về tri giác. Theo ông, khối lượng tri
giác bao gồm từ các biểu tượng và mỗi một trong chúng lại có được trong kinh
nghiệm cá nhân, có thể được cải biến, được “chương trình hoá” bởi nhà giáo dục.
Herbart đã nêu giả thuyết về các biểu tượng với tư cách là các đại lượng phát
lực có khả năng chịu sự phân tích về lượng. Mặc dầu các tìm tòi lập luận của Herbart
còn nhiều khiếm khuyết nhưng giả thuyết của ông về khả năng có tính nguyên tắc
phân tích bằng toán học các quan hệ giữa các sự kiện tâm lý học đã được G.T.Fechner
(1801-1887) và G.Ebinhgausơ thừa nhận. Tính chất tư biện trừu tượng của các biểu
tượng cũng như quan niệm về cơ chế sinh lý học của các liên tưởng, niềm khát vọng
chỉ ra tính độc đáo của các quá trình đặc trưng cho cuộc sống tâm lý khác thật sự với lOMoAR cPSD| 61601779
cuộc sống cơ thể đã dẫn học thuyết về liên tưởng đến chỗ được xem là học thuyết về
nguyên tắc nội tại của ý thức. ở đây, tư tưởng về tính nguyên nhân tâm lý được khẳng
định. Hoạt động tinh thần là có tính qui luật riêng của nó. Các qui luật này không
đồng nhất với các qui luật sinh lý học. Những điều này đã tham gia vào việc kích
thích cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tâm lý trong nửa cuối của thế kỷ này.
Tóm lại: - lịch sử của Tâm lý học từ thế kỷ thứ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX
đã gắn liền với các thành tựu của khoa học tự nhiên trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặc biệt là các thành tựu về sinh vật học, sinh lý học, vật lý... khẳng định
tính khách quan có thật của các hiện tượng tâm lý người. Đối tượng của khoa học
tâm lý học ngày càng rõ.
- Cùng với sự phát triển của các khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVIII, nửa
đầuthế kỷ XIX, tâm lý học cũng có những bước phát triển mới.
- Lần đầu tiên đã xuất hiện các tác phẩm mang tên tâm lý học. Các phươngpháp
nghiên cứu tâm lý học thời kỳ này đã có những bước tiến rõ rệt, nổi lên là các phương
pháp thực nghiệm, thử nghiệm có sự hỗ trợ của các phương tiện, công cụ nghiên cứu
riêng và có sử dụng các phương pháp thống kê xử lí của toán học.
- Một điều đáng lưu ý ở thời kỳ này là có nhiều các công trình nghiên cứuđược
tiến hành cùng một lúc ở nhiều nước nhưng lại đem đến các kết quả như nhau đã
khẳng định tính chân thực khách quan khoa học của các hiện tượng tâm lý, khẳng
định sự cần thiết phải xây dựng một chuyên ngành khoa học mới độc lập với các
khoa học hiện có, đặc biệt là triết học. Đây chính là những tiền đề khách quan dẫn
đến việc ra đời của Tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập mà chúng ta sẽ
có dịp làm rõ ở các chương sau.
VẤN ĐỀ 2: TÂM LÝ TRỞ THÀNH KHOA HỌC ĐỘC LẬP
- Từ nửa sau thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học tâm lý trên tất cả
cáclĩnh vực đã phá vỡ về căn bản những quan niệm trứơc đó về kết cấu và thuộc tính
của vật chất và do thế đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn nhận thế giới tinh thần của con người.
- Sự kiện có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành tâm lý học như một khoahọc
độc lập là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý người. - Những thực nghiệm tâm sinh lý học các cơ quan cảm giác cũng như
tâm vật lý học đã tiến hành đo đạc, tính toán đưa ra những số liệu khách quan tựa
như những nghiên cứu ở các lĩnh vực khoa học tự nhiên khác, đồng thời khẳng định
sự tồn tại có thật của các hiện tượng tâm lý . => Đây là một bước tiến vượt bậc trong
việc tìm kiếm, làm rõ đối tượng của tâm lý học gắn liền với tên tuổi của H.Helmholtz
(1821-1894), Dubois Reymond, G. T. Fechner (1801-1887),
E.H. Weber (1795-1878), F. Donders (1818-1889)…
- Vào năm 1879, tại Leipzig (Đức) , lần đầu tiên trên thế giới, một phòngthực
nghiệm tâm lý học được thành lập theo sáng kiến của nhà tâm lý học người Đức tên
là W.Wundt (1832-1920). Ngay từ những ngày khởi đầu, phòng thực nghiệm của lOMoAR cPSD| 61601779
ông đã đi vào hoạt động có hiệu quả, phát huy ảnh hưởng to lớn của nó đến hoạt
động nghiên cứu tâm lý học của nhiều nước cả về nội dung nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu. Sự kiện này đã có một ý nghĩa vô cùng to lớn, được ghi nhận như
là mốc khởi đầu xuất hiện tâm lý học với tính cách là một khoa học độc lập.
1. Các thành tựu khoa học tham gia vào việc tâm lý học ra đời với tư cách
là một khoa học độc lập
a. Tâm sinh lý học các giác quan.
-Tâm sinh lý học giác quan là một hướng nghiên cứu nhằm làm rõ mối quan
hệ giữa kích thích vật lý, các quá trình xảy ra trong hệ thần kinh và các quá trình
cảm tính (cảm giác, tri giác) của con người. Đại biểu của lĩnh vực nghiên cứu này
trước tiên phải kể đến công lao của nhà sinh lý học người Đức tên là Hecman
Helmholtz (1821-1894) và nhà nghiên cứu tâm sinh lý học người Pháp Dubois Reymond.
- H. Helmholtz đã có công nghiên cứu bằng thực nghiệm nhằm chứng minh
các tác động bên ngoài đến các giác quan của con người làm xuất hiện các hình ảnh
về sự vật hiện tượng trong não.
+ Ông đã tiến hành công trình nghiên cứu tri giác các vật thể, quan tâm tới sự
khác nhau giữa hình ảnh mà mắt người ghi nhận được với việc vẽ hình ảnh đó trên
giấy hoặc chụp lại các vật thể đó. Ông đã nhận thấy rằng mắt “nhìn thấy” sự vật
nhiều hơn hình ảnh phẳng được ghi lại trên giấy hoặc ống kính máy ảnh chụp lại vật
thể đó, bởi vì mắt cảm nhận được, phát hiện được các quan hệ đằng sau cái nhìn đó,
chẳng hạn, độ lớn thực sự của vật, chiều sâu của vật…và những lần tri giác sau thì
khác những lần tri giác trước vì ít nhiều đã có cái mà H. Helmholtz gọi đó là “kinh nghiệm”.
+ Các phát hiện của ông hoàn toàn đúng, nhưng giải thích nguyên do của sự
kiện đó, ông đã mắc sai lầm là quay về với luận điểm duy tâm của “thuyết năng
lượng chuyên biệt” của J.P. Muller (1801-1858). Thực nghiệm của ông cũng chỉ rõ,
khi tri giác mắt người nhìn sự vật tác động vào nó không phải chỉ có một lần mà mắt
nhìn sự vật nhiều lần, vận động xung quanh vật thể. Rõ ràng là có sự phối hợp của
các cơ quan vận động và chính nhờ thế mà con người có biểu tượng không gian 3
chiều về sự vật. Hình ảnh cảm tính thu được trong tri giác sự vật không đơn thuần
chỉ do một cơ quan cảm giác đem lại mà có sự phối hợp vận động của nhiều cơ
quan cảm giác khác như nghe (thính giác), sờ mó (xúc giác) v.v…Cảm giác, tri giác
là các hiện tượng tâm lý phản ánh thế giới tự nhiên bên ngoài con người thông qua
hoạt động của não, là hình ảnh chủ quan về hiện tượng khách quan bên ngoài. Các
giác quan của con người cùng với đường thần kinh hướng tâm, ly tâm và trung ương
thần kinh tương ứng được gọi là “bộ máy phân tích” .
+ Các thực nghiệm của H. Helmholtz cũng như nhiều thực nghiệm khác ở thời
kỳ này đã dẫn con người đi đến bác bỏ cái gọi là “năng lượng chuyên biệt” của các lOMoAR cPSD| 61601779
giác quan và khẳng định mỗi giác quan có liên quan và thích ứng với một loại kích
thích, chẳng hạn: ánh sáng liên quan đến mắt, âm thanh liên quan đến tai…
- Các công trình nghiên cứu của H. Helmholtz đã giúp ta đi đến những kếtluận quan trọng:
+Kích thích từ Thế giới khách quan bên ngoài tác động trực tiếp vào các giác
quan của con người tạo ra những xung động thần kinh trong các giác quan. Đây là
nguyên nhân làm xuất hiện hình ảnh cảm tính ở con người.
+Nhờ hoạt động của các giác quan mà con người có được những hình ảnh tương
ứng với sự vật hiện tượng khách quan bên ngoài. Hoạt động của các giác quan giữ
vai trò quan trọng quyết định quá trình nhận biết sự vật.
+Kinh nghiệm đã tham gia tích cực vào việc tạo thành hình ảnh cảm tính.
→ Rõ ràng là có một loại hiện tượng mà từ trước đến nay chưa có một khoa
học nào chuyên tâm nghiên cứu. Hiện tượng mà từ hàng nghìn năm trước đó Socrate,
Platon, Democrite, Aristote và sau này là Descartes đã nói tới. Đó là hiện tượng tâm
lý. Hiện tượng tâm lý người là có thật.
→ Cùng với các kết quả đạt được của Helmholtz, nhiều người đã buộc phải để
tâm tới một vấn đề có ý nghĩa to lớn hơn là xác định đối tượng của khoa học tâm lý.
Helmholtz đã lần lượt công bố các kết quả nghiên cứu của mình trong các công trình
mang tên “Học thuyết về cảm giác nghe là cơ sở sinh lý học của lý thuyết âm nhạc”
(1863), “Quang học sinh lý học” (1863).
b. Tâm vật lý học.
Tâm vật lý học là một dòng nghiên cứu đi sâu làm rõ quan hệ giữa cường độ
kích thích với hình ảnh tâm lý xuất hiện và biểu thị chúng bằng công thức toán học.
- Hai đại biểu lớn nhất của dòng phái này là G.Fechner (1801-1887) vàE.Weber
(1795-1878) (cả hai đều là người Đức).
- Khi nghiên cứu phản ứng của da và cơ bắp, E. Weber đã tìm ra công thứcbiểu
thị mối tương quan giữa phản ứng cảm tính và tác nhân kích thích từ bên ngoài vào.
Đồng thời ông cũng phát hiện ra ngưỡng cảm giác sai biệt. Khẳng định tương quan
giữa kích thích vật lý và phản ứng cảm giác là tương quan có tính quy luật. Với từng
loại cảm giác, ngưỡng sai biệt là một hằng số.
- Cùng với Weber, Fechner cũng tiến hành các nghiên cứu tương tự và tìm
racông thức biểu thị mối tương quan giữa kích thích và cảm giác. Đó là: cường độ
của cảm giác tỷ lệ thuận với lôgarít cường độ kích thích. C= k.lgS (trong đó C là
cường độ cảm giác, S là cường độ kích thích, k là một hằng số tuỳ thuộc vào từng loại kích thích).
=> Ngày nay công thức này được gọi là công thức Fechner- Weber để ghi nhớ
công lao hai nhà bác học đã tìm ra nó. Các kết quả do tâm vật lý học đem lại đã minh
chứng cho việc khẳng định các quá trình tâm lý là có thật, có thể biểu đạt được nó lOMoAR cPSD| 61601779
qua các công thức toán học, đồng thời có thể nghiên cứu các hiện tượng tâm lý bằng
phương pháp thực nghiệm tức là bằng các phương pháp khách quan. Phương hướng
này cần được ủng hộ vì đây chính là các tư tưởng duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người.
c. Nghiên cứu thời gian phản ứng
- Đây là hướng nghiên cứu nhằm vào làm rõ mối tương quan giữa hiện
tượngsinh lý và hiện tượng tâm lý bằng phương pháp thực nghiệm.
- Người tiến hành nghiên cứu theo hướng này là là F.K.Donders (1818-1889)
nhà sinh lý học người Hà Lan, viện sĩ thông tấn viện hàn lâm khoa học
SaintPétersbourg (từ năm 1887)
- F.K. Donders dựa trên kết quả nghiên cứu của Helmholtz đã tiếp tục
nghiêncứu sâu hơn: Đo thời gian phản ứng (viết tắt là tp). Thời gian phản ứng được
xác định như sau: Bắt đầu bằng kích thích tác động vào giác quan và kết thúc khi có
một phản xạ tương ứng. Đem so sánh thời gian phản ứng (tp) với thời gian dẫn truyền
(tx), người ta nhận thấy tp>tx. Từ kết quả trên ông cho rằng sở dĩ có sự chênh lệch
đó là vì đã có các quá trình tâm lý tham gia vào. Hay nói cách khác sở dĩ có sự chênh
lệch đó là vì quá trình thần kinh diễn ra phức tạp hơn (do có các pha bổ sung đó là
các quá trình tâm lý). Một lần nữa nhận thấy có sự tồn tại thực của các hiện tượng
tâm lý . Hiện tượng này là khách quan và hoàn toàn có thể xác định được.
-Ta có công thức dựa trên các kết quả nghiên cứu của F.K.Donders:
Tp = Tx + Thtk, Thtk = Tp-Tx Chú thích:
Tx: Thời gian dẫn truyền (s)
Tp: Thời gian phản ứng (s)
Thtk: Thời gian lưu lại trong hệ thần kinh trong hệ thần kinh (thời gian ẩn của
phản ứng) (s) ,thời gian ứng với việc xuất hiện một hiện tượng tâm lý tương ứng.
- Donders và các cộng sự của ông đã phân ra 3 loại phản ứng tâm lý: Phản
ứng tâm lý đơn giản; Phản ứng tâm lý lựa chọn; Phản ứng tâm lý phân biệt.
- Nghiên cứu thời gian phản ứng của F. Donders đã chỉ ra rằng: Trong thực tếcó
một hiện tượng khác với hiện tượng trong sinh lý học thần kinh nghiên cứu, đó chính
là hiện tượng tâm lý chứ không phải là sinh lý. Đồng thời bằng công trình nghiên
cứu của mình Donders cũng chỉ ra là có thể dùng phương pháp khách quan để nghiên
cứu hiện tượng tâm lý ở con người. Và việc nghiên cứu đó phải được tiến hành bằng
một khoa học mới đó là khoa học tâm lý học.
=> Có thể nói những nghiên cứu của Helmholtz, Fechner, Weber, Donders...
đã góp phần quan trọng vào việc đưa tâm lý học trở thành một khoa học độc lập vào năm 1879.
2. W.Wundt và sự ra đời của tâm lý học lOMoAR cPSD| 61601779
Sự kiện năm 1879 trong lịch sử tâm lý học gắn liền với tên tuổi của W.Wundt
(1832-1920), nhà tâm lý học người Đức.
Tâm lý học của Wundt được thể hiện trên một số tư tưởng chính sau đây:
Thứ nhất: Toàn bộ tâm lý học của Wundt xuất phát từ quan niệm coi con người
là một thể thống nhất tâm- vật lý trong đó có những hiện tượng có thể thấy được như
các cử động, mắt nhìn, tay sờ…Trung tâm tâm lý người là một điểm cố định của ý
thức được bao quanh bởi các vòng tròn: vòng tiêu cự, vòng chú ý, trường ý thức, ngưỡng ý thức.
Thứ hai: Tất cả các hiện tượng tâm lý đều ở trong vòng các hiện tượng tinh thần
của con người và đều xuất phát từ ý thức. Wundt coi tâm lý là cái thứ nhất, mọi cái
trong thực tại đều bắt nguồn từ ý thức. Do đó, tâm lý học do Wundt chủ trương thực
chất là tâm lý học duy tâm. Tâm lý học duy tâm của Wundt còn được gọi là tâm lý
học nội quan, tâm lý học ý chí luận.
Thứ ba: Wundt đưa ra khái niệm Tổng giác. Đây là khái niệm quan trọng trong
hệ thống lý luận của Wundt. Theo quan niệm của Wundt thì tổng giác là hạt nhân của
ý thức, ý chí của con người. Tổng giác là một cái gì đó không thể hiểu được vốn có
trong thế giới nội tâm của con người. Tổng giác phản ứng với những cái do cảm
giác, tri giác mang lại, giúp con người “cảm thấy” những thứ xảy ra trong mình.
-Theo quan niệm của Wundt, nhờ có tổng giác mà trong con người có đủ mọi
thứ do mình tạo ra và tất cả những cái đó không liên quan gì đến hoạt động với thế
giới bên ngoài. Wundt quan niệm, con người được tồn tại và nhận thức theo nguyên
tắc đóng kín trong thế giới nội tâm. Mỗi người tự hiểu lấy bản thân mình, không ai
có thể hiểu mình ngoài bản thân mình.
-Như vậy, tâm lý học của Wundt là tâm lý học duy tâm, tâm lý học nội quan,
lấy phương pháp nội quan làm phương pháp duy nhất để nghiên cứu tâm lý con
người. Nội quan tức là tự quan sát, tự thể nghiệm trong chính bản thân mình. Quan
điểm tâm lý học của Wundt là một vòng luẩn quẩn, phản ánh sự bế tắc của tâm lý
học duy tâm, nội quan. Bởi vì, các nhà tâm lý học là người nghiên cứu tâm lý của
người khác, hay ít ra cũng là những người tìm kiếm các phương pháp, cách thức để
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý, thế nhưng họ lại thừa nhận rằng, tâm lý của ai thì
chỉ người đó mới biết được, người khác chỉ nghe người ta kể lại rồi lý giải theo cách
này hay cách khác theo hướng chủ quan mà thôi.
- Vào năm 1879 khi làm giáo sư triết học ở Leipzig, Wundt đã tổ chức ra phòng
thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới .Ông cũng đã công bố một cương lĩnh
mới về xây dựng khoa học tâm lý: Xây dựng tâm lý học thực nghiệm và tâm lý học xã hội.
+Về tâm lý học thực nghiệm, ông chủ trương tiếp tục nghiên cứu các vấn đề
tâm sinh lý học các giác quan và tâm vật lý học. lOMoAR cPSD| 61601779
+ Với tâm lý học xã hội, ông chủ trương nghiên cứu tâm lý học dân tộc, nghiên
cứu tinh thần dân tộc qua các truyện cổ tích, thần thoại.Theo Wundt, những tư tưởng
tâm lý học dân tộc tồn tại trong các sản phẩm văn hoá như truyện cổ tích, truyện
dân gian, thần thoại, trong phong tục tập quán của các dân tộc… và để hiểu được
những tư tưởng tâm lý học dân tộc này phải dùng phương pháp thuật lại và suy diễn
từ các sản phẩm văn hoá.
-Wundt lựa chọn tiến hành một thí nghiệm kỳ lạ với một quả bóng nhỏ bằng
đồng. Ông và hai sinh vien tập trung quanh một chiếc bàn nhỏ có một cái đồng hồ
bấm giờ, một công tắc và quả bóng được đặt trên một thanh kim loại đứng. Vài giây
sau, quả bóng tự động rơi khỏi thanh kim loại và đồng hồ bấm giờ bắt đầu hoạt động.
Sinh vien ấn xuống công tắc ngay lúc Anh ta nghe thấy tiếng quả bóng đập xuống
bàn. Ông dành vài năm tiếp theo để quan sát hàng trăm người phản ứng với bài kiểm
tra này. Một vài người tham gia được yêu cầu bấm công tắc tại thời điểm đầu tiên
nghe tiếng quả bóng đập xuống bàn- ông gọi là phản xạ đơn giản-, trong khi những
người khác được yêu cầu phản ứng hoàn toàn khi nhận ra âm thanh đó-một quyết
định có ý thức. Cẩn thận ghi chép, Wunt đã tạo ra dữ liệu đầu tiên của tâm lý học.
Ông kết luận rằng phản ứng theo phản xạ mất trung bình một phần mười giây và để
lại cho người tham gia một ký ức mờ nhạt về tiếng bóng rơi. Ngược lại, việc nghe
âm thanh đó một cách có ý thức tạo ra thời gian một phần hai mươi giây và tạo ra
một trải nghiệm rõ ràng.
- Trên cơ sở của phòng thực nghiệm tâm lý học, cũng theo sáng kiến củaWundt,
năm 1880 viện tâm lý học được thành lập. Viện này đã nhanh chóng trở thành trung
tâm đào tạo các nhà tâm lý học cho các nước trên thế giới như ở Đức, Nga, Pháp,
Mỹ...Nhiều người xuất phát từ viện này đã trở thành nổi tiếng như E.
B.Titchener (1867-1927) ở Mỹ, G.I. Trenpanov (1862-1936) ở Nga…
- Sau sự kiện này, các phòng thực nghiệm tâm lý học lần lượt ra đời ở
nhiềunước châu Âu và châu Mỹ. Phòng thực nghiệm tâm lý học ở Mỹ được thành
lập vào năm 1889. Đến năm 1920, số lượng các phòng thực nghiệm tâm lý học ở các
nước đã lên đến con số 100.
- Các công trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm tâm lý học và viện tâmlý
học được Wundt cho công bố trong tập “Các công trình nghiên cứu triết học” (1881).
Có thể coi đây là tập san tâm lý học đầu tiên trên thế giới. ý nghĩa của tập san này là
ở chỗ: đây là nơi để những người làm công tác nghiên cứu tâm lý học, các nhà khoa
học thường xuyên trao đổi ý kiến, tranh luận và học hỏi lẫn nhau, tiếp sức cho nhau,
khích lệ nhau vì sự nghiệp chung của tâm lý học.
- Mười năm sau sự kiện này, năm 1889, các nhà tâm lý học thế giới đã cócuộc
gặp gỡ nhau tại Paris (Pháp) và cũng từ những năm đó, cứ vài ba năm một lần, các
nhà tâm lý học quốc tế lại tổ chức gặp gỡ nhau luân phiên ở các nước. Có thể xem
đây là đại hội quốc tế của các nhà tâm lý học. lOMoAR cPSD| 61601779
=> Có thể nói, trong hàng loạt các sự kiện diễn ra vào những năm cuối thế kỷ
XIX thì sự kiện Wundt tổ chức ra phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên vào năm
1879 là sự kiện nổi bật nhất. Sự kiện này ghi nhận sự trưởng thành đầy đủ của một
ngành khoa học mới là khoa học tâm lý. Chính vì lẽ đó mà các nhà tâm lý học lấy
đây như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập.
Bên cạnh những mặt tốt thì tâm lý học của Wundt cũng còn những hạn chế, tlh
của ông vừa là duy tâm, nội quan, vừa là siêu hình, ý chí luận, đã giải thích sai lệch
bản chất của hiện tượng tâm lý và vì thế nền tâm lý học cũng không tránh khỏi đi
vào bế tắc. Sự bế tắc tâm lý học duy tâm chủ quan ngày càng bộc lộ rõ. Đến cuối
thế kỉ XIX-XX đã dấy lên làn sóng chống lại tâm lý học duy tâm nội quan làm xuất
hiện nhiều dòng phái tâm lý mới như: Tâm Lý Học chức năng của W.James (1842-
1910) và Angell (1869-1949), Tâm Lý Học cấu trúc của
E.Titchener (1867-1927), Tâm Lý Học mô tả của W.Dilthey (1833-1911) và
Ê.Spranger (1882-1963), …nhưng tất cả đều không tránh khỏi sự bế tắc vì về cơ bản
đã không thoát ra được khỏi tâm lý học duy tâm nội quan. Chính vì thế, từ 1907-
1913 đã xuất hiện ba dòng phái tâm lý học hành vi, tlh Gestalt, phân tâm học, …mà
chúng ta sẽ được rõ hơn qua những bài thuyết trình của các nhóm sau.