Lịch sử văn minh thế giới | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Lịch sử văn minh thế giới | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40420603
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Khái niệm “ văn hóa”, “văn minh” Văn minh là gì?
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng
thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man.
Ví dụ: văn minh phương Đông, văn minh Hy Lạp…
Chữ văn minh trong tiếng Pháp civilisation, trong tiếng Anh là civilization, còn có nghĩa là
hoạt động khai hóa, làm thoát khỏi trạng thái nguyên thủy. Khi định nghĩa văn minh người ta đã đề cập
đến một khái niệm mới, đó là văn hóa. Vậy văn hóa là gì?
- Văn hóa là một từ tiếng Hán, do Lưu Hướng, người Tây Hán nêu ra đầu tiên. Nhưng lúc bấy giờhai
chữ văn hóa có “dùng văn để hóa”.
- Thời cận đại nghĩa của chữ có phần khác trước. Chữ văn hóa trong tiếng Anh và tiếng Pháp
làculture, có nguồn gốc từ chữ La tinh là cultura, nghĩa là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm…
- Đến giữa thế kỉ XIX do sự phát triển của xã hội học, dân tộc học… khái niệm văn hóa đã thayđổi.
Nguời đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hóa là Taylor, nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh. Ông
nói “văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong
tục và cả những năng lực, thói quen mà con người đạt được trong xã hội”.
Sau đó, các học giả đã đua nhau đưa ra những định nghĩa về văn hóa. Trên cơ sở ấy, người Nhật
Bản đã dùng hai chữ văn hóa để dịch chữ cutlture của phương Tây. Và do đó, chữ văn hóa mới có nghĩa như ngày nay.
- Hiện nay đa số các học giả cho rằng: văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần docon
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.Hay nói cách khác, văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động, lao động, sản xuất, thông qua sự
tương tác với mâu thuẫn tự nhiên và mâu thuẫn xã hội.
Tóm lại, các khái niệm văn hóa, văn minh và văn hiến ngoài những nghĩa riêng biệt không lẫn lộn
được như đối với từng cá nhân, chỉ có thể nói trình độ văn hóa không thể nói trình độ văn minh, ngược
lại đối với xã hội chỉ có thể nói thời đại văn minh, không thể nói thời đại văn hóa, nói chung ba thuật ngữ
này có nghĩa rất gần nhau. Chỗ khác nhau là, văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, còn văn
minh và văn hiến khác nhau ở chỗ văn minh là một từ mới du nhập, còn văn hiến là một từ cổ ngày nay không dùng nữa.
Câu 2 :Văn minh Ai cập cổ đại :
• Cơ sở hình thành
Địa hình Ai Cập được chia làm hai khu vực rõ rệt là thượng và hạ Ai Cập. Thượng Ai Cập (miền
nam) là dãy thung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá; hạ Ai Cập (miền bắc) là vùng châu thổ đồng bằng
sông Nile. Lãnh thổ Ai Cập hầu như bị đóng kín, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Đông là biển Đỏ,
phía Bắc là Địa Trung Hải, phía Nam giáp sa mạc Nubi
Ai cập ở vùng Đông bắc châu phi, nằm theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin. Sông Nile là một
trong những con sông lớn nhất thế giới (6.700km), phần chảy qua Ai Cập là 700km. Sông Nile có nguồn
nước giàu phù sa, bồi đắp nên những vùng đất màu mỡ... Lưu vực sông còn có một quần thể thực vật
phong phú, đặc biệt là cây Papyrut. Sông Nile còn cung cấp một lượng thủy sản phong phú và là huyết
mạch giao thông quan trọng. cũng chính vì vậy, các nhà sử học Hi lạp Herodot nói rằng “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nile”
• - . Về mặt dân cư, những cư dân cổ nhất ở lưu vực sông Nin là những thổ dân Châu Phi hình
thành trên cơ sở hỗn hợp nhiều bộ lạc. Sau này, một số bộ tộc Hamit (Hamites) từ Tây Á xâm lOMoAR cPSD| 40420603
nhập hạ lưu sông Nin. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài giữa người Hamit và thổ dân Châu
Phi đã hình thành ra những tộc người Ai Cập cổ đại.
• Thời kỳ đồ đá cũ có thể thổ dân Châu Phi đã sinh sống ở đây.
• Sau này có thể một bộ phận của tộc Hamit từ Tây Á vào hạ du sông Nin và đồng hóa với thổ dân
ở đây tạo ra người Ai Cập. Nói chung về mặt nhân chủng, cư dân Ai Cập thời cổ đại khá đồng
nhất và ổn định lâu dài.
• Về sau, khi Ai Cập nằm trong lãnh thổ đế quốc Ả Rập, cư dân Ai Cập bị đồng hóa với người
ẢRập, vốn có nguồn gốc Trung Á.
• Thành tựu a, Chữ viết
Từ khi xã hội bắt đầu có giai cấp hình thành, chữ viết ở Ai Cập ra đời. Người Ai Cập cổ đại đã sáng
tạo ra chữ tượng hình. Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những
khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý.
Thí dụ để diễn tả trạng thái khát nước thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để
nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau ).
Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên
niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình.
Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo
ra vần chữ cái A, B. .. Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng
nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ
nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes, papier. ..
Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông (Champollion) đã tìm cách đọc được thứ chữ này.
b) Về văn học: trong hàng ngàn năm phát triển lịch sử, cư dân Ai Cập đã sáng tạo ra nền văn học
phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại. Những tác phẩm thơ ca, truyện kể đều tập trung phản ánh hiện thực xã hội.
những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại của một
người thất vọng với linh hồn của mình, Người nông phu biết nói những điều hay. .. c) Kiến trúc điêu khắc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là
các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép.
Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi
tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi
cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian.
Vì vậy người Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng
mình trước Kim tự tháp”. Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời
sau qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp
Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren
là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử. d) Khoa học tự nhiên:
Về thiên văn: người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao
Thuỷ, Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius). Một
năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân
trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được lOMoAR cPSD| 40420603
xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Về toán học: do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng
sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, còn khi
cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của
các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình
phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính = 3, 14. Về Y học:
Từ thời cổ vương quốc, người Ai Cập đã hiểu biết về cấu tạo cơ thể con người tìm các loại thuốc
chữa bệnh và thuật ướp xác. Các thi hài của Pharaon còn được lưu lại đến ngày nay là thành tựu của ngành y học Ai Cập. ..
Người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại, mắt, răng, dạ dày. .. Họ đã biết
giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
Câu 3: Văn minh Lưỡng hà Cơ sở hình thành
Lưỡng Hà là một vùng bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigrơ và Ơphrát thuộc Tây Á. Tây Á
phần lớn là núi và sa mạc, vì vậy vùng đất phì nhiêu năm giữa hai con sông này là nơi thường xảy ra các
cuộc tranh chấp giữa các tộc người để tìm mảnh đất thuận lợi cho cuộc sống.
- Lưỡng Hà là một đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu. Sông Tigrơ và Ơphơrat hàng năm
trữ nước tưới mát cho dải đất mênh mông này. Phù sa của hai con sông này tạo nên khu vực đồng
bằng phì nhiêu và dồi dào nguồn nước. Chính do đó, cũng giống như AI cập, Lưỡng Hà sớm bước vào
thời đại văn minh với những công cụ thô sơ bằng đá và đồng.
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nông nghiệp phát triển, cư dân biết dùng bò để cày ruộng, làm đồ
gốm bằng bàn xoay, làm hệ thống thủy nông tưới nước cho đồng ruộng. Những cây trồng chính là nho, ô
liu, đại mạch và nhiều loại hoa quả khác. Do vị trí địa lý thuận lợi, kinh tế thương nghiệp là một nét đặc
trưng trong sự phát triển của nền kinh tế ở Lưỡng Hà.
Nằm ở vị trí trung tâm của Tây Á, Lưỡng Hà có vị trí cầu nối rất quan trọng, trên con đường qua lại
giữa phương Đông và phương Tây theo cả đường bộ và đường biển (vịnh Pécxích). Do đó Lưỡng Hà có
diều kiện giao lưu với các khu vực xung quanh.
Mặt khác, Lưỡng Hà lại không có biên giới tự nhiên hiểm trở che chắn như Ai Cập. Vị trí và đặc
điểm địa hình đó ảnh hưởng lớn tới lịch sử và văn hoá của vùng này. Lịch sử Lưỡng Hà là lịch sử của các
cuộc chiến tranh giữa các tộc người, là lịch sử các tộc người thay nhau làm chủ nhân khu vực này, hình
thành một nền văn hoá đa dạng, mở, giao lưu văn hoá mạnh mẽ..
Về cư dân, người Sumer từ thiên niên kỉ IV TCN đã tới định cư ở Lưỡng Hà và xây dựng nên nền
văn minh đầu tiên ở đây.
Đầu thiên niên kỉ III TCN người Accat thuộc tộc Sêmit từ thảo nguyên Xyri cũng tràn vào xâm nhập
và lập nên quốc gia Accát nổi tiếng.
Cuối thiên niên kỉ III TCN, người Amôrit từ phía tây Lưỡng Hà lại tràn vào xâm nhập, chính họ đã
tạo nên quốc gia cổ Babilon nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà. Ngoài ra còn có một số bộ lạc thuộc nhiều
ngữ hệ khác nhau cũng tràn vào xâm nhập trong quá trình lịch sử. Qua hàng ngàn năm lịch sử, các tộc
người này hoà nhập lẫn nhau, tạo ra một cộng đồng dân cư ổn định, cùng đóng góp xây dựng nên nền văn
minh rực rỡ ở khu vực Tây Á lOMoAR cPSD| 40420603 - Thành tựu a) Chữ viết
Từ cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III TCN, người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra chữ tượng hình.
Đầu tiên chữ viết của họ là những hình vẽ, về sau họ đơn giản thành những nét vạch có ý nghĩa tượng
trưng cho một hình vẽ nào đó. Họ thường dùng đầu cây sậy vót nhọn vạch lên những tấm đất sét còn mềm
để lại dấu vết như hình những chiếc đinh.
Vì vậy người ta hay gọi là chữ hình đinh, chữ hình góc, hay chữ tiết hình., Chữ tiết hình do người
Sumer phát minh ra đầu tiên, về sau nhiều dân tộc ở Lưỡng Hà đều sử dụng và có biến đổi. Chữ tiết hình
trở thành thứ chữ để giao tiếp giữa các dân tộc ở Tây Á thời cổ đại.
Về sau, người Phênixi, một dân tộc chuyên buôn bán quanh Địa Trung Hải thời đó đã dựa vào chữ
hình góc của người Lưỡng Hà, một phần chữ tượng hình của người Ai Cập cổđã đặt ra hệ thống chữ cái A, B. ..
b) Từ chữ Phênixi đã hình thành ra chữ Hy Lạp cổ. Từ chữ Hy Lạp cổ đã hình thành ra chữ
Latinh và chữ Slavơ và từ đó hình thành nên chữ viết của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay. c) Văn học
- Văn học: bao gồm hai loại: văn học dân gian truyền miệng và thơ ca.
+ Nội dung của các dòng văn học này chủ yếu phản ánh tín ngưỡng và cuộc sống hằng ngày của
nhân dân lao động. Điển hình là hai tập trường ca: thi phẩm Enuma Elet và anh hùng ca Gimgamet.
+ Ngoài hai nội dung chủ yếu trên, văn học thời kì này còn phản ánh mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, tự nhiên và con người, cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên để bảo tồn sự sống, chống hạn
hán, lũ lụt để bảo vệ cuộc sống yên bình.
Các thể loại văn học chính ở Lưỡng Hà thời cổ thường là các thần thoại, anh hùng ca. Tiêu biểu là
các truyện Khai thiên lập địa, Nạn hồng thuỷ, Gingamet. d) Luật pháp:
Nhà nước ban đầu của người Sumer được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là nhà
vua được gọi là Patêsi nắm tất cả các quyền lực tối cao, lời nói của vua là luật pháp. Đến thời vương quốc
Hammurabi thì tổ chức bộ máy nhà nước tương đối hoàn thiện. e)
Lưỡng hà là khu vực có những bộ luật sớm nhất. Từ thời vua hamurabi đã cho ra đời bộ
luật hamurabi, đây được coi như là bộ luật cổ nhất cho đến ngày nay. f)
Khoa học tự nhiên: - Về toán học:
- Ban đầu người Sumer sử dụng hệ đếm cơ số 5, về sau nhiều tộc người ở Lưỡng Hà sử dụng
đồngthời cả cơ số 10 và cơ số 60. Ngày nay, chúng ta còn chịu ảnh hưởng của họ qua việc chia độ
trên vòng tròn và chia thời gian. - Về hình học:
Người Lưỡng Hà cổ đã biết tính diện tích các hình hình học đơn giản, đã biết về quan hệ giữa 3
cạnh trong một tam giác vuông. Họ đã biết tính phân số, luỹ thừa, khai căn bậc 2 và căn bậc 3; đặc biệt là
họ đã giải được phương trình 3 ẩn số. Khi đo đạc người ta biết dùng số pi = 3 để tính diện tích và chu vi
hình tròn, biết tính hình tròn của tam giác vuông. Về thiên văn học: lOMoAR cPSD| 40420603
Người Babylon đã khám phá ra 5 hành tinh của mặt trời (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Hải vương tinh),
biết gần đúng quỹ đạo của các hành tinh, nghiên cứu hiện tượng sao chổi, sao băng, nhật thực, nguyệt
thực, động đất. Dùng ánh mặt trời và nước chảy để đoán giờ.
Người Lưỡng Hà cổ lập ra khá nhiều đài để quan sát thiên văn, các nhà thiên văn hồi đó còn là các
nhà chiêm tinh học. Họ cũng chia bầu trời làm 12 cung hoàng đạo, đã tính trước được nhật thực và nguyệt
thực. Họ làm ra lịch dựa vào Mặt Trăng, một năm của họ. ccó 354 ngày, còn thiếu so với năm dương lịch.
Để khắc phục hạn chế này, người ta đã biết thêm vào tháng nhuận. - Về Y học:
Người Lưỡng Hà đã biết cách chữa trị các bệnh khác nhau về tiêu hoá, thần kinh, hô hấp và đặc biệt
là bệnh về mắt. Y học đã chia thành nội khoa, ngoại khoa, họcũng đã biết giải phẫu. Thần bảo trợ cho Y
học là thần Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y ở một số nước
vẫn lấy làm biểu tượng.
Câu 4: Văn minh Trung Quốc thòi cổ trung đại Cơ sở hình thành
Điều kiện tự nhiên và dân cư
- Trung Quốc nằm ở phía Đông châu Á, diện tích 9, 6 triệu km2, đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và Canađa).
Phía Đông: giáp Thái Bình Dương
Ba mặt còn lại giáp 14 nước láng giềng.
- Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay được định hình vào khoảng thế kỷ XVIII - đời nhà Thanh, là kết
quả của một quá trình mở rộng và bành trướng kéo dài hàng nghìn năm.
- Văn minh Trung Quốc bắt nguồn từ trung lưu sông Hoàng Hà, sau đó lan toả ra toàn bộ lưu vựcsông
Hoàng Hà và sông Trường Giang. Vùng hạ lưu sông Hoàng Hà lầy lội ẩm ướt, không thích hợp cho đời
sống con người, đó là lý do giải thích vì sao nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn ở vùng trung lưu sông
Hoàng Hà chứ không phải vùng hạ lưu.
Sông Hoàng Hà và Trường Giang đã bồi đắp nên những đồng bằng màu mỡ, tuy nhiên cũng thường
gây ra lũ lụt, nên công tác thuỷ lợi rất quan trọng. Hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra
biển Đông Trung Hoa mang về phía Nam lượng phù sa rất lớn, tạo nên hai đồng bằng lớn nhất Trung Hoa:
Hoa Bắc và Hoa Nam – là hai vựa lúa lớn nhất cả nước.
Sông Hoàng Hà ở phía Bắc, sông Trường Giang phía Nam. Sông Hoàng Hà thường đổi dòng, không
theo một cửa cố định đổ ra biển, tạo nên một vùng quét tương đối rộng, gây nguy hiểm cho cuộc sống con
người (hiện tượng “quẫy đuôi” của sông Hoàng Hà).
Sông Trường Giang đóng vai trò quan trọng trong quá trình dựng nước của người Trung Hoa, là một
trong những hướng bành trướng, di tản lớn nhất của người xưa, vượt Trường Giang tiến xuống phía Nam.
Bên cạnh sông, ở Trung Quốc có rất nhiều hồ rộng là nơi trữ nước vào mùa cạn để tưới tiêu, phân lũ vào mùa mưa.
- Địa hình Trung Quốc đa dạng, có nhiều dãy núi cao: Thiên Sơn (Thái Sơn), Tây Côn Lĩnh; cónhiều
hồ lớn: Động Đình, Thanh Hải, có cao nguyên: Tây Tạng, sa mạc lớn: Gôbi, bờ biển dài ở phía Đông.
- Địa hình phức tạp đó dẫn đến nhiều loại khí hậu khác nhau, nhưng có thể chia thành hai khu vực lớn về mặt khí hậu:
miền Nam: nóng ẩm, mưa nhiều miền Bắc: lạnh, khô. lOMoAR cPSD| 40420603 *Cư dân:
Từ rất xa xưa trên lãnh thổ Trung Quốc đã có người nguyên thủy sinh sống. Bằng chứng là ở khu
vực Chu Khẩu Điếm (phía Tây Nam Bắc Kinh) (năm 1929), các nhà khảo cổ học đã khai quật được những
xương hoá thạch của người vượn có niên đại cách nay chừng 400.000 năm.
Chủng tộc: cư dân Trung Quốc thuộc chủng da vàng Môngôlôit. Đó là tiền thân của dân tộc Hán sau
này. Hiện nay, Trung Quốc gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm đa số
- Không phải là một dân tộc thuần nhất và duy nhất mà là sự kết hợp của nhiều giống người
khácnhau. Cư dân đầu tiên đến vùng Hoàng Hà là hai bộ lạc Hạ và Thương. Hạ không phải là dân bản
địa mà là những bộ tộc du mục thuộc giống Mông Cổ. Đến giữa thế kỉ XI TCN, giữa hai bộ tộc Hạ và
Thương có sự đồng hóa, đưa đến sự ra đời của một bộ tộc thống nhất được gọi là Hoa Hạ. Trong khi
đó ở lưu vực sông Trường Giang là địa bàn cư trú của các bộ tộc được gọi là Man, Di, hoàn toàn khác
cư dân vùng Hoàng Hà từ nguồn gốc tới ngôn ngữ, nghệ thuật, phong tục tập quán...
- Để có được sức mạnh trong quá trình trị thủy, chống ngoại xâm, và không ngừng mởrộng lãnh thổ
cương vực, cư dân cổ Trung Hoa cần có tính thống nhất cao trong cộng đồng, và xây
dựng bộ máy chính quyền chuyên chế tập trung quyền lực cao độ, nhà nước cổ đại Trung Hoa đã sớm
xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ III TCN Thành tựu a. Chữ viết
Lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1899 tại di chỉ Ân Khư. Đây là loại chữ tượng hình
Trên cơ sở chữ tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh (gắn liền với
hình vẽ có một âm tiết để biểu đạt hình vẽ)
- Thời Tây Chu, xuất hiện chữ kim văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Do việc phân phong ruộng
đấtcho quý tộc có công, mỗi lần như vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi chép sự việc ấy lên đỉnh.
Thời Tây Chu còn một loại chữ viết nữa gọi là thạch cổ văn (chữ viết trên đá) Ngoài
ra, chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên thẻ tre.
Các loại chữ viết này gọi chung là chữ “đại triện”, hay “cổ văn”.
- Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến tranh, đất nước chia cắt nên chữ viết cũng không thốngnhất.
- Tần: Tần Thuỷ Hoàng giao cho Lý Tư dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của cácnước
khác tạo thành chữ tiểu triện.
Đây là cơ sở chữ Hán sau này.
- Sang thời Hán, xuất hiện chữ lệ (yếu tố tượng hình ít hơn chữ triện), là giai đoạn quá độ để pháttriển thành chữ Hán ngày nay b. Văn học:
Thời cổ trung đại, TQ có một nền văn học rất phong phú. văn học thời kì này có nhiều thể loại như
thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết, … - Kinh Thi
là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đó là công
trình sáng tác tập thể của rất nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ khác nhau, trong đó phần lớn là của nhân
dân lao động. Kinh Thi là tập thơ gồm nhiều bài thơ được sưu tầm, do Khổng Tử chỉnh lý (gọi là Thi).
Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi. (Tập Thi được đặt vào hàng kinh điển của Nho gia).
Nổi bật là Kinh Thi do Khổng Tử tập hợp, chỉnh lý với 305 bài thơ gồm ba loại hình phong, nhã,
tụng. Trong đó, phong có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao nhất. Kinh Thi được đánh giá cao trên bình diện lOMoAR cPSD| 40420603
là một tài liệu lịch sử quan trọng, là nền tảng cơ bản cho sự phát triển nền thơ ca Trung Quốc trong các giai đoạn về sau.
- Trong đó, thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc.
+ Có trên 48.000 bài phản ánh toàn diện xã hội Trung Quốc đương thời.
+ Đạt đến trình độ cao về nghệ thuật với sự thần diệu tài hoa trong sáng tác ngôn ngữ.
+ Trong 2.300 nhà thơ, có 3 nhà thơ lớn nhất: Lý Bạch (1.200 bài), Đỗ Phủ (1.400 bài), và Bạch Cư
Dị (2.800 bài) đã đưa nền thi ca cổ điển Trung Quốc đến tuyệt đỉnh của sự thăng hoa.
Thơ Đường là những trang rẩ chói lọi trong lịch sử văn học trung quốc, đồng thời thơ đường đã đựt
cơ sở nghệ thuật phong cách và luật thơ cho nền thi ca trung quốc các thời kì sau này. Thơ Đường cũng
có ảnh hưởng lớn đến thơ ca việt nam.
- Tiểu thuyết: là một hình thức văn học mới bắt đầu phát triển thời Minh, Thanh. Dựa vào
những câu chuyện của những người chuyên làm nghề kể chuyện, các nhà văn đã viết thành loại “tiểu
thuyết chương hồi”. Những tác phẩm nổi tiếng trong giai đoạn này là: Thủy Hử (Thi Nại Am), Tam
quốc chí Diễn nghĩa (La Quan Trung), Tây Du Kí (Ngô Thừa Ân), Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần). .. Hồng
Lâu Mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc c. Sử học:
Người Trung Quốc chú ý đến sử học từ rất sớm. Ngay từ thời Tây Chu ở trong cung đình đã có một
viên quan chuyên lo việc chép sử, các bộ sách Xuân Thu, Thuợng Thư, Chu Lễ, Tả truyền Chiến quốc
sách... là những tác phẩm sử học có giá trị.
+ Tư Mã Thiên là ngƣời đặt nền móng cho sử học Trung Quốc. Sử ký là bộ thông sử đầu tiên được
viết vào thế kỉ II TCN. Nội dung của bộ sử kí là ghi chép lịch sử gần 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời
Hán Vũ Đế bao gồm 526.000 chữ. Đây là một tác phẩm có giá trị về mặt tư liệu và tư tưởng.
+ Từ thời Đường đến đời Minh, Thanh, sử học Trung Quốc tiếp tục phát triển với nhiều tác phẩm:
Tần Thi, Lương Thư, Bắc Tề thư, . .. (thời Đường); Tư trị thống giám (thời Tống); Minh sử, Minh thực
lục, Đại Minh nhất thống chí, Thanh thực lục, Đại Thanh thống nhất chí, (thời Minh, Thanh). Các bộ sách
nói trên là những di sản văn hóa quý báu của Trung Quốc, đồng thời nó còn là một kho tài liệu lịch sử vĩ
đại, vô song trên thế giới. d.
Khoa học - kĩ thuật
Khoa học tự nhiên Thời cổ đại, các tri thức toán học, y học, thiên văn của Trung Quốc đã đạt đến
trình độ phát triển cao. - Về toán học
Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã biết phép đếm lấy 10 làm đơn vị.
- Thời Tây Hán, xuất hiện tác phẩm toán học đầu tiên: “Chu bễ toán kinh”. Trong tác phẩm nàychứa
đựng rất nhiều kiến thức: lịch pháp, thiên văn, hình học, số học, đặc biệt đây là tác phẩm toán học sớm
nhất của Trung Quốc đã đề cập đến mối quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông giống như định lý Pitago.
- Thời Đông Hán có tác phẩm “Cửu chương toán thuật” nói về bốn phép tính cộng, trừ, nhân,
chia,phương pháp khai căn bậc hai, bậc ba, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các
hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông…
- Thời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều: Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất.Lưu
Huy đã chú giải sách “Cửu chương toán thuật”, tìm được số π (số viên chu xuất) bằng tỉ số 3927: 1250 =
3, 1416. Tổ Xung Chi là người sớm nhất thế giới tìm được số π rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số 3, 1415926 và 3, 1415927. lOMoAR cPSD| 40420603
- Thời Đường: nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, biết dùng phương
trìnhbậc ba để giải quyết nhiều vấn đề toán học.
- Thời Tống, Nguyên, Minh lại càng có nhiều nhà toán học, tiêu biểu là Giả Hiến, Thẩm Quát
đờiTống. Giả Hiến đã tìm ra được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra cách
tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Thời
kỳ Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra bàn tính, rất thuận lợi cho việc tính toán. - Thiên văn học:
Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, người Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn.
Thời Thương, tài liệu giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực, là những tài liệu sớm nhất
thế giới ghi chép về hiện tượng này.
Sách Xuân Thu có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay chứng minh được 33 lần là
hoàn toàn chính xác. Sách Xuân Thu còn chép năm 613 TCN, “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là ghi
chép về sao chổi Halây sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người
ta biết được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần.
Nhà thiên văn học nổi tiếng Trung Quốc là Trương Hành (78 – 139 TCN), người thời Đông Hán.
Ông đã biết được ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, là người lần đầu tiên giải thích được rằng
nguyệt thực là do Mặt trăng nấp sau bóng của Trái Đất, trong tác phẩm “Linh hiến”, ông cho rằng vũ trụ
là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa. Ông còn cho
rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, trái đất như lòng đỏ, trên cơ sở ấy chế tạo mô hình thiên thể
dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” hay “hồn thiên ghi”, khi mô hình này chuyển động thì
các vì sao trên đó cũng di chuyển.
Trương Hành còn chế tạo ra dụng cụ đo động đất đầu tiên trên thế giới gọi là “địa động nghi” có thể
đo một cách chính xác phương hướng của động đất. Lịch pháp
Trung Quốc sớm có lịch nhờ những hiểu biết thiên văn từ rất sớm.
Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế đã có lịch chia một năm thành 12 tháng.
Đời Thương, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất
với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Lịch này chia 1 năm thành 12 tháng, tháng
đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày, lúc đầu cứ 3 năm thêm 1 tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng
nhuận, sau đến giữa thời Xuân Thu thì cứ 19 năm thêm 7 tháng nhuận.
Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch làm tháng đầu năm, lịch đời Chu lấy tháng 11 âm lịch làm tháng đầu năm.
Đến thời Hán Vũ Đế, lịch Trung Quốc được cải cách gọi là lịch Thái sơ, lấy tháng giêng âm lịch làm
tháng đầu năm, về cơ bản loại lịch này được dùng cho đến ngày nay.
Từ thời Xuân Thu người Trung Quốc đã biết chia 1 năm làm 4 mùa, 8 tiết là lập xuân, xuân phân,
lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia 1 năm thành 24 tiết,
trong đó có 12 trung khí và 12 tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, tháng nào không có trung
khí thì thành tháng nhuận.
Người Trung Quốc xưa chia 1 đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi để đặt tên giờ, mỗi giờ chia thành 8 khắc. - Y dược:
Từ thời Chiến quốc, đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là “Hoàng đế nội kinh” nêu ra những
vấn đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm
mống phát sinh” của bệnh. lOMoAR cPSD| 40420603
Cuối thời Đông Hán, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “Thương hàn tạp bệnh luận” chủ yếu nói về
cách chữa bệnh thương hàn, đến nay vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Quốc.
Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến Quốc. Ông tên
thật là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, được tôn sùng là người khởi xướng ngành mạch học ở Trung Quốc.
Hoa Đà (? – 208) là thầy thuốc giỏi các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, trong đó ngoại khoa
là sở trường. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân,
mổ xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, gọi chung là trị bệnh bằng phẫu thuật. Về sau ông bị Tào Tháo giết chết.
Thời Minh, nhà y dược học nổi tiếng là Lý Thời Trân (1518 – 1593) với tác phẩm “Bản thảo cương
mục” trong đó ghi chép 1892 loại cây thuốc, phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình
cây thuốc đó. Đây không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng.
Các phát minh kỹ thuật Thời cổ trung đại nhân dân Trung Quốc có 4 phát minh quan trọng được
đánh giá cao trên thế giới đó là giấy, kĩ thuật in, la bàn và thuốc súng. - Kĩ thuật làm giấy:
Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép, sớm hơn là
dùng xương thú, mai rùa, kim loại, đá.
Đến thời Tây Hán, nhờ sự phát triển của nghề tơ tằm, người Trung Quốc đã chế tạo ra một loại giấy
thô sơ bằng vỏ kén con tằm, loại giấy này sần sùi, không phẳng, gai, chủ yếu dùng để gói hàng.
Thời Đông Hán, năm 105, có một viên hoạn quan là Thái Luân đã phát minh ra việc chế tạo giấy có
chất lượng tốt bằng nguyên liệu như vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách, …
Thái Luân dùng một thứ dung dịch (nước tro thảo mộc hoặc nước vôi) vị chua, làm cho nguyên liệu
bớt keo, trong hơn, dùng chổi đánh cho các thứ xơ tơi ra, tăng nhiệt độ chế hồ giấy cao hơn, do đó chất
lượng hồ giấy tốt hơn, mặt giấy làm ra đều, trơn, phẳng. Nguyên liệu chủ yếu là vỏ cây “chử” (cây dó)
sẵn có, sản phẩm làm ra tốt, nhiều, rẻ nên được sử dụng phổ biến.
Thái Luân được vua Hán phong tước “Long Đình hầu” và nhân dân gọi giấy của ông làm ra là “giấy
Thái hầu”, phong ông là ông tổ của nghề làm giấy.
Từ đó, kỹ thuật làm giấy của người Trung Quốc được cải tiến thành dây chuyền:
Cho đến ngày nay công nghệ chế tạo giấy không khác phương pháp của người Trung Quốc thời cổ bao nhiêu.
Từ thời Tây Tấn, kỹ thuật chế tạo giấy được truyền bá sang các nước láng giềng: Việt Nam, Triều
Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Ả rập, rồi từ Ả Rậptruyền sang châu Â. Sau khi nghề làm giấy được truyền bá
rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papyrút ở Ai Cập, da cừu ở châu
Âu…đều bị giấy thay thế. Kỹ thuật làm giấy được coi là cuộc cách mạng trong việc truyền bá chữ viết của nhân loại. - Kĩ thuật in:
Kỹ thuật in bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có từ đời Tần.
Hiện nay chưa rõ kỹ thuật in chính xác ra đời từ bao giờ, chỉ biết rằng đến giữa thế kỷ VII (thời
Đường) đã có kỹ thuật in. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn phổ
hiền tượng để phân phát bốn phương, như thế là chậm nhất lúc này Trung Quốc đã phát minh và ứng dụng
thuật in ấn. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704 – 751, đây là ấn
phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được. Theo nghiên cứu thì kinh này khắc in ở Tây An, vì thuật in
ấn đã được phát minh từ thế kỷ VII ở Trung Quốc. lOMoAR cPSD| 40420603
Kỹ thuật in lúc đầu là bằng ván khắc, quá trình in đại thể như sau: chọn thứ gỗ chắc, thớ nhỏ, cưa
thành những tấm ván theo quy cách nhất định, trên đó khắc nổi chữ trái, hoặc hình vẽ trái, sau đó xoa
mực, đặt tờ giấy lên in. Kỹ thuật in ván khắc mất công, mất thời gian, nhưng công nghệ giản đơn, ít tốn,
lại có thể in đi in lại nhiều lần nên được dùng rất phổ biến.
Đến thế kỷ XI, một người dân thường là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét
nung. Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có phủ sáp, nhựa thông và tro giấy, xung quanh có khung sắt
giữ lại, xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy
sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in. In xong, lại hơ lửa cho tan chất hồ, gỡ chữ bỏ vào ô gỗ lúc đầu.
Công nghệ in chữ rời tương đối giản đơn, hiệu suất cao, sử dụng và bảo tồn chữ rời tiện lợi, không mất
công, mất thì giờ như in bản khắc, tốn gỗ, hiệu suất thấp, giữ gìn bản khắc phức tạp.
Sau đó, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay thế chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả, đến thời
Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ.
Từ thời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt
Nam, Philippin, Ả Rậprồi truyền sang châu Phi, châu Âu. Năm 1448, Guttenbéc (người Đức) đã dùng chữ
rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh, đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay. - Phát minh la bàn:
- Từ thế kỷ III TCN, Trung Quốc đã biết được từ tính của đá nam châm, phát minh ra một dụng
cụchỉ hướng gọi là “tư nam”: làm bằng sắt có từ thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa
có khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Nhược điểm: sắt có từ thiên nhiên khó mài, gia
công phức tạp, dễ mất từ, lại nặng nề, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được
chính xác nên không được dùng phổ biến. Mặc dù vậy, tư nam vẫn được xem là tổ tiên của kim chỉ nam.
- Đến đời Tống, thế kỷ XI, người Trung Quốc đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng
kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính rồi dùng kim đó để làm “la bàn”. Lúc đầu la bàn
còn thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm, sợi bấc đèn rồi thả trên bát nước gọi là “thuỷ la bàn”, hoặc
treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.
- La bàn chủ yếu được các thầy phong thuỷ sử dụng để xem hướng đất, đến cuối thời Bắc Tống thì
được sử dụng trong việc đi biển. Trước kia, người đi biển nhìn vào mặt trời, mặt trăng và các vì sao mà
định phương hướng. Gặp ngày mưa gió âm u, không thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao thì thường hay
bị lạc đường, va vào đá ngầm hoặc mắc cạn vào bãi cát nổi. Lúc đầu, kim chỉ nam được dùng để bổ trợ
cùng với việc xem thiên văn cho người đi biển (đêm xem sao, ngày xem mặt trời, lúc âm u xem kim chỉ
nam”. Từ Nam Tống trở về sau, kim chỉ nam trở thành nghi khí chỉ hướng chủ yếu của ngành hàng hải,
việc xem thiên văn trở thành bổ trợ.
- Nhờ có kim chỉ nam, người đi biển vẽ được bản đồ hàng hải và làm sổ tay hàng hải. Ứng dụng kim
chỉ nam vào hàng hải làm cho kỹ thuật hàng hải cải tiến nhanh, mở một kỷ nguyên mới cho hàng hải nhân
loại. Đời Nam Tống và đời Nguyên, ngành hàng hải Trung Quốc phát triển rất cao, đầu đời Minh, Trịnh
Hoà đi thuyền xuống Tây Dương đều gắn liền với việc ứng dụng kim chỉ nam.
- Nửa sau thế kỷ XII, la bàn được truyền sang Ả Rậprồi sang châu Âu, người châu Âu cải tiến thành
“la bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI, la bàn khô lại truyền trở lại
Trung Quốc, dần dần thay thế la bàn nước.
- Phát minh ra thuốc súng (thuốc nổ)
Thuốc nổ Trung Quốc gọi là “hoả dược” (thuốc lửa, hay thuốc phát ra lửa), thành phần cơ bản là lưu
huỳnh, diêm tiêu và than, ba thứ trộn lại thành thuốc nổ đen xưa nhất.
Đây là phát minh hết sức ngẫu nhiên của các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia. Khi luyện đan (tạo ra thuốc
trường sinh bất lão), nguyên liệu được sử dụng là lưu huỳnh, diêm tiêu và than gỗ, nhưng quá trình luyện
thường hay gây ra những vụ nổ, cháy nhà, bỏng tay, bỏng mặt…nên các thầy thuốc thường dùng hoả dược lOMoAR cPSD| 40420603
để “trị ghẻ lở, sát trùng, chống phong thấp, ôn dịch”, các nhà luyện đan đã ghi lại kinh nghiệm đó để người
pha chế chú ý đề phòng.
Cuối đời Đường, hoả dược được dùng làm vũ khí chiến tranh, nhưng lúc đầu chủ yếu người ta chỉ
lợi dụng tính năng dễ bén lửa của hoả dược để tăng hiệu lực hoả công trong chiến tranh để đốt doanh trại
của địch như hoả tiễn, hoả pháo (hoả tiễn là đầu mũi tên có buộc một bọc hoả dược, châm ngòi, dùng cung
nỏ bắn, còn hoả pháo là lấy hoả dược gói thành bao, châm ngòi, lấy máy ném đá bắn).
Việc chế tạo thuốc súng phát triển mạnh vào thời Tống. Trong chiến tranh Tống – Kim thời Nam
Tống, quân Tống có dùng loại “chấn thiên lôi”, khi hoả dược nổ, tiếng to như sấm, sức nóng toả ra hơn
nửa mẫu đất, người và da bò nát vụn, không còn dấu vết, giáp sắt cũng thủng, tính năng bộc phá của hoả
dược đã tương đối lớn. Trần Quy đời Tống phát minh ra hoả khí hình ống (hoả thương) năm 1132: hoả
thương làm bằng ống tre to, hai người vác, lúc dùng, nạp hoả dược vào, lâm chiến thì đốt ngòi, ngọn lửa phun ra thiêu cháy địch.
Đầu thế kỷ XIV, đời Nguyên đã có “đồng hoả súng” (súng bằng đồng): bắn đạn đá, nạp hoả dược
vào thân súng, cuối súng có ngòi, châm ngòi thì bắn đạn đá ra.
Đến thế kỷ XIII, thuốc súng được truyền sang châu Âu thông qua người Ả Rập(người Mông Cổ
trong quá trình tấn công Trung Quốc đã học tập được cách làm thuốc súng của người Trung Quốc, sau đó
họ chinh phục Tây Á, truyền kỹ thuật làm thuốc súng cho người Ả rập, người Ả Rậplại truyền thuốc súng
và súng vào châu Âu qua Tây Ban Nha).
→ Những phát minh trên đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt thế giới. Nghề in, nghề làm giấy đã góp
phần thay đổi trên bình diện văn học, thuốc súng thay đổi trên bình diện kỹ thuật quân sự, la bàn thay đổi
trên bình diện hàng hải. Từ đó dẫn đến sự thay đổi trên các lĩnh vực khác. Đây là những phát minh có ý nghĩa toàn nhân loại.
Các Mác đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát minh và ứng dụng các kỹ thuật chế tạo
thuốc súng, làm kim chỉ nam và kỹ thuật ấn loát đối với sự ra đời của xã hội tư bản: “ba đại phát minh dự
báo xã hội tư bản đến gần, thuốc nổ phá tan giai tầng kỵ sĩ, còn thuật in ấn thì trở thành công cụ của Tân
giáo, tóm lại biến thành phương tiện phục hưng khoa học, biến thành đòn bẩy mạnh mẽ vô cùng, tiền đề
tất yếu để phát triển tinh thần” Nhưng ở Trung Quốc, những phát minh này đã không được sử dụng vào
những mục đích khoa học. Lỗ Tấn đã phê phán: “Người nước ngoài sử dụng kỹ thuật làm giấy và ấn loát
để phát triển văn hoá khoa học, còn người Trung Quốc thì dùng giấy và kỹ thuật in ấn để sản xuất kinh
sách; người nước ngoài dùng chất cháy nổ làm đạn dược để chống quân thù, còn người Trung Quốc thì
chủ yếu lại dùng nó để cúng lễ thần linh, trừ tà ma; người nước ngoài dùng kim chỉ nam để phát triển
ngành hàng hải, còn người Trung Quốc thì chủ yếu lại dùng nó vào việc xem đất cát đặt mồ mả theo thuật phong thuỷ”
6. Triết học, tư tưởng, tôn giáo
a) Tư tưởng Nho Gia
Là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên là Khổng Tử (thời
Xuân Thu), sau được Mạnh Tử (thời Chiến quốc) và Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) phát triển và hoàn chỉnh.
* Khổng Tử (551 – 479 TCN) lOMoAR cPSD| 40420603
Tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà tư tưởng lớn
và nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Tương truyền ông có đến 3000 học trò, trong đó có
72 người hiền (thất thập nhị hiền)
- Bên cạnh việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu,trong
đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại sau trở thành tác phẩm kinh điển của Nho gia (gọi là Ngũ kinh)
- Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò được chép thành sách Luận ngữ,
chứađựng những tư tưởng cơ bản của Khổng Tử.
- Tư tưởng cơ bản của Khổng Tử
+ về mặt triết học: Khổng Tử ít quan tâm đến việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ. Về trời đất quỷ
thần, ông có quan niệm không rõ ràng, một mặt cho rằng trời là giới tự nhiên, mặt khác lại cho rằng trời
có thể chi phối số phận của con người, một mặt thì hoài nghi “chưa rõ được việc thờ người, làm sao biết
được việc thờ thần”, mặt khác lại rất coi trọng cúng tế, “tế thần xem như có thần”
+ về mặt đạo đức: bao gồm nhiều mặt như “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, “trí”, “tín”, “dũng”, …trong đó
Khổng Tử đặc biệt đề cao chữ “nhân”
“Nhân” có nghĩa là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đường làm cho người khác”,
“mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành
đạt”. Đối với bản thân, nhân có nghĩa là phải “kiềm chế mình làm theo đúng lễ”, “không hợp với lễ thì
không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không
làm” → “Nhân” là phạm trù rất rộng, gần với đạo đức.
Đề cao “nhân”, Khổng Tử còn chú trọng đến “lễ”, coi “nhân” là gốc, là nội dung, còn “lễ” là biểu
hiện của “nhân”, “người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được”
“Lễ” còn có thể điều chỉnh “nhân” cho đúng mực. Khổng Tử nói “cung kính mà không biết lễ thì
mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn mà
không biết lễ thì làm phật ý người khác”.
+ Về đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương “đức trị”, “cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân
vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân
mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”.
Nội dung “đức trị” gồm: làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành.
Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ tín,
tiết kiệm trong công việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp lý”
Tính bảo thủ: chủ trương những quy chế, lễ nghi được đặt ra từ thời Tây Chu là không được thay đổi.
+ về giáo dục: Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích
giáo dục theo Khổng Tử là uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, phương châm là tiên học lễ hậu học
văn, học phải đi đôi với hành.
Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy, chú ý dẫn dắt học trò để họ có thể suy nghĩ rút ra
kết luận, tuỳ theo trình độ, tính cách từng học trò mà dùng những phương pháp dạy khác nhau. Đối với
học trò, ông yêu cầu họ phải khiêm tốn, cầu thị “biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, thế mới thực là biết”.
Trong thời đại của ông, chủ trương chính trị của ông chưa được trọng dụng.
* Mạnh Tử (371 – 289 TCN)
- Mạnh Tử người nước Trâu (cũng thuộc Sơn Đông ngày nay), là học trò của Tử Tư (tức Khổng
Cấp – cháu nội của Khổng Tử). Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước lOMoAR cPSD| 40420603 + Về mặt triết học:
Mạnh Tử tin ở mệnh trời, cho rằng mọi việc đều do trời quyết định, tuy vậy những bậc quân tử tu
dưỡng đến mức cực thiện cực mĩ có thể cảm hoá được ngoại giới.
+ Về đạo đức: Mạnh Tử có hai đóng góp mới
Cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh, có sẵn gọi là tính thiện, “nhân chi sơ tính
bản thiện”, được biểu hiện ở nhân, nghĩa, lễ, trí. Nếu được giáo dục tốt thì tính thiện bẩm sinh ấy sẽ đạt
đến cực thiện, ngược lại, nếu không được giáo dục tốt thì bản tính tốt ấy sẽ mất đi. Trong nhân, nghĩa,
lễ, trí thì Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa + Về chính trị: Mạnh Tử nhấn mạnh nhân chính và thống nhất.
Nhân chính tức là dùng đạo đức để trị nước (giống quan điểm của Khổng Tử), “dùng sức mạnh để
bắt người ta phục thì không phải là người ta phục từ trong lòng mà vì sức không đủ. Lấy đức để làm cho
người ta phục thì trong lòng người ta vui và thực sự là phục vậy”.
Điểm cốt lõi trong đường lối nhân chính là tư tưởng quý dân. “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” (dân là quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ)
Thống nhất: chủ trương muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn Trung
Quốc được thái bình. Biện pháp thực hiện thống nhất là nhân chính
+ Về giáo dục: chủ trương mở rộng giáo dục đến mọi tầng lớp để dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu.
Thời Chiến Quốc, những tư tưởng của Mạnh Tử cũng bị coi là viển vông, không phù hợp với hoàn
cảnh nên không được các nước chư hầu chấp nhận.
* Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)
Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển và hoàn chỉnh. Năm 136 TCN, Hán Vũ
Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” (bỏ các phái khác, đề cao phái Nho gia). Từ đó, Nho
gia bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc.
+ Về triết học: Đổng Trọng Thư có hai điểm mới là thuyết “thiên nhân cảm ứng” và dùng âm dương
ngũ hành để giải thích mọi việc.
“Thiên nhân cảm ứng” là nói về mối quan hệ tác động qua lại giữa trời và người. Đổng Trọng Thư
khẳng định: “Trời là thuỷ tổ của muôn vật cho nên bao trùm tất cả không có ngoại lệ”. Giữa trời và người
có mối quan hệ qua lại, trời có thể chi phối hoạt động của con người, ngược lại sự cố gắng hết sức của
con người cũng có thể tác động đến trời.
Đổng Trọng Thư dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông,
do đó cũng góp phần phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước.
“Giữa trời đất, có hai khí âm dương bao trùm lấy con người giống như nước thường ngập con cá,
chỗ khác với nước là có thể thấy và không thể thấy mà thôi”. Đổng Trọng Thư cho rằng trời trọng dương, không trọng âm.
Đối với ngũ hành, Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật: liền nhau thì sinh nhau, cách nhau thì khắc nhau.
(thứ tự của ngũ hành là Mộc - Hoả - Thổ - Kim - Thuỷ → Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim,
Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc; và Mộc khắc Thổ, Hoả khắc Kim, Thổ khắc Thuỷ, Kim khắc Mộc, Thuỷ khắc Hoả)
+ Về đạo đức: Đổng Trọng Thư nêu ra thuyết “tam cương”, “ngũ thường”, “lục kỉ”.
“Tam cương” là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ, trong đó, bề tôi, con và vợ phải phục
tùng vua, cha, chồng. Vua, cha, chồng là dương, bề tôi, con, vợ là âm, mà trời trọng dương chứ không
trọng âm nên bề tôi, con, vợ phải ở địa vị phục tùng.
“Ngũ thường” là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những nội dung này đã có trong tư tưởng Khổng, Mạnh
nhưng đến Đổng Trọng Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường
nhất của người quân tử. lOMoAR cPSD| 40420603
“Lục kỉ” là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, mẹ, anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.
“Tam cương”, “ngũ thường” đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã
đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến ở Trung Quốc.
+ Về chính trị: Đổng Trọng Thư chỉ cụ thể hoá tư tưởng của Khổng - Mạnh như: hạn chế sự chênh
lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết người, giảm nhẹ
thuế khoá, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục.
Đến Đổng Trọng Thư, Nho gia đã trở thành Nho giáo. Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học.
* Sự phát triển của Nho học đời Tống
Nho học đời Tống giải thích nguồn gốc của vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật
chất mà họ gọi là lý và khí, lý có trước khí. Do đó, những người theo quan điểm này được gọi là phái lý học.
- Người đầu tiên khởi xướng lý học là Chu Đôn Di (1017 – 1073), ông cho rằng nguồn gốc của vũtrụ
là thái cực, hay vô cực, thái cực có hai thể động và tĩnh, động sinh ra dương, động cực lại đến tĩnh. Tĩnh
sinh ra âm, tĩnh cực lại đến động.
- Đồng thời với Chu Đôn Di có Thiệu Ung (1011 – 1077): cho rằng thái cực sinh lưỡng nghi,
lưỡngnghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.
- Trình Hạo (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Chu Hy (1130 – 1200)…cũng là những nhà
lýhọc nổi tiếng. Trình Di và Chu Hy nêu ra phương pháp nhận thức “cách vật trí tri” nghĩa là phải thông
qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu được cái lý của sự vật, tức là các khái niệm trừu tượng. Hai
ông cũng tách Đại học và Trung dung trong sách lễ ký thành hai sách riêng, từ đó Đại học và Trung dung
được gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành bộ kinh điển thứ hai của Nho gia, gọi là Tứ thư.
→ Có thể nói, Nho giáo được xem là quốc giáo, là chỗ dựa, cơ sở của chế độ phong kiến Trung
Quốc. Với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc hơn 2.000 năm, Nho giáo đã
đóng góp quan trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dưỡng đạo đức, phát triển văn hoá giáo dục. Nhưng
đến cuối thời kỳ phong kiến, do tính bảo thủ của nó, Nho giáo đã trở thành vật cản tạo nên sự trì trệ của xã hội Trung Quốc.
Câu 5: Văn minh Ấn Độ cổ trung đại:
- Điều kiện tự nhiên:
+ Địa hình Ấn Độ rất đa dạng: chia làm hai miền Nam và Bắc, lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới.
Miền Bắc có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Lưu vực sông Ấn là nơi
phát nguyên của một trong những nền văn minh sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Hai con sông Ấn và
Hằng đã tạo nên những đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho trồng trọt, phát triển kinh tế nông
nghiệp. (Lưu vực sông Ấn, sông Hằng là một trong những vựa lúa của thế giới hiện nay).
Miền cực Bắc Ấn Độ là tỉnh Casơmia. Phía Nam Casơmia là vùng Penjap, nghĩa là “vùng năm sông”
(gồm sông Ấn và bốn nhánh sông chính là Ravi, Thelum, Chenar và Sutleji). Các sông lớn của Ấn Độ
như sông Ấn, sông Hằng đều bắt nguồn từ dãy núi Himalaya, nhưng lại chảy theo hai hướng ngược nhau.
Sông Ấn dài trên 1.500 km chảy theo hướng Tây Nam qua vùng Penjap Tây, đổ ra vịnh Ôman, tên Ấn của
nó là Sindhu, có nghĩa là “sông”. Người Ba Tư khi vào đất Ấn đã đổi nó thành Hinđu và gọi tất cả miền
Bắc Ấn Độ là Hindustan, nghĩa là “xứ sở các dòng sông”. Chính nơi đây từ thiên niên kỷ thứ III TCN đã
nảy sinh ra một nền văn minh nổi tiếng là Môhenjô Đarô và Harappa.
Sông Hằng được coi là con sông linh thiêng nhất của Ấn Độ. Nó bắt nguồn từ dãy Himalaya, choàng
ngang cả phía Bắc Ấn. Trong huyền thoại Ấn Độ, sông Hằng là người con gái của Himalaya, không những lOMoAR cPSD| 40420603
vậy, theo người Ấn Độ, sông Hằng còn là con sông ở trên trời. Nó chảy tung bọt dưới chân thiên thần
Visnu - thần Bảo tồn, nên nó có tên là Visnupadi. Khi vua Bhagiratha để tiếp tục ý nguyện của cha mình,
đã bỏ ngai vàng lên Himalaya luyện phép mới mời được sông Hằng rời thiên giới quay dòng chảy xuống
tưới mát cho trần gian. Nó chảy ngang qua Himalaya và tiếp tục chảy xuống âm phủ. Vì vậy sông Hằng
có đến ba dòng chảy qua cả ba thế giới: trên trời nó là Ngân Hà, ở mặt đất nó là Hằng Hà, dưới âm phủ
nó có tên là Patalaganga. Vì sông Hằng chảy qua cả ba thế giới nên nó còn được gọi là Tripathaga.
Đối với người Ấn Độ, nước sông Hằng có sức thanh tẩy rất màu nhiệm: người có tội đến tắm nước
sông Hằng sẽ trở nên trong sạch. Đến với sông Hằng, gọi tên sông Hằng, người ta cảm thấy tĩnh tâm,
thanh thản và như trút đi hết mọi cực khổ, lo âu của cuộc đời. Do vậy, sông Hằng được coi như sông Mẹ.
Hình tượng của sông Hằng được nhân hoá như là một người đàn bà mang một bình đầy nước, đứng trên một con cá sấu.
Việc tắm nước sông Hằng đã trở thành một sinh hoạt tôn giáo thiêng liêng. Đó là lễ hội tắm Kumbh
Mela. Hàng năm, hàng triệu tín đồ đạo Hinđu từ khắp miền đất nước đều hành hương về đây tắm dòng
nước mát sông Hằng để được rửa sạch mọi lỗi lầm, để được tĩnh tâm, an ủi. Và khi chết, nếu được nhỏ
vài giọt nước sông Hằng vào miệng thì đó là diễm phúc của cuộc đời. “Dòng sông Hằng…đã nắm giữ trái
tim của Ấn Độ và thu hút hàng bao nhiêu triệu người đến đôi bờ của nó từ buổi bình minh của lịch sử.
Câu chuyện dòng sông Hằng, từ ngọn nguồn của nó đến biển cả, từ thời xưa đến thời nay, là câu chuyện
của nền văn minh và văn hoá Ấn Độ, của sự hưng suy của các triều đại, của những thành phố lớn, kiêu
hãnh, của cuộc phiêu lưu của con người và sự tìm tòi của trí tuệ từng làm bận bịu các nhà tư tưởng Ấn Độ…”
Miền Nam Ấn là cao nguyên Đêcan rộng lớn, có nhiều rừng rú và khoáng sản, nằm giữa hai dãy núi
Đông Ghát và Tây Ghát, chạy dài dọc theo hai mặt Đông và Tây của bờ biển Ấn Độ Dương. Vùng cao
nguyên Đêcan có rất nhiều sông ngòi chảy qua và đổ ra biển, song mực nước của các con sông này không
ổn định nên không thuận lợi cho giao thông cũng như thuỷ lợi.
+ Cùng với sự đa dạng của địa hình, khí hậu của Ấn Độ cũng rất đa dạng và khắc nghiệt: ở miền Bắc
Ấn – dãy Himalaya quanh năm tuyết phủ, gió lạnh thấu xương, bão tuyết thường xuyên xảy đến, mùa hè
băng tuyết tan lại tạo thành những cơn thác lũ đổ xuống chân núi, có thể cuốn lấp đi cả một vùng làng
mạc dân cư. Ở miền Nam, khí hậu khô, nóng, đất đai khô cằn.
→ Tóm lại, Ấn Độ là một đất nước có điều kiện tự nhiên, điều kiện địa lý hết sức đa dạng nhưng
cũng vô cùng khắc nghiệt. Đó là một tiểu lục địa mênh mông, vừa có những miền núi cao đầy băng giá
và rừng rậm âm u, vừa có những miền đại dương chói chang ánh nắng, vùa có những con sông lớn với
những đồng bằng trù phú lại vừa có những cao nguyên và sa mạc khô khan, nóng nực. - Thành tựu: 1, Chữ viết:
- Chữ viết là một biểu hiện của văn minh. Chữ viết xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ từ nền văn minhsông
Ấn. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh sông Ấn, người ta đã phát hiện được hơn 3000 con dấu khắc chữ
đồ hoạ, nhưng đáng tiếc cho đến ngày nay người ta vẫn chưa tìm ra cách giải mã loại chữ này.
→ Dân tộc Ấn là dân tộc có chữ viết vào loại sớm nhất thế giới.
- Vào thế kỷ VIII – VII TCN, ở Ấn Độ xuất hiện cùng một lúc nhiều loại chữ cổ: Brami (từng
đượcvua Asôka khắc trên bia đá); Kharosthi, loại chữ này có lẽ bắt nguồn từ một loại chữ cổ vùng Tây Á;
chữ Sanxkrít (chữ Phạn) do người Ấn tạo ra trên cơ sở kế thừa các mẫu tự của hai chữ trên; chữ Pali được
xây dựng trên cơ sở vay mượn từ Phạn ngữ (viết kinh Phật)
Trong 4 thứ chữ này, chữ Phạn là thứ chữ được bổ sung dần cả về ngữ pháp và kiểu chữ. Người có
công trong việc hoàn chỉnh hệ thống ngữ pháp của chữ Phạn, tu chỉnh kiểu chữ của nó là Panini (thế kỷ
V TCN), từ đó chữ Phạn được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ cho đến thế kỷ X.
Người ta thường chia chữ Phạn thành ba loại: chữ Phạn cổ xưa hay chữ Phạn thời Vêđa, chữ Phạn
sử thi và chữ Phạn cổ điển. Chữ Phạn cổ xưa được sử dụng trong các kinh Vêđa trong khoảng thiên niên lOMoAR cPSD| 40420603
kỷ II TCN. Đó là một ngôn ngữ dựa trên một phương ngữ ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, còn mang nhiều nét sơ
khai. Từ thế kỉ IV TCN, các nhà ngữ pháp Ấn Độ, đặc biệt là Panini là người có công hoàn chỉnh chữ
Phạn cả về kiểu chữ và ngữ pháp, biến nó thành một ngôn ngữ có cấu trúc chặt chẽ, lôgic, trở thành chữ
Phạn cổ điển được dùng phổ biến trong thơ ca, kịch và truyện. Đến khoảng thế kỉ II SCN, nhà ngữ pháp
Patanjali đã hoàn chỉnh và phát triển chữ Phạn thêm một bước. Còn chữ Phạn sử thi thì đã được dùng chủ
yếu trong các bộ sử thi Mahabharata và Ramayana, tuy xuất hiện sau chữ Phạn thời Vêđa nhưng lại cổ
hơn, bình dân hơn và sinh động hơn chữ Phạn cổ điển. Sau đó, chữ Phạn trở thành chữ viết chính thức
của Ấn Độ từ thế kỉ V TCN đến thế kỷ X sau công nguyên.
- Từ thế kỷ X trở đi dần dần xuất hiện nhiều loại chữ viết khác nhau. Mỗi khu vực, mỗi vùng cómột
thứ chữ viết riêng. Trong đó, chữ Hinđi được xây dựng trên cơ sở chữ Phạn là thứ chữ phổ biến ở Ấn Độ cho đến nay.
- Ngày nay ở Ấn Độ có 15 thứ tiếng chính được dùng phổ biến, chia làm 2 hệ thống:
+ ngữ hệ Aryan (khoảng gần 3/4 dân số Ấn Độ thuộc ngữ hệ này, gồm 11 thứ tiếng)
+ ngữ hệ Đraviđa (4 thứ tiếng)
Ngoài ra, đặc biệt ở Bắc Ấn dùng phổ biến tiếng Anh. Ấn Độ chưa có ngôn ngữ thống nhất toàn
quốc. Cư dân nói ngữ hệ Aryan sống ở miền Bắc, cư dân nói ngữ hệ Đraviđa sống ở miền Nam. Các ngôn
ngữ khác ngữ hệ thì hoàn toàn khác nhau, thậm chí cùng ngữ hệ cũng rất khác nhau. Vì thế, tính tách biệt
giữa các cộng đồng ngôn ngữ rất lớn. Ấn Độ là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hoá. Phạn ngữ,
chữ Hinđi như một cơ sở để thống nhất cộng đồng văn hoá Ấn Độ. 2. Văn học
Nền văn học Ấn Độ rất phong phú, rất đặc sắc, giàu tính sáng tạo, thấm đậm tinh thần nhân văn, tinh thần Hinđu giáo.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
a. Kinh Vêđa: là bộ kinh cầu nguyện nhưng đồng thời nó cũng là một tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ấn Độ.
- Vêđa bắt nguồn từ chữ “Vid” trong tiếng Phạn, nghĩa là “hiểu biết”, “tri thức”, “sự thông
thái”,“uyên bác”. Vêđa là “kho tri thức”.
- Người Ấn Độ cho rằng kinh Vêđa do thần thánh ban cho họ, thực tế nó là sáng tác tập thể củangười
Ấn Độ trong một giai đoạn lịch sử rất lâu dài.
- Kinh Vêđa được sáng tác vào khoảng từ 1500 – 1000 năm TCN, lúc đầu được truyền miệng, saumới được ghi chép lại.
- Cấu tạo: Vêđa có 4 tập là Rig Vêđa, Yajur Vêđa, Sama Vêđa, Atharva Vêđa.
+ Rig Vêđa: (ca tụng): bộ kinh tập hợp những bài thơ, bài ca, những mẩu chuyện ca ngợi thần linh.
Rig Vêđa (viết đầy đủ là Rig Vêđa Samhita, Sam: cùng nhau, hita: sắp xếp, sưu tập) là tri thức về
các thánh ca, ca tụng thần linh dưới dạng thi ca, vì “rig” có nghĩa là “tán ca”, Vêđa có nghĩa là tri thức.
+ Yajur Vêđa (Yajur Vêđa Samhita) (tế tự), Yajus nghĩa là “thần chú”: bộ kinh tập hợp những lễ nghi
và cách thức khấn vái thần thánh.
+ Sama Vêđa (Sama Vêđa Samhita) (hát có vần điệu, “saman” có nghĩa là “từ điệu”): là bộ kinh về
các giai điệu, ca chầu cầu nguyện thần linh trong lễ hiến tế.
+ Atharva Vêđa (thần chú, phép ma thuật) là bộ kinh tập hợp những lời khấn vái cầu xin có tính chất
phù chú ma thuật, tương truyền do đạo sĩ Atharva truyền lại.
- Kế tiếp 4 tập Vêđa và có liên quan tới Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư),
Upanisát(sách nghĩa sâu)…nhưng giá trị văn học không đáng kể, chủ yếu là những bài cầu nguyện, thần
chú, những nghi thức cúng bái… b. Sử thi lOMoAR cPSD| 40420603
Đồ sộ nhất là hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana, đều được truyền miệng, từ nửa đầu thiên kỷ
I TCN, sau đó được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Sanxkrít.
- Mahabharata (Những chiến công vĩ đại của dòng họ Bharata) là bộ sử thi lớn nhất của người Ấn,
cũng là bộ sử thi vĩ đại nhất của nhân loại còn lại đến ngày nay, phản ánh cuộc nội chiến giữa các vương
quốc của người Aryan mới lập ra ở Ấn Độ vào nửa đầu thiên niên kỷ I TCN. Tuy nhiên, chủ đề chiến
tranh chỉ chiếm khoảng 1/4 độ dài tác phẩm, 3/4 còn lại phản ánh mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, tư
tưởng, tôn giáo Ấn Độ. Vì vậy, Mahabharata được coi là pho Bách khoa toàn thư về Ấn Độ. Người Ấn
Độ thường tự hào cho rằng: “Cái gì không có trong Mahabharata thì cũng không có ở bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ”.
Theo các nhà nghiên cứu thì Mahabharata là một tác phẩm được ra đời do tập thể các tác giả dân
gian Ấn Độ sáng tác và được bổ sung trong nhiều thế kỷ (từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ V sau CN). Toàn
bộ tác phẩm gồm 110.000 câu thơ đôi, chia làm 18 quyển, dài gấp 7 lần tổng số của cả hai bộ sử thi Iliát
và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại cộng lại.
Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, đặc biệt ở Đông Nam Á. Ở Inđônêxia, khoảng từ
thế kỉ VII đến thế kỷ XIII, xuất hiện nhiều truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata như: “Trận
đánh vĩ đại của con cháu Bharata” bằng tiếng Giava cổ, “Đám cưới của Acgiuna”. Ở Campuchia, vào thời
kì Ăngko, nhiều cảnh trong Mahabharata được thể hiện bằng phù điêu trên mặt đền Ăngko và các đền đài khác.
Tóm tắt nội dung: như tên gọi của nó là “Những chiến công vĩ đại của dòng họ Bharata”, tác phẩm
kể về cuộc chiến lịch sử giữa hai dòng họ Kôrava và Panđava, đều là dòng dõi Bharata. (Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng, cốt lõi lịch sử của Mahabharata là cuộc chiến tranh bộ tộc ở lưu vực sông Hằng trong khoảng
giữa thiên niên kỷ II TCN, trong quá trình tạo dựng những nhà nước đầu tiên của người Aryan.
Sử thi Mahabharata không chỉ là tác phẩm văn học vĩ đại nhất của Ấn Độ và của nhân loại mà còn
là một tác phẩm có giá trị như bộ Đại Bách khoa toàn thư về triết học, chính trị, đạo đức, đời sống, xã hội
và văn hoá của đất nước Ấn Độ truyền thống.
- Ramayana (kỳ tích của Hoàng tử Rama): bộ sử thi lớn thứ hai của Ấn Độ, sau Mahabharata (về
dung lượng chỉ bằng 1/4 số trang của Mahabharata). Có truyền thuyết cho rằng, tác giả cả Ramayana là
nhà hiền triết Valmiki sống vào khoảng thế kỷ VI – V TCN.
Nội dung ca ngợi chiến công của hoàng tử Rama trong việc tiêu diệt loài quỷ dữ Ravana để cứu vợ
mình là nàng Sita, ca ngợi mối tình rất đẹp nhưng đầy trắc trở giữa Rama và Sita. Đồng thời tác phẩm
cũng phản ánh quá trình chinh phục Ấn Độ của người Aryan. Tuy Ramayana có dung lượng ít hơn
Mahabharata nhưng sự cuốn hút và sức ảnh hưởng của nó rất lớn lao, nó đã làm say mê biết bao thế hệ
người Ấn Độ. Những nhân vật chủ yếu của bộ sử thi này là Rama và Sita đã trở thành những nhân vật
kiểu mẫu mà người Ấn Độ mong muốn: một ông vua sáng suốt, một người phụ nữ xinh đẹp, chung thuỷ.
Ramayana có ảnh hưởng lớn cả ở Đông Nam Á, mỗi nước có một phiên bản Ramayana đã được bản địa
hoá (Ramakiên ở Thái Lan, Ramayana ở Inđônêxia, kịch Rama ở Mianma, trường ca Riêm Kê ở
Cămpuchia, trường ca Phạlắc Phạlam và Xỉnxay ở Lào, Ramayana của Chămpa, Dạ Thoa Vương của Việt Nam.
c. Sơkuntơla (tác giả là Kaliđasa)
Kaliđasa là nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất thời Gúpta (thế kỷ V). Vở kịch Sơkuntơla được coi là
một kiệt tác của văn học Ấn Độ thời trung đại. Kaliđasa cũng được coi là một trong những nhà văn hoá
lớn nhất của Ấn Độ, là niềm tự hào của văn học Ấn Độ.
Kaliđasa là nhà thơ vĩ đại nhất viết bằng tiếng Phạn của Ấn Độ. Song người ta lại biết quá ít về cuộc
đời của con người vĩ đại này. Theo các truyền thuyết, ông vốn thuộc dòng dõi đẳng cấp Bàlamôn. Ông
mồ côi cha mẹ và được một người chăn cừu nuôi. Lớn lên, ông ít được học và có phần hơi đần, nhưng lại lOMoAR cPSD| 40420603
rất đẹp trai. Một nàng công chúa mê Kaliđasa và xin vua cha cho lấy làm chồng. Vì yêu chồng, nàng công
chúa cầu xin nữ thần Kali truyền cho chàng trí tuệ. Và thế là từ đó chàng trở nên thông minh và có tên là
Kaliđasa (kẻ nô lệ của nữ thần Kali).
Tuy những tài liệu còn lại quá ít ỏi, nhưng các nhà nghiên cứu biết chắc là Kaliđasa sống và sáng tác
vào giai đoạn trị vì của hai vị vua Sanđra Gupta II và Kumara Gúpta I (thế kỷ IV – V) - thời đại hoàng
kim của văn hoá Ấn Độ cổ đại. Kaliđasa được coi là chiếc vương miện của làng thơ trong đội ngũ chín
nhà văn hoá lớn hay thường gọi là chín viên ngọc quý của vua Sanđra Gúpta. Ông đã viết rất nhiều tác
phẩm kịch và thơ, có những tác phẩm trở thành bất hủ như: ba vở kịch: “Malavika và Agnimita”, “Phần
thưởng của lòng dũng cảm” và “Lại nhận ra được nàng Sakuntala” (gọi tắt là Sakuntala), các bài thơ: “Sự
ra đời của Thần chiến tranh”, “Dòng dõi Ragu”, “Đám mây sứ giả”, “Thời gian của năm”. Các nhà nghiên
cứu coi Kaliđasa là Shakespeare cảu Ấn Độ và xếp ông vào hàng ngũ các kịch gia vĩ đạo nhất của nhân
loại. Vở kịch nổi tiếng nhất là Sakuntala.
Đại thi hào Goeth đã ca tụng vở kịch này: “Hương thơm của mùa xuân, quả chín của mùa thu, tất
cả những gì làm lòng người náo nức mê say và nuôi dưỡng con người và tất cả trời đất bao la đều đã thu
tóm lại trong một tiếng duy nhất: Sakuntala”
Kaliđasa, một tài năng thi ca của đất nước Ấn Độ đã góp vào kho tàng của nhân loại những viên ngọc quý giá. 3, Phật giáo
Quê hương của đạo Phật là đất nước Ấn Độ cổ đại, ra đời ở một miền đất nhỏ ở vùng biên giới đông
bắc Ấn Độ, từ trên 2600 năm nay, đạo Phật đã truyền bá khắp đất nước này và đi tới hầu hết các nước
vùng Đông Á và Đông Nam Á, thu hút hàng trăm triệu tín đồ, trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất của loài người.
Tuy nhiên như một nghịch lý, trong khi đạo Phật có những ảnh hưởng rất sau rộng ở bên ngoài Ấn
Độ, thì tại quê hương của mình, vị trí của đạo Phật ngày càng thu hẹp trước sự mở rộng của đạo Hinđu.
* Sự ra đời của đạo Phật
- Vào thế kỷ VI TCN, đạo Phật - một trong những tôn giáo lớn nhất của nhân loại, đã ra đời ở ẤnĐộ.
Người sáng lập ra tôn giáo này là Sitđạtta Gôtama, hiệu là Sakia Muni (Thích Ca Mâuni) – Sakia:
tên thị tộc, bộ lạc Phật xuất hiện, Muni: Thánh → Sakia Muni: Thánh của tộc Sakia.
Đạo Phật ra đời ở Đông Bắc Ấn Độ, ở chân núi Himalaya, (nay là Nêpan).
- Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp Vácna đang thịnh hành,
nhữngmâu thuẫn trong lòng xã hội rất sâu sắc, đó là mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng nhân dân với
hai đẳng cấp trên và mâu thuẫn giữa quý tộc Ksatơrya với Bàlamôn. Vì lúc này, đẳng cấp Ksatơrya đã
nắm chính quyền, có thế lực về kinh tế, chính trị, nhưng địa vị xã hội vẫn thấp hơn Bàlamôn nên họ đấu
tranh chống lại đẳng cấp Bàlamôn.
- Niên đại của đạo Phật có nhiều ý kiến, trong đó có 3 ý kiến cơ bản: 563 – 483 TCN 560 – 480 TCN 624 – 544 TCN
Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra đạo Phật, tuy nhiên giáo lý nhà Phật cho
rằng Thích Ca không phải là đức Phật duy nhất. Theo tiếng Phạn, Buddha có nghĩa là “Đấng giác ngộ”.
Phật Thích Ca chỉ là một trong những đấng giác ngộ đó, nhưng là một đức Phật chí tôn có thực trong lịch
sử. Cuộc đời của Phật Thích Ca chủ yếu được biết đến qua một số kinh truyện và Phật thoại, trong đó,
bên ngoài cái nhân lõi lịch sử có thực là một vầng hào quang của những truyền thuyết và huyền thoại. lOMoAR cPSD| 40420603
Phật Thích Ca tên thật là Sitđatta Gôtama, sinh năm 563 TCN, là hoàng tử của bộ tộc Xakya (Thích
Ca), có thủ đô là thành Kapilavatstu (ngày nay ở biên giới giáp Nêpan, đông bắc Ấn Độ). Mẹ Sítđatta là
hoàng hậu Maya xinh đẹp, hiền dịu và thông minh. Sítđạtta thuộc dòng dõi đẳng cấp vũ sĩ Ksatơrya.
Truyền thuyết cho rằng đức Phật đã có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu thai làm con vua xứ Sakya.
Kiếp gần nhất của đức Phật là một con voi trắng 6 ngà. Vẫn theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya nằm mơ
thấy con voi trắng đó đi vào mạn sườn phải của mình, rồi có thai, sinh ra hoàng tử cũng từ mạn sườn đó.
Từ nhỏ, Sítđạtta đã có một trí tuệ thiên bẩm phi thường với một lòng thương cảm sâu xa đối với
chúng sinh. Lần đầu ra đồng dự lễ cày tịch điền của vua, nhìn thấy trên luống cày lật đất có nhiều sâu bọ
bị giết hại, vị hoàng tử thiếu niên đó đã ngồi thiền định dưới một gốc cây, suy tư về nỗi khổ của muôn loài.
Để Sítđatta có thể quên đi nỗi u sầu nhân thế, vua cha đã kén nàng công chúa kiều diễm Yasôđara
làm vợ hoàng tử, cho hoàng tử sống trong những cung điện lộng lẫy xa hoa, luôn có tiệc tùng múa hát.
Dù thế, cuộc đời nhung lụa đó cũng không cám dỗ nổi chàng trai trẻ ưu tư, Sítđạtta vẫn không nguôi nghĩ
về những nỗi bất hạnh của con người.
Vào một đêm tối trời, Sítđatta quyết định từ biệt cha mẹ, vợ con, lặng lẽ rời kinh đô trong bộ áo tu
hành giản dị, lúc đó ông vừa tròn 29 tuổi.
Gôtama đã miệt mài đi khắp các nẻo đường tìm nơi tu luyện. Ngài đã gặp những đạo sĩ Bàlamôn,
cùng họ tu hành ép xác trong suốt 6 năm trời ròng rã, thân thể khô hép gầy mòn, nhưng vẫn không tìm
được chân lý cứu nhân độ thế. Gôtama bèn từ bỏ lối sống khổ hạnh, trở lại sinh hoạt ăn uống bình thường.
Một buổi trưa, sau khi uống một bát sữa do một thiếu nữ chăn bò dâng lên, Gôtama xuống sông tắm
rửa rồi đến ngồi thiền định dưới một gốc bồ đề, tự hứa lần này vẫn không tìm thấy đạo thì quyết không đứng dậy nữa.
Theo truyền thuyết, ngay đêm đầu tiên ma quỷ đã kéo đến, khi thì hiện thành lửa khói mây mù để
doạ nạt, khi thì hoá ra những cô gái đẹp lẳng lơ quyến rũ. Những âm mưu đó đều vô hiệu. Gôtama đã
chiến thắng mọi thử thách và cuối cùng vào tảng sáng đã tìm ra được chân lý “tứ diệu đế”, thấy được
nguyên nhân sâu xa và phương cách diệt trừ nỗi khổ trần thế, trở thành đức Phật. Lúc đó ngài vừa 35 tuổi.
Phật Thích Ca còn ngồi thiền định 48 ngày nữa, giác ngộ mọi lẽ uyên thâm về đạo, rồi đến ngoại ô
thành Vanarasi giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho 5 người bạn cũ của mình tại khu vườn Lộc Dã. Năm
người này đã trở thành những đồ đệ đầu tiên của Phật Thích Ca.
Từ đó, số người quy theo đức Phật Thích Ca ngày càng nhiều, cùng đức Phật đi khắp nơi truyền đạo,
gọi là các Tì Kheo họp thành đoàn thể Tăng Già, chẳng bao lâu đã lên tới 60 người. Trong đó, một số vua
chúa và trưởng giả đã tự bỏ tiền ra cúng hiến hoặc xây những tu việc cho đức Phật giảng đạo, nổi tiếng
nhất là hai tu viện Trúc Lâm và Kỳ Viên.
Ít lâu sau, đức Phật về thăm kinh đô quê hương và đã giác ngộ cho cha mẹ, vợ con, anh em trong gia
đình trở thành những người sùng đạo.
Liên tục trong 45 năm, mỗi năm chỉ trừ ba tháng mùa mưa, Phật Thích Ca đã không quản ngại đường
xa vất vả đi giảng đạo khắp mọi nơi. Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao sức yếu, đức Phật đã triệu tập
các Tì Kheo quanh vùng để nghe lời Phật dạy trước lúc qua đời. Sau khi ăn bữa cơm cuối cùng ở gia đình
một người thợ rèn, giác ngộ cho một tín đồ cuối cùng là một cụ già 120 tuổi, Phật đã nằm dưới bóng hai
hàng cây mà tịch diệt. Các tín đồ đã tin rằng Phật đã nhập tịch vào cõi Niết Bàn. Câu nói cuối cùng của
đức Phật là “Hỡi các Tì Kheo, hãy hiểu rằng tất cả những gì đang tồn tại đây rồi sẽ qua đi. Vậy các người
càng nên không ngừng dốc tâm gắng sức!”
Các đồ đệ đã làm lễ hoả táng thi hài đức Phật và phân phát tro tàn (xá lợi) cho 8 nơi; tại đó người ta
đã dựng nên những bảo tháp để lưu trữ tro tàn của Phật. Bốn nơi có liên quan đến cuộc đời của Phật, sau
này đã trở thành những địa điểm hành hương, nổi tiếng là khu vườn nơi Phật sinh, gốc bồ đề nơi Phật đắc
đạo, vườn Lộc Dã nơi Phật thuyết pháp lần đầu và vườn cây nơi Phật tịch diệt. lOMoAR cPSD| 40420603
* Một số nội dung chính của học thuyết Phật giáo
Tương truyền Phật có một câu nổi tiếng: “trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải các chân lý
về nỗi đau khổ và sự giải thoát nỗi đau khổ. Cũng như nước đại dương chỉ có một vị mặn, học thuyết của
ta chỉ có một vị là cứu vớt” → hạt nhân tư tưởng là đề cao lòng yêu thương của con người với đồng loại,
chúng sinh, là sự thiết tha mong muốn giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau.
- Nội dung căn bản của đạo Phật là Tứ diệu đế: 4 chân lý mầu nhiệm.
+ Khổ đế: chân lý về nỗi khổ: cho rằng cuộc đời con người đầy rẫy những khổ ải, cuộc đời là bể khổ,
khổ đau gần như một yếu tố tuyệt đối gắn với con người.
Có 8 nỗi khổ lớn: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán hận hội khổ, ngũ thủ uẩn khổ, sở cầu bất
đắc, thụ biệt ly khổ.
+ Tập đế: nguồn gốc của các nỗi khổ: cho rằng do những ham muốn dục vọng của con người không
kiềm chế được gây nên những nỗi khổ đó. Chừng nào ham muốn còn tồn tại, còn tiếp tục thì vòng luân
hồi vẫn bám lấy con người.
+ Diệt đế: cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ: phải từ bỏ ham muốn, từ bỏ dục vọng, tham vọng,
sự giận dữ, từ bỏ sự mê muội (từ bỏ tham – sân – si)
+ Đạo đế: nói về các con đường đúng đắn để đi đến sự giải thoát: 8 con đường (bát chính đạo)
8 con đường này phải được thực hiện đồng thời vì nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nó nhằm
thực hiện 3 yếu tố là trí năng – hành vi đạo đức - kỷ luật tinh thần. Làm tốt 8 điều này con người sẽ từ bỏ
được dục vọng, từ bỏ nguồn gốc gây ra nỗi khổ, có thể đạt tới sự giác ngộ, đạt tới cõi Niết Bàn (Nivarna)
- xứ sở không có dục vọng.
Như vậy, đạo Phật đã xuất phát từ thế giới thực tại, từ cuộc sống thực của con người, một cuộc sống
đầy rẫy đau khổ để chỉ ra rằng con người phải nội luyện bằng sự tu dưỡng rất nghiêm ngặt của mình để
thoát ra khỏi thế giới thực, thoát khỏi hàng rào thời gian và không gian ràng buộc để đi tới một thế giới
khác không có khổ đau, phiền muộn, không sinh, không diệt.
- Về thế giới quan: đạo Phật nêu ra thuyết “duyên khởi”: mọi sự vật hiện tượng đều do nhân
duyên,có 12 nhân duyên, quan hệ theo kiểu quan hệ nhân - quả. Vật này có - vật kia có, cái này không –
cái kia không, vật này sinh - vật kia sinh, cái này diệt – cái kia diệt.
Từ thuyết “duyên khởi”, đạo Phật nêu ra 3 quan điểm:
+ vô tạo giả: không có vị thần linh tối cao nào tạo ra vũ trụ (phủ nhận quan điểm của đạo Bàlamôn
và các đạo khác về sáng thế)
+ vô ngã: không có linh hồn bất tử (khác với đạo Bàlamôn, chống lại đạo Bàlamôn)
+ vô thường: mọi sự vật hiện tượng luôn biến đổi và có thể mất đi trong chốc lát
Như vậy, đạo Phật chủ trương vô thần nhưng lại duy tâm chủ quan vì Phật lý giải nhân duyên do tâm
– yếu tố tinh thần - mà ra.
- Về xã hội: đạo Phật không thừa nhận chế độ đẳng cấp: “không thể có đẳng cấp trong những
dòngmáu con người cùng đỏ như nhau, không thể có đẳng cấp trong những giọt nước mắt con người
cùng mặn như nhau”. Đạo Phật ra đời là sự phủ nhận chế độ đẳng cấp. * Đánh giá: - Tích cực:
+ Đạo Phật chủ trương giải thoát con người khỏi mọi nỗi khổ đau, chủ trương thực hiện bình đẳng
chúng sinh, không thừa nhận đẳng cấp, khuyên con người làm điều thiện, phản đối dùng bạo lực → chứa
đựng tư tưởng nhân đạo, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, góp phần làm “loãng” đi rất
nhiều những quan niệm khắt khe của đạo Bàlamôn.
+ Đạo Phật đã đưa ra được một lý thuyết giải thoát về tinh thần cho quần chúng bị áp bức, nhân dân
tìm thấy ở đạo Phật một đức tin mới, một niềm hy vọng, một sự an ủi cho cuộc sống của họ. lOMoAR cPSD| 40420603
+ Nghi lễ của đạo Phật đơn giản, không tốn kém, rườm rà, phù hợp với cuộc sống của quần chúng nhân dân
+ Trong lịch sử, đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của lịch sử Ấn Độ cổ đại
Về mặt chính trị: ảnh hưởng tích cực đến đường lối cai trị của một số ông vua đồng thời là tín đồ
Phật giáo (ví dụ vua Asôka)
Về mặt văn hoá: ảnh hưởng đậm nét trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, văn chương, giáo dục…
- Tiêu cực: Con đường giải thoát của Phật liệu có thể đưa quần chúng nhân dân thoát khỏi bể khổ
trong thực tế hay không?, có làm thay đổi được tình hình xã hội hay không?
Về thực chất, những tư tưởng căn bản của Phật học đã mang tính chất nhị nguyên, vừa có tư tưởng
duy vật vừa có tư tưởng duy tâm, nhập thế và yếm thế, chứa đựng cả sự kêu gọi giác ngộ, giải thoát về tư
tưởng và sự cam chịu, an phận trong cuộc sống. Vì vậy, về sau các giai cấp thống trị đã khai thác đạo Phật
ở những khía cạnh bi quan, bảo thủ và tiêu cực.
* Sự phát triển và truyền bá đạo Phật
- Ngay sau khi ra đời, Phật giáo đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng, số tín đồ tăng nhanh,
lôikéo thị dân và một bộ phận quý tộc tham gia. Vua Ấn Độ đầu tiên theo Phật giáo là Bimbisara (vương
quốc Magađa – thế kỷ VI TCN).
- Vào thế kỷ III TCN, dưới thời vua Asôka, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Đại hội Phậtgiáo
lần thứ ba (253 TCN) đã hoàn chỉnh kinh Phật.
- Sau khi đức Thích Ca qua đời, giáo lý đạo Phật dần dần được ghi chép lại thành kinh Phật quabốn
hội nghị kết tập Phật giáo.
+ Hội nghị kết tập lần I (sau khi Phật diệt độ): 500 đại biểu tăng ni đã họp lại trong 7 tháng để cùng
nhau tụng đọc lại tất cả những lời dạy bảo của Phật lúc sinh thời, chia thành Kinh (giáo lý nhà Phật) và Luật (kỷ luật tu hành)
+ Hội nghị lần II, lần III sau định thêm bộ Luận (giải thích, phát triển giáo lý). Cả ba bộ Kinh, Luật,
Luận được ghi lại bằng tiếng Phạn, gọi chung là Tam Tạng.
+ Hội nghị lần IV (cuối I đầu II sau công nguyên) được nhà vua Kaniska bảo trợ, người ta đã chỉnh
lý lại một lần nữa tất cả các văn bản của kinh Tam Tạng gồm khoảng 300.000 bài và cho khắc vào những
tầm bảng đồng trong 12 năm ròng, sau đó đem tàng trữ trong các bảo tháp.
- Vào những thế kỷ tiếp giáp công nguyên, Phật giáo được truyền bá mạnh mẽ sang bên ngoàiTrung
Quốc, Nhật Bản, đặc biệt là vào Đông Nam Á, vượt ra khỏi biên giới Ấn Độ trở thành một tôn giáo lớn
của nhân loại. Đồng thời, trong nội bộ Phật giáo có sự phân hoá thành hai tông phái: Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Giống nhau: đều thừa nhận vai trò của Phật Thích Ca, công nhận quan điểm cơ bản giáo lý của đức
Phật, lấy Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) làm kim chỉ nam cho học thuyết của mình. Khác nhau:
+ Tiểu Thừa (cỗ xe nhỏ) chủ trương tu luyện và giải thoát theo quy mô nhỏ, ở từng cá nhân Đại
Thừa (cỗ xe lớn) chủ trương một sự giải thoát đông đảo cho nhiều người trong quần chúng.
+ Đại Thừa có nhiều ảnh hưởng ở Đông Á, Đông Bắc Á. Tiểu Thừa có nhiều ảnh hưởng ở Nam Á,
Đông Nam Á. Ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của hai phái: Tiểu Thừa ở phần đất phía Nam và Đại
Thừa ở quốc gia Đại Việt.
- Trong những thế kỷ tiếp theo, phạm vi ảnh hưởng của Phật giáo ở Ấn Độ đã ngày càng bị thu
hẹptrước sự phát triển của đạo Hinđu và sau đó là của đạo Hồi.
4, Khoa học tự nhiên a. Thiên văn học lOMoAR cPSD| 40420603
- Người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng từ rất sớm, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ,5
năm thì thêm một tháng nhuận.
- Các nhà thiên văn học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất và mặt trăng đều hình cầu, biết đượcquỹ
đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn, trăng khuyết, phân biệt được 5 hành tinh Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. b. Toán học:
- Sáng tạo ra hệ 10 chữ số ngày nay được dùng rộng rãi trên thế giới (do người Ả Rậphọc củangười
Ấn Độ rồi truyền sang châu Âu nên người ta thường tưởng lầm là chữ số Ả rập).
Về phát minh này, nhà toán học người Pháp Laplace đã nói: “Người Ấn Độ dạy cho chúng ta cái
phép tính toán tài tình ấy, chỉ dùng có mười dấu hiệu mà biểu hiện được mọi số lượng. Mỗi một chữ số
nói lên một trị số nhất định ở một vị trí nhất định. Đó là một phát minh thần diệu cực kì quan trọng.
Chẳng qua ngày nay vì chúng ta dùng nó mãi quen đi, trông nó đơn giản quá rồi không thấy cái chân giá
trị nó nữa. Nhưng chính vì cái tính chất rất đơn giản đó của các chữ số mà môn toán học ngày nay có thể
xếp vào hàng đầu trong các phát minh có lợi nhất cho loài người…Thành tựu vẻ vang đó của người Ấn
Độ thời cổ đáng được mọi người khâm phục và biết ơn” - Tính được số π = 3, 1416, phát minh ra đại số học.
- Hình học: biết tính diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác và hình đa giác, biết
đượcquan hệ giữa các cạnh của tam giác vuông. c. Vật lý học:
- Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử, cho rằng vạn vật do cácnguyên
tử tạo nên. Người Ấn Độ cổ đại cũng đã biết được sức hút của quả đất d. Y dược học
Ấn Độ cổ đại có những thành tựu rất lớn và sớm hơn nhiều so với các nước khác. Từ thế kỷ VI, V
TCN, người Ấn Độ đã biết cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận…Người Ấn
Độ biết chế thuốc tê cho bệnh nhân uống để giảm đau khi mổ.
Những thầy thuốc nổi tiếng trong thời cổ đại là Xusruta, Saraca.
Xusruta sống vào thế kỷ V TCN, viết quyển sách bằng tiếng Sanscrít về phương pháp khám bệnh và
chữa bệnh, trong đó mô tả rất kỷ về các môn giải phẫu, sản khoa, cách nuôi trẻ…
Saraca sống vào thế kỷ II, viết tác phẩm Samhita, được dịch ra tiếng Ả rập, sau đó dịch ra nhiều thứ
tiếng khác trên thế giới, đến nay vẫn còn giá trị tham khảo.
Câu 6: Văn minh ĐNA cổ trung đại: Cơ sở hình thành: 1.1. Điều kiện tự nhiên
Đông Nam Á (ĐNA) là khu vực khá rộng với diện tích 4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu
Á và 3% diện tích đất trên Trái Đất). ĐNA gồm 11 quốc gia đƣợc chia thành 2 nhóm: Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
- Nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, ĐNA từlâu
vẫn được coi là hành lang, là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải.
- ĐNA chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô lạnh, mátvà
mùa mua tương đối nóng và ẩm.
- Khu vực này từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng nhưhồ
tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương... và cây lương thực đặc trưng là lúa nước.
- Nông nghiệp trồng lúa nước đã trở thành cội nguồn, thành mẫu số chung của nền văn minh khuvực.
Đó là một “nền văn minh có đủ sắc thái đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu
đan xen phức tạp... nhưng mẫu số chung là văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng”. 1 1.2. Dân cư lOMoAR cPSD| 40420603
- Điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á ĐNA thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con ngườivới
những di chỉ nổi tiếng như núi Đọ, núi Quan Yên, Xuân Lộc (Việt Nam), Anya (Mianma), Pingnoi (Thái
Lan), Tampan (Malaixia), Cabaloan (Philippin)...
- Cùng sinh tụ trên một khu vực địa lý, cư dân ĐNA đã sáng tạo ra một nền văn hóa bản địa có
cộinguồn chung từ thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp xúc với hai nền văn hóa lớn.
- Sự hình thành các quốc gia ĐNA còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ vàTrung
Hoa. Những ảnh hưởng này là khá toàn diện và sâu sắc, cả về chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc..
Do vị trí địa lý nằm án ngữ trên con đường hàng hải, nối liền gữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là hành lang, là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn
Độ, Tây Á và Địa Trung Hải
Việc đi lại bằng thuyền ở vùng Đông Nam Á đã có từ thời rất xa xưa. Họ đã biết đóng bè mảng và
thuyền đi biển từ rất sớm.Kĩ thuật đi biển xuất hiện ở vùng duyên hải biển Xulu khoảng 8000 – 9000 năm
trước và kĩ thuật hàng hải đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỉ V TCN. Các thư tịch cổ Trung Quốc từ thế
kỉ III cũng xác nhận các sư tăng Trung Hoa sang Ấn Độ thời bấy giờ đều đi trên những con thuyền gọi là
Cô Luân bản dài 50m, trọng tải đến 600 tấn.
Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn nhịp từ thế kỉ III. Họ không chỉ giao
lưu, trao đổi, buôn bán mà những thương nhân này còn xem xét ghi chép để lại tư liệu quý giá cho đời
sau, truyền bá tư tưởng
Nhiều nhà khoa học đã coi Đông Nam Á là một bộ phận của hệ thống mậu dịch thế
giới Thành tựu: a.Chữ viết
- Tiếp thu chữ Săngxcrít (Phạn) của Ấn Độ từ rất sớm, trên cơ sở đó, các nước đã dần dần sáng tạora chữ viết của mình.
- Từ khi tiếp thu cho tới khi vương quốc Chămpa chấm dứt sự tồn tại của mình, chữ Phạn luôn luôn
là chữ viết được dùng trong triều đình Chămpa. Theo một số nhà nghiên cứu, chữ Chămpa có 65 ký hiệu
trong đó có 41 chữ cái và 24 chân chữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo của Ấn Độ.
- Chữ viết Khơme bắt nguồn từ chữ ở miền Nam Ấn Độ và theo truyền thuyết xuất hiện vào khoảng
thế kỷ II, nhưng tấm bia đầu tiên của người Khơme bằng chữ Khơme cổ mà hiện nay ta biết được là bia
Ăngco Bôrây (Takeo) có niên đại năm 611.
- Người Thái và người Lào có hệ thống chữ viết riêng, có lẽ bắt nguồn từ thế kỉ XIII, hình thànhdựa
trên ngôn ngữ dân tộc và tiếp thu chữ nét cong của người Khơme. Đến cuối thể kỉ XIII, chữ viết đó hoàn
chỉnh và được sử dụng.
- Chữ cổ Mianma xuất hiện khoảng thế kỉ XI, bắt nguồn từ chứ Môn, cũng có nguồn gốc từ chữ cổẤn Độ.
- Ở Inđônêxia nhiều hệ thống chữ viết khác nhau đã được sử dụng trong suốt quá trình lịch sử:
chữBramin, chữ Arập, chữ Latinh. b. Văn học - Văn học dân gian:
+ Thường tồn tại dưới hình thức truyền miệng, được sủ dụng trong những ngày lễ hội, vui chơi hò
hẹn, và cả trong lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, kẻ thù.
+ Rất phong phú về thể loại: truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện trạng, thơ ca.
+ Các tác phẩm tiêu biểu: Đẻ đất đẻ nước của người Thái, Prea Thoong của người Khơme, ca dao
tục ngữ của Việt Nam, .... - Văn học chữ viết: lOMoAR cPSD| 40420603
+ Xuất hiện muộn hơn và được hình thành trên cơ sở văn học dân gian và ảnh hưởng của nền văn
học nước ngoài, chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc. Nhưng bộ phận này chủ yếu ảnh hưởng ở quan lại, quý
tộc. Vì thế nên nó được coi là nền văn học chính thống, văn học bác học, văn học cung đình.
+ Sự hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á đã làm xuất hiện xu hướng trở về của
văn học chữ viết. Nội dung về thực tiễn trong cuộc sống xuất hiện nhiều hơn. Ngôn ngữ và chữ viết dân
tộc được sủ dụng một cách phổ biến để viết các tác phẩm.
+ Các tác phẩm tiêu biểu: Pararaton (Sách của các ông vua) ở Môgiôpahít; Truyện Mã Lai ở Malắcca;..
+ Ở VN, văn học chữ viét đã tỏa sáng từ thời Lý, và phát triển rực rỡ ở thời Lê sơ. Các tác phẩm tiêu
biểu: Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), và hàng loạt các bài thơi của các tác giả như Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Đào Duy Từ, Hồ Xuân Hương, ... c.Kiến trúc
Kiến trúc Đông Nam Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của kiến trúc Ấn Độ (kiến trúc Hinđu và Phật giáo) và kiến trúc Hồi giáo. -
Kiến trức Hinđu: có thể chia làm hai loại:
+ Các đền thờ Hinđu ở Nam Ấn Độ được xây dựng từ đá nguyên khối, là những tháp có bình đồ (cấu
trúc) là hình vuông hay chữ nhật.
+ Các đền thờ Hinđu ở Bắc Ấn Độ đã chịu phần nào ảnh hưởng của kiến trúc Phật giáo nên các đền
thờ ở đây ngoài tháp chính còn có một số tháp phụ và các tháp đều có hình múi khế. - Kiến trúc Phật giáo:
+ Chùa là nơi thờ tự, thờ hình tượng của Phật. Ở Ấn Độ những chùa có niên đại sớm đều là chùa
hang (nổi tiếng nhất là những chùa hang ở Ajanta và Nasik).
+ Kiểu kiến trúc tháp - Xtuppa - là nơi thờ thánh tích của Phật. Đặc trưng của kiểu kiến trúc này là
trên đỉnh tháp có hình vòm kiểu chiếc bát úp, trên xây phủ một lớp gạch và trên cùng là một tháp nhọn,
tượng trưng cho chiếc bát và gậy khất thực của Phật. -
Kiến trúc Hồi giáo: Kiểu kiến trúc Hồi giáo vào Đông Nam Á muộn hơn và phổ biến ở
những vùng mà Hồi giáo chiếm ưu thế. -
Các công trình kiến trúc tiêu biểu: ngôi đền Bôrôbuđua (trung tâm đảo Giava), khu đền
Ăngco Vát, khu đế đô Ăngco Thom (Campuchia), khu di tích Pagan, chùa Suê Đagôn (Mianma), các
ngôi chùa, đình đền ở Việt Nam, .... d.Tôn giáo
*Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”: Trong số các hình thức tín ngưỡng nguyên thủy thì bái vật giáo là
hình thức xuất hiện sớm hơn cả: Quan niệm của người Lào, trong thế giới vô hình có vô vàn những phi
(ma): phi ruộng, phi rừng, phi lửa, phi núi, ...; Người Xacuđai ở Inđônêxia tin rằng mọi vật đều có linh
hồn; Người Thái gọi những lực lượng siêu nhiên, thần bí bằng cái tên chung là phỉ: phỉ lửa, phỉ núi, phỉ bệnh...
Do cuộc sống gắn liền với yêu cầu phát triển nông nghiệp trồng lúa nên bên cạnh việc sùng bái tự
nhiên, tín ngưỡng phồn thực với nghi thức cầu mong được mùa, cầu cho các giống loài sinh sôi nảy nở...
cũng rất phát triển ở Đông Nam Á: Trên nóc thạp đồng Đào Thịnh có 4 cặp nam nữ giao phối vừa rất tự
nhiên, vừa có ý nghĩa của nghi lễ phồn thực; Việc thờ các hình sinh thực khí của người Chăm, người Thái,
người Mường và nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á rất gần với tục thờ linga của Siva giáo....
Có lẽ bắt nguồn từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, các dân tộc Đông Nam Á đều cho rằng mỗi người
có không phải một mà là cả một nhóm hồn, ma: Người Thái đen (ở Việt Nam) tin rằng mỗi người có 120
hồn. người Khơme tin rằng mỗi người có 9 hồn chính; người Mường 90; người Thái ở Bắc Lào 32 hoặc
34. Người Việt cho rằng mỗi người có 3 hồn và đàn ông có 7 vía, đàn bà 9 vía, ... lOMoAR cPSD| 40420603
*Người Chăm: Người Chăm thờ thần Siva chủ yếu dưới dạng Siva - linga - biểu tượng cho sức mạnh
sinh thành của vũ trụ, cho uy lực của vương quyền.
*Người Khơme: Ban đầu người Khơme tiếp nhận cả hai tôn giáo của Ấn Độ. Nhưng rồi họ kết hợp
nhiều yếu tố khác nhau lại thành hình tượng tôn giáo mới là Hari Hara - một hình tượng kết hợp cả Siva và Visnu.
*Phật giáo: Phật giáo cực kỳ phát triển, hình thành nên nhiều trung tâm Phật giáo như: Sơrivijaya,
Pagan, Lanxang, ... Ở một số quốc gia Đông Nam Á, Phật giáo đã trở thành quốc giáo, tiêu biểu như:
Miến Điện, Đại Việt (thời Lý, Trần), Lanxang, ... Phật giáo có vai trò to lớn trong đời sống chính trị, xã
hội và văn hóa của cư dân Đông Nam Á. Ngôi chùa không chỉ là trung tâm văn hóa mà còn là hình tượng
cho “chân, thiện, mỹ” đối với mọi người dân, trở thành nơi lưu giữ và phổ biến văn hóa, tri thức cho dân chúng.
*Hồi giáo: Vào những thế kỷ VIII - XII, khi mà Hồi giáo bắt đầu bành trướng mạnh mẽ thì ở Đông
Nam Á dường như không còn mảnh đất trống nào để nó bắt rễ và phát triển. Sau nhiều thời gian gia tang
ảnh hưởng bằng nhiều con đường thì Ngày nay ở Đông Nam Á, đạo Hồi có khoảng trên 165 triệu tín đồ
và con số đó đang không ngừng tăng lên.
*Đạo Kitô: Đây là tôn giáo gắn liền với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây. Nhiều người
cho rằng đây là cuộc hội nhập văn hóa lần thứ hai của Đông Nam Á. Nó diễn ra tuy ngắn nhưng quyết liệt.
Câu 7: Văn minh Ả Rập thời trung đại
Thành tựu về văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên, giáo dục, tôn giáo. 1. Văn học:
Văn học Arập có những thành tựu xuất sắc, chủ yếu biểu hiện ở 2 mặt: thơ và truyện.
- Thơ ca: truyền miệng và chữ viết. Trước khi nhà nước ra đời ở Arập đã có nhiều thơ ca truyềnmiệng.
Lúc bấy giờ trong dân gian đã có nhiều thi sĩ. Họ thường ngâm thơ cho các bộ lạc du mục nghe. Từ nửa
sau thế kỉ VII về sau, thơ ca chép bằng chữ viết ra đời. Kế thừa truyền thống thơ ca đời trước các bài thơ
trong thời kì này tập trung thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời mafphaafn lớn là ca ngợi chiến công, tình yêu, rượu ngon, ..
Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thơ ca Ả Rập là từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XI, tập thơ nổi tiếng
“Anh dũng ca” do hai thầy trò Abu Tammam sưu tầm và hiệu đính. Trong thời kỳ này, ở Ả Rập xuất hiện
nhiều nhà thơ tiêu biểu như Abu Nuvát, Abu la Ala Maari.
- Văn xuôi: nổi tiếng nhất là tác phẩm “Nghìn lẻ một đêm”, hình thành từ thế kỷ X đến thế kỷ
XII.Những truyện trong tác phẩm này bắt nguồn từ tập “Một nghìn câu chuyện” của Ba Tư ra đời từ thế
kỷ VI, dần dần được bổ sung bằng các truyện thần thoại của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp…rồi cải biên và gắn
lại với nhau thành một truyện dài xảy ra trong cung vua Ả rập. Tập truyện ly kỳ này phản ánh cuộc sống,
phong tục, tập quán và ước nguyện của nhân dân các dân tộc trong đế quốc Ả rập, đồng thời thể hiện sức
tưởng tượng phong phú của họ.
Ngoài “nghìn lẻ một đêm”, ở Arập còn cso một tập truyện được lưu hành rất rộng, đó là tập “ngụ
ngôn”. Tập truyện này vốn là của Ấn Độ, viết bằng tiếng Phạn, được truyền sang Ba Tư từ thế kỉ VI, đến
thế kỉ VIII thì được dịch sang tiếng Arập. Sau đó nguyên bản tiếng Phạn đã mất, chỉ còn bản tiếng Arập
và nhờ vậy đã được dịch ra 40 thứ tiếng. 2. Nghệ thuật:
- Khi mới hình thành nhà nước, nghệ thuật của Ả Rậphết sức đơn điệu, nghèo nàn. Giáo chủ
Môhamét cấm điêu khắc, hội hoạ do việc cấm thờ ảnh tượng; cấm dùng trang sức bằng vàng, bạc, lụa vì
cho rằng nếu làm như vậy sẽ dẫn người ta đến những ham muốn vật chất, sa ngã. Về sau, những quy định
đó dần được nới lỏng. Ả Rập có điều kiện tiếp thu nền nghệ thuật của các nước khác: Lưỡng Hà, Ai Cập, lOMoAR cPSD| 40420603
Ấn Độ, Bidăngtium. Do vậy, trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc có những tiến bộ đáng kể. Thành tích
về kiến trúc chủ yếu biểu hiện ở cung điện và thánh thất Hồi giáo. Tương truyền rằng các cung điện của
các Calipha Arập rất tráng lệ nhưng ngày nay không còn nữa.
+ Kiến trúc: xây dựng cung điện và thánh thất của đạo Islam( đạo Hồi). Các thánh đường của đạo
Islam thường được xây dựng công phu, mái vòm hình bát úp, cột thon nhỏ kiểu Ba Tư.
+ Điêu khắc: các nhà điêu khắc Ả Rập không được phép đúc tượng, họ chỉ chạm trổ vào tường để
trang trí thánh đường. Trong trang trí nội thất của các thánh đường đều tuân theo một nguyên tắc: không
thờ ảnh tượng mà chỉ trang trí hoa lá: hoa sen, hoa cẩm chướng, trang trí bằng các loại hình học: đường
thẳng, góc nhọn, hình vuông, hình đa giác, bầu dục, trôn ốc…xen kẽ là những đường gợn sóng, ngôi sao
và các bông hoa, đặc biệt là các dòng kinh Côran viết bằng tiếng Ả rập.
VD: Thời Ômayat, người Arập đã xây một tòa cung điện có tới 360 phòng để mỗi phòng dành cho
một ngày. Ở đây còn có một thư viện 2 tầng. Có người nói: “Không có một quyển sách gì về một đề tài gì
mà ở đó không có bản sao”. Thánh thất được xây cất rất công phu và trang hoàng rất rực rỡ. Trước thánh
thất có một cái sân vuông, có một cái hồ nước để tín đồ tẩy uế trước khi cầu nguyện. Ở góc hướng về Méc
ca là thánh thất. Thánh thất xây theo hình vuông có mái tròn. Phía trong thánh thất có khám thờ, giảng
đàn, giá đặt kinh Coran. Trong thời kì đầu, thánh thất chỉ được trang trí bằng hoa lá và các hình kỉ hà. Về
sau, khi lệnh cấm vẽ hình người và động vật được nới lỏng thì thánh thất cũng được trang trí bằng các
hình chim, thú và các động vật tưởng tượng nửa chim nửa thú.
Tuy luật của Hồi giáo thì như vậy nhưng một số Calipha Arập bấ chất những điều cấm đoán đó.
Trong cung điện mùa hè của Valit I đầu thế kỉ VIII được trang hoàng bằng những bích họa, trong đó vẽ
người đi săn, vũ nữ, phụ nữ đang tắm và chân dung của ông đang ngồi trên ngai vàng. Trong cung điện
của các vua triều Abát thì treo tranh vẽ cảnh săn bắn, tu sĩ, vũ nữ khỏa thân, ..
Do Hồi giáo cấm điêu khắc và hội họa nên địa vị của họa sĩ rất thấp, chỉ được coi ngang với thợ thủ
công mà thôi. Trái lại môn thư pháp rất được coi trọng, do đó những người viết chữ được đề cao và được
tặng những số tiền lớn.
- Âm nhạc: Lúc đầu cũng bị cấm vì truyền thuyết nói Moohamet cho rằng lời ca, điệu vũ của phụ nữ
cũng như tiếng các nhạc cụ là tiếng dụ dỗ của quỷ sứ để đày con người xuống địa ngục. Về sau, người ta
cho rằng rượu như là thể xác, âm nhạc là linh hồn, nhờ hai thứ đó mà cuộc sống con người mới được vui
vẻ, do vậy, âm nhạc dần dần được phổ biến. Tuy nhiên, nhạc Ả Rập khá đơn điệu, buồn tẻ. Người Ả Rập
đã sử dụng một số nhạc cụ trong sinh hoạt tập thể: đàn lút, đàn lia, sáo, trống… tương truyền rằng, cũng
chính người Arập là người đầu tiên sử dụng cây đũa nhạc trưởng. Sau khi âm nhạc trở thành một món ăn
tinh thần không thể thiếu được thì Hồi giáo cũng phải dùng nó trong các buổi lễ. Tuy vậy, cũng như họa
sĩ, địa vị của nhạc sĩ rất thấp kém. Nhạc và vũ thường dành cho nô tì, vì vậy có một số người cho rằng sự
làm chứng của nhạc sĩ là không có giá trị. Về sau, do chịu ảnh hưởng của Hi Lạp và Ba Tư nên mới bớt
thái độ khinh thường nhạc sĩ. 3. Khoa học tự nhiên
Là một nước thành lập rất muộn, lúc đầu Arập tương đối lạc hậu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Nhưng nhờ học tập được các thành tựu của các nền văn minh xung quanh như Ấn Độ, Trung Quốc, Hi
Lạp nên khoa học Ả Rập rất phát triển nhanh chóng.
Arập đã cho dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Hi Lạp, Xiri, Phạn, .. Năm 830, triều Abát xây dựng
một trung tâm khoa học bao gồm một Viện khoa học, một đài thiên văn và một thư viện. Cơ quan này đã
tuyển dụng một đội ngũ phiên dịch viên đông bảo. Người đứng đầu đội ngũ phiên dịch này là Hunai Ibơn
Isac. Đến giữa thế kỉ IX, hầu hết các tác phẩm về toán học, thiên văn, y học của Hi Lạp đã được dịch sang tiếng Arập. a. Toán học lOMoAR cPSD| 40420603
Người Ảrập tiếp tục phát triển đại số, lượng giác, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số của người
Ấn Độ, do đó đã có lúc người ta nhầm lẫn chính người Ả Rập đã sáng tạo ra hệ thống chữ số.
Nhà đại số học nổi tiếng nhất là Môhamét Ibơn Muxa (780- 855), tác phẩm “Đại số học” của ông là
quyển sách đầu tiên về môn khoa học này.
Nhà toán học Abu Apđala al- Battani (850 – 929) có nhiều đóng góp về môn Lượng giác học với các
khái niệm sin, cosin, tang, cotang mà chúng ta sử dụng ngày nay.
Người Arập còn có công lớn trong việc cải tiến và truyền bá hệ thống chữ số. Từ thế kỉ VIII, Arập
đã dịch sách Xitđanta, tác phẩm của thiên văn học của Ấn Độ viết về thế kỉ V TCN. Có lẽ do công việc
này mà người Arập học được 10 chữ số của Ấn Độ. Năm 976, Moohamet Ibơn Amát nói khi làm toán nếu
không có số nào xuất hiện ở hàng chục thì phải dùng một vòng tròn nhỏ thay vào để giữ hàng. Người Arập
gọi vòng tròn ấy là Sifr nghĩa là trống không, tiếng Latinh đổi thành Zephyrum, người Ý gọi tắt là Zero. b.
Thiên văn học: người Ả Rập cũng rất chú ý quan sát các vì sao và nghiên cứu các vết trên
MặtTrời. Họ cũng cho rằng Trái Đất hình tròn. Al – Biruni, nhà thiên văn học nổi tiếng cuối thế kỷ X
đầu thế kỷ XI còn cho rằng vật gì cũng bị hút về phía trung tâm Trái Đất.
Cuối thế kỉ XI, người Arập đã làm được một thiên cầu bằng đồng thau đường kính 209mm, trên đó
có 47 chòm sao gồm 1015 ngôi sao. c.
Địa lý học: Người Arập đã dùng phương pháp cùng một lúc lấy vị trí của mặt trời ở 2 điểm trên
trái đất và tính được 10 của trái đất dài hơn 90km và chu vi trái đất là 35.000 km như vật là gần đúng.
Do thương nghiệp sớm phát triển, người Arập có điều kiện đi đây đi đó nên từ thế kỉ IX, người Ả
Rập sớm có những quyển sách tập hợp các kiến thức địa lý: “Địa chí đế quốc Hồi giáo” của Môhamét Al-
Mucađaxi và “Sách của Rôgiê” của Iđrix. d.
Vật lý học: tiêu biểu nhất là Al Haitơham với tác phẩm “Sách quang học” được đánh giá là
tácphẩm có tính chất khoa học nhất thời trung đại. Ông giải thích được rằng: “hình thể của vật và con
mắt người ta nhờ một vật trong suốt” tức là ông muốn nói đến thuỷ tinh thể. Ông cũng đã biết sự khúc
xạ ánh sáng trong không khí và nước, chính vì sự khúc xạ ấy mà mặt trời và mặt trăng khi ở gần chân
trời thì nhìn thấy lớn hơn khi đã lên cao. Nhờ sự gợi ý của ông mà các nhà vật lý học phương Tây đã
chế ra được kính hiển vi và kính viễn vọng. e.
Hoá học: người Ả Rập đã chế tạo ra nồi cất, phân biệt được bazơ và axít, bào chế được nhiều loại thuốc
g. Sinh vật học: thuyết tiến hoá của Ôtman Aman- Giahip từ thế kỷ XIX, cho rằng từ khoáng vật
tiến hoá thành thực vật rồi đến động vật, đến người.
Trong sinh học, lĩnh vực được người Arập quan tâm nhiều nhất là thực vật học. Người Ả Rập đã biết
ghép cây tạo ra các giống cây mới. Nhà thực vật học tiêu biểu nhất đầu thế kỉ XIII là Baita. Ông đã tổng
hợp các kiến thức về thực vật học của người Arập thành một tác phẩm lớn, một tác phẩm được coi là cơ
sở của môn thực vật học và được sử dụng đến thế kỉ XVI.
h. Y học: tuy bị cấm giải phẫu và mổ tử thi nhưng Ả Rập vẫn là nước có nền y học rất phát triển,
đặc biệt khoa mắt. Có lẽ vì xứ Arập nhiều cát gió nhiều người bị đau mắt nên các thầy thuốc quan tâm
nhiều đến bệnh này. Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng được dịch ra tiếng Latinh: “Mười khái luận về mắt”
của Isác, “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Ixa, “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” của Radi,
“Tiêu chuẩn y học” của Xina…Nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng Latinh và được dùng trong các trường
y khoa ở Tây Âu trong nhiều thế kỷ.
Arập có một đội ngũ thầy thuốc rất đông đảo, trong đó tiêu biểu nhất là Radi, Xina, Zuhr. Danh tiếng
những người này vang tận Tây Âu, do vậy ngày nay ở Đại học y khoa Paris vẫn treo chân dung của Radi và Xina. lOMoAR cPSD| 40420603
Nhà nước Ả Rập đã xây rất nhiều bệnh viện để chữa bệnh miễn phí cho mọi tầng lớp nhân dân, lớn
nhất là bệnh viện Manxua xây ở Cairô vào cuối thế kỉ XIII. Ngoài ra còn tổ chức các đoàn thầy thuốc đến
các thị trấn để chữa bệnh cho dân. Một số thầy thuốc còn thường xuyên được cử đến nhà lao để khám
bệnh cho tù nhân. Thời trung đại, Ả Rập là nước có những thành tựu rất lớn về y học và là nước đứng
hàng đầu thế giới về sự nghiệp y tế. 4. Giáo dục
Arập sở dĩ có nền văn hóa cao như vậy, một phần quan trong do sự nghiệp giáo dục.
- Theo truyền thuyết, Môhamét rất khuyến khích việc mở rộng kiến thức. Ông nói: “Kẻ nào từ biệtgia
đình để đi tìm hiểu thêm và mở mang trí thức là kẻ đó đang đi trên con đường của Chúa…Mực của nhà
bác học còn linh thiêng hơn máu của người tử vì đạo”
- Tuy không có tổ chức chặt chẽ nhưng chế độ giáo dục của Arập cũng bao gồm 3 cấp: tiểu học,trung học, đại học.
Trẻ em từ 6 tuổi, kể cả một số con gái bắt đầu vào học ở trường sơ học. Môn học chính là tập đọc,
còn tập viết và toán thì lên các lớp trên mới học. Nội dung học tập là kinh Coran vì trong đó không những
chỉ có thần học mà còn có cả lịch sử, đạo đức và pháp luật. Nơi học thường là các thánh thất hoặc ngoài trời.
Trường trung học cũng đặt trong các thánh thất. Ngoài thần học, học sinh còn học các môn văn học,
ngôn ngữ, ngữ pháp, toán, thiên văn, .. trong đó môn ngữ pháp được đặc biệt coi trọng vì người ta cho
rằng tiếng Arập là ngôn ngữ hoàn hảo nhất và ai nói đúng thứ tiếng này thì được coi là thuộc hạng thượng lưu.
Ở bậc đại học, trong toàn đế quốc có 3 trung tâmlà Bátđa, Cairô, và Coóđôba. Sớm nhất là đại học
Cairô thành lập năm 988. Sinh viên khắp đế quốc Arập đều về đây học tập. Họ được vua chúa, quan lại
và các nhà hảo tâm cấp học bổng. Nhà trường có một đội ngũ giáo sư khoảng 300 người thuộc nhiều lĩnh
vực chuyên môn. Đây là trường đại học cổ nhất Arập.
- Ngoài ra có trung tâm khoa học, thư viện để nghiên cứu và giảng dạy thần học, thiên văn học, yhọc.
Đến đầu thế kỷ VIII, người Ả Rập học được cách làm giấy của Trung Quốc. Từ đó sách xuất hiện
ngày càng nhiều. Cuối thế kỷ IX, ở Bátđa có đến trên 100 hiệu sách. Thành phố Bát đa khi bị quân Mông
Cổ đánh chiếm có đến 36 thư viện công cộng. Trong khi ở Tây Âu, văn hoá đang suy thoái thì các trung
tâm đại học của Ả rập, nhất là Coócđôba đã thu hút nhiều lưu học sinh các nước Tây Âu đến học tập.
=> Tóm lại, văn minh Ả Rập rất rực rỡ và toàn diện. Người Ả Rập có nhiều đóng góp to lớn vào kho
tàng văn minh nhân loại, đồng thời họ có vai trò rất lớn trong việc bảo tồn nhiều di sản văn hoá của Hy
Lạp cổ đại; trong sự giao lưu văn minh phương Đông và văn minh phương Tây (người Ả Rập là trung
gian truyền bá nhiều phát minh quan trọng của phương Đông như chữ số của Ấn Độ, nghề in, thuốc súng,
la bàn của Trung Quốc sang Tây Âu). 5. Tôn giáo
Đạo Hồi tiếng Arập gọi là Ixlam nghĩa là “phục tùng”, về sau dân tộc Hồi ở Trung Quốc theo tôn
giáo này nên ta quen gọi là đạo Hồi.
Đạo Hồi là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Vị thần duy nhất mà đạo Hồi tôn thờ Ala. Tín đồ Hồi
giáo tin rằng ngoài chúa Ala không có vị thần nào khác. Tất cả những gì ở trên trời dưới đất đều thuộc về
Ala. Ala đã dựng nên vòm trời mà không dùng cột, chế ngự mặt trời, mặt trăng, tạo ra mặt đất rồi đặt trên
đó, đây là núi, kia là sông. Ala cũng sinh ra loài người và biết linh hồn mỗi người ra sao. Ala có một số
thiên thần giúp việc làm thư kí ghi chép những hành vi thiện ác của mỗi người và làm sứ giả.
Còn Môhamét là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là sứ giả của Ala và
là tiên tri của tín đồ. Môhamét, cũng công nhận rằng trước ông đã có nhiều tiên tri như Ađam, Nôê, Môidơ,
Kitô, nhưng ông là vị tiên tri cuối cùng và vĩ đại nhất. lOMoAR cPSD| 40420603
Đạo Hồi tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác, nhất là của đạo Do Thái như truyền thuyết
về sáng tạo thế giới, thiên đường, địa ngục, cuộc phán xét cuối cùng, thiên thần, quỷ Satăng. Đạo Hồi còn
bắt chước một số nghi thức và tục lệ của đạo Do Thái như trước khi cầu nguyện phải rửa mặt và tay chân;
khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mecca và phải phủ phục trán chạm đất; cấm ăn thịt heo, thịt chó,
thịt các con vật chết vì bệnh, thịt đã cúng thần và cấm uống rượu.
Đạo Hồi chỉ có một điều quan trọng không giống các tôn giáo khác là tuyệt đối không thờ ảnh tượng
vì họ quan niệm rằng Ala tỏa khắp mọi nơi, không có một hình tượng nào có thể thể hiện được Ala. Bởi
vậy trong thánh thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng chữ Arappj chứ không có tượng và tranh ảnh. Chỉ riêng
trong đền Caaba ở Mecca có thờ một phiến đá đên từ xưa để lại mà thôi.
Về quan hệ gia đình, đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê nhưng chỉ cho lấy nhiều nhất là 4 vợ. Đàn ông
Hồi giáo cũng có thể lấy người theo đạo Do Thái hoặc đạo Kitô làm vợ nhưng không được cưới người
theo đa thần giáo. Tuy cho lấy nhiều vợ nhưng đạo Hồi lại cấm việc lấy nàng hầu. Riêng Môhamét thì
ngoại lệ: ông có 10 vợ và 2 nàng hầu.
Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định:
1, Thừa nhận chỉ có chúa Ala, không có chúa nào khác, còn Môhamét là sứ giả của Ala và là vị tiên tri cuối cùng.
2, Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu hàng tuần phải đến
thánh thất làm lễ một lần.
3, Mỗi năm đến tháng Ramađan phải trai giới 1 tháng, tháng Ramađan là tháng 9 lịch Hồi, nhưng vì
Môhamét thay đổi lịch cũ, bỏ tháng nhuận nên tháng Ramađan cứ lùi dần, không tương ứng với một thời
gian cố định nào của dương lịch.
4, Phải nộp thuế cho đạo. Số thuế ấy dùng để xây cất thánh thất, bù đắp các khoản chi tiêu của chính
quyền và bố thí cho người nghèo.
5, Trong suốt đời người, nếu có khả năng phải đi hành hương đến Caaba một lần.
Kinh thánh của đạo Hồi là kinh Coran, tiếng Arập viết là “Qur’an” nghĩa là bài đọc, bài giảng, trong
đó ghi lại những lời nói của Mô ha mét mà theo tín đồ Hồi giáo, đó là những lời phán bảo của chúa Ala.
Kinh Coran được chia thành 114 chương sắp xếp theo nguyên tắc dài để trên, ngắn để dưới. Như
vậy, kinh Coran đã sắp xếp ngược vì những lời nói của Mô ha mét trong thời kì đầu thường ngắn hơn
những lời nói trong thời kì sau.
Kinh Coran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do đó, đối với người Arập, kinh Coran
ngoài những nguyên tắc tôn giáo còn là một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học, mọi nguyện tắc pháp
luật và đạo đức. Lúc đầu ở Arập chưa có pháp luật nào khác ngoài kinh Coran, về sau tuy đã đặt ra pháp
luật nhưng vẫn lấy giáo lí của kinh Coran làm nguyên tắc.
Tóm lại, “hồi giáo là gì?” theo truyền thuyết, thiên thần Gabrien đã hỏi Moohamet như vậy.
Moohamet đáp: “ Hồi giáo là tin vào Ala và vị tiên tri của ngài, đọc những kinh cầu nguyện đã chỉ định,
bố thí cho người nghèo, nhịn ăn trong tháng Ramađan và hành hương đến thánh địa Mecca”. Cầu nguyện,
bố thí, nhịn ăn và hành hương là 4 bổn phận của Hồi giáo. Thêm lòng tin vào Ala và vị tiên tri nữa thành
5 trụ cột của Hồi giáo. Quá trình truyền bá
- Cùng với quá trình chinh phục của người Ả Rập, Islam giáo được truyền bá khắp Tây Á, Trung Á,
Bắc Phi và Tây Ban Nha. Ngày nay, Islam giáo được truyền bá rộng rãi trên thế giới, trở thành quốc giáo
của nhiều nước như Inđônêxia, Malaixia, Pakixtan, Iran, Irắc… •
Trong 3 tôn giáo lớn trên thế giới (đạo Cơ Đốc, đạo Phật, đạo Islam) thì Islam giáo là tôn
giáo trẻ nhất và có sức sống mạnh mẽ. Cả thế giới hiện có trên 90 nước có tín đồ Islam giáo, trong hơn
150 quốc gia và địa khu trên toàn thế giới có khoảng 42 quốc gia lấy Islam giáo làm quốc giáo hoặc
đặt dưới quyền cai quản của chính quyền Islam giáo. Phần đông các quốc gia Bắc Phi, Tây Nam, Nam lOMoAR cPSD| 40420603
và Đông Nam châu Á, hầu hết các dân tộc Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Bắc Ấn theo đạo Islam. Ở Trung
Quốc có hơn 50 dân tộc thì có 10 dân tộc theo đạo Islam (gọi là đạo “Thiên phương”, đạo “Thanh
Chân”, đạo “Hồi Hồi”). Những thập kỷ gần đây, đạo Islam còn truyền sang nhiều nước Tây Âu và Bắc Mỹ. •
Quá trình truyền bá đạo Islam thường thông qua hai con đường:
+ Cưỡng bách: gắn với những cuộc chiến tranh chinh phục của các tín đồ Islam giáo (Trên lãnh thổ
đế quốc Ả Rập, Ấn Độ)
+ Qua hoạt động thương mại, hôn nhân…, mang màu sắc hòa bình (khu vực Đông Nam Á) Câu
8: Văn minh Hi Lạp cổ đại: Thành tựu 1. Văn học
Nền văn minh Hi Lạp cổ đại bao gồm 3 bộ phận chủ yếu và có liên quan chặt chẽ với nhau là thần thoại, thơ, kịch.
a.Thần thoại Hi Lạp :
+ Thuật ngữ thần thoại – Mitologia (tiếng Nga), Mythology (tiếng Anh), Mythologie (tiếng Pháp)
xuất phát từ chữ Hi Lạp Mythologos (Mythos: truyền thuyết; logos: lời nói, truyện kể, học thuyết).
+ Thần thoại Hi Lạp là thể loại văn học ra đời sớm, hình thành chủ yếu trong thời kỳ tan rã của xã
hội thị tộc, bộ lạc (thế kỷ XI - IX) và phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh vào thế kỷ VIII TCN – VII TCN.
Thần thoại ra đời trong điều kiện trình độ phát triển của xã hội còn thấp và được thể hiện dưới hình
thức truyền thuyết, những câu chuyện hoang đường về giới tự nhiên, xã hội và con người, song thể phản
ánh quá trình nhận thức của con người về thế giới xung quanh, gắn với thực tiễn.
Thần thoại Hi Lạp, cùng với anh hùng ca, thể hiện thời kỳ lịch sử quan trọng của Hi Lạp: chuyển
tiếp từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và nhà nước. Giữa thần thoại và anh hùng ca vừa đan
xen, vừa nối tiếp, trong đó thần thoại là khúc dạo đầu, thể hiện tiến trình lịch sử đầu tiên ấy.
+ Thế giới các thần: đông đảo, với nhiều thế hệ, nhiều mối quan hệ phức tạp. Dưới đây chỉ là các vị
thần linh tiêu biểu cho hệ thống thần linh đông đảo ấy
Ban đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang Kaốt (Chaos), từ đó sinh ra thần đất mẹ Gaia. Thần Gaia
sinh thần bầu trời Uranos. Rồi Gaia và Uranos kết hôn, sinh ra 12 thần khổng lồ Tităng (Titan), gồm 6
nam thần và 6 nữ thần. Đây là thế hệ « các thần già ». Trong các thần đó, thần Cronos đã lật đổ cha mình
– Uranos để chiếm ngôi vi chúa tể. Các thần Tităng kết hôn với nhau theo cặp, sinh ra nhiều con.
Các thần con của Tităng gọi là thế hệ « các thần trẻ ». Một trong số đó, thần Dớt (Zeus), con trai của
Crônốt (Cronos), đã lãnh đạo các thần trẻ đánh bại « các thần già » và cai trị thế giới, ngự trên đỉnh
Ôlympơ (Olympe, một ngọn núi ở Bắc Hi Lạp, phân biệt với thành phố Olimpia, nơi tổ chức thế vận hội
Olimpic, nằm trên bán đảo Pêlôpône). Trong thế giới thần linh đông đúc ấy có 12 thần tiêu biểu do Dớt
đứng đầu (Một số vị thần già tham gia phe Dớt cũng tiếp tục cai quản thế giới, như thần Mặt trời Hêliốt)
Thần Dớt (Zeus): thần tối cao, « cha của các thần » và của con người và thần sấm sét
Thần Đêmêtê: chị ruột Dớt, nữ thần nông nghiệp, tạo ra sự phì nhiêu
Thần Hađét: anh ruột Dớt, thần cai quản thế giới âm phủ
Thần Hestia: chị ruột Dớt, thần cai quản bếp lửa gia đình
Thần Pôsêiđông: anh ruột Dớt, thần biển và các nguồn nước
Thần Hêra: em gái và vợ Dớt, quản lý việc hôn nhân và bảo vệ các bà mẹ khi sinh nở
Thần Apôlô: con trai Dớt, thần ánh sáng và nghệ thuật
Thần Áctêmít: con gái thần Dớt, nữ thần săn bắn lOMoAR cPSD| 40420603
Thần Aphrôđit: Nữ thần tình yêu và sắc đẹp
Thần Ares: con trai Dớt, thần chiến tranh
Thần Hêphaixtốt: con trai Dớt, thần lửa – thợ rèn
Thần Atêna: con gái Dớt, thần trí tuệ, bảo trợ Aten và sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, nghề thủ công.
Thần Promete: thần đã sáng tạo ra loài người và mang ngọn lửa xuống trần gian. Vì thế, Prômêtê bị
xiềng vào núi, hàng ngày có con đại bàng đến xé lồng ngực để ăn gan, khi ngày mới bắt đầu, lá gan lại
như cũ và tiếp tục chịu cực hình đó. Về sau, thần được Heraclex, con trai thần Dớt với một người trần đến
cứu thoát. Câu chuyện này là đề tài của vở kịch “Promete bị xiềng” của nhà bi kịch Etsin. Qua cơn đại
hồng thủy, con trai của thần đã sống sót, sinh ra chàng Hêlen, thủy tổ của người Hi Lạp (Hellas)
Thần thoại Hi Lạp có nét đặc trưng: hình ảnh, cuộc sống, những đặc điểm vê tâm lý, tính cách gần
gũi với con người. Đó là sự « thần thánh hóa » con người, hội tụ những nét đẹp của con người (dũng cảm,
hảo hiệp, vì nghĩa lớn, yêu chân lý và cái đẹp) cũng như những khiếm khuyết của con người (sự độc ác,
tính tị hiềm, ghen tuông, …).
Nhà thơ Hê- đi- ốt, sống khoảng cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ VII TCN đã viết « Gia phả các thần »,
phân rõ ba triều đại thần linh, sắp xếp nên một hệ thống thần linh hoàn chỉnh. b.Thơ ca :
Sử thi: Iliad và Odysse
Iliát (Iliad): 15.693 câu thơ, chia ra 24 khúc ca, kể về 49 ngày cuối cùng trong năm thứ 10 của cuộc
chiến tranh thành Tơroa (Troy), cũng gọi là thành Iliông (Ilion), một thành bang ven bờ Tiểu Á, giữa các
thành bang Hi Lạp do Agamemnông (Agamemnon, vua của Myxen - Mycenae) thống lĩnh. Nội dung
chính là mối bất hòa giữa Asin (Achillse), vị tướng giỏi nhất của quân Hi Lạp và Agamemnông vì nàng
Brêdêit (Brideis). Cuối cùng Asin chết trong chiến trận, kết thúc với lễ hỏa táng của Hector, hoàng tử và
là tướng chỉ huy của Tơroa.
Ôđixê (Odyssey): 12.110 câu thơ, gồm 24 khúc ca, kể về cuộc hành trình kéo dài 10 năm của
Uylixơ (Uylisses, tức Odysseus), người đã nghĩ ra mưu kế « Con ngựa thành Tơroa », sau chiến tranh
Tơroa, trải qua sóng gió mới trở về quê hương Itác (Ithaca) bên người vợ chung thủy Pêlênốp và con trai.
Hai vợ chồng nhận ra nhau qua chi tiết chiếc giường trong phòng ngủ có một chân vốn là một gốc cây
được đẽo nên không di chuyển được.
Hai bộ sử thi đồ sộ này vừa là những kiệt tác văn học, vừa phản ánh một thời kỳ lịch sử của người
Hi Lạp, tức thời kỳ tan rã của xã hội nguyên thủy Hi Lạp – Thời đại Hôme (thế kỷ XI – IX TCN), tương
truyền do thi sĩ Hôme, người thi sĩ bị mù chuyên đi kể chuyện tại các thành phố. Hai bộ sử thi ấy còn thể
hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa thần thoại và tính chất anh hùng ca trong thần thoại và sử thi Hi Lạp. Đây là
niềm tự hào của nền văn minh Hi Lạp và là tác phẩm phổ biến nhất trong di sản văn học Hi Lạp. Thơ trữ tình : •
Nhà thơ xác thực đầu tiên là Hêđiốt, khoảng nửa sau thế kỷ VIII TCN, đầu thế kỷ VII TCN,
tácgiả của « Nguồn gốc các vị thần » và « Lao động và ngày tháng ». “Nguồn gốc các vị thần” là văn
bản viết đầu tiên về thế giới thần thoại Hi Lạp, hệ thống hóa những câu chuyện kể dân gian và do đó
đôi khi có những khác biệt so với truyền thuyết, sử thi (ví dụ: về nguồn gốc của nữ thần tình yêu
Aphrôđit, theo Hôme là do thần Dớt sinh ra, nhưng theo ông là do bọt biển sinh ra) •
Các thi sĩ khác: Thế kỷ VII – VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu như Ackhilốc
(Archiloque), Ankây (Alcaeus), Saphô (Sappho)…
Nữ thi sĩ Sa phô (Sappho), được người Hi Lạp xưng tụng là nàng thơ thứ 10 của thơ ca Hi Lạp (theo
quan niệm của người Hi Lạp, có 9 nàng tiên bảo trợ cho hoạt động thi ca). Bà để lại 9 tập thơ, thể hiện
sâu sắc và tinh tế những sắc thái tình cảm sâu sắc của con người.
c.Kịch thơ: Bi kịch và hài kịch lOMoAR cPSD| 40420603
Kịch thơ là một trong thể loại văn học rất phát triển ở Hi Lạp cổ đại, vừa là một loại hình nghệ
thuật sân khấu, một đóng góp lớn vào kho tàng văn hóa nhân loại.
Chính kịch ra đời bắt nguồn từ các hoạt động ca hát, kể chuyện trong lễ hội tôn vinh thần rượu nho
Dionisos, nhất là khoảng thế kỷ VI TCN, được trình diễn lần đầu tiên năm 534 TCN. Thế kỷ VI – V TCN
là thời kỳ hoàng kim của kịch cổ điển Hi Lạp. Các chủ nô tài trợ nhiều cho hoạt động sáng tác và trình
diễn, chẳng hạn như tổ chức thi và trao giải hàng năm.
Bi kịch: Ba nhà sáng tác bi kịch lớn, Etslin, Xôphôcclơ và Ơripit
Etsin (525 TCN – 456 TCN): đứng về phía các chủ nô Aten, tham gia chống quân Ba Tư. Ông tin
vào vai trò quyết định của các thần linh, đề cao chính nghĩa, ca ngợi tinh thần yêu nước và bất khuất của
con người, phản kháng chuyên chế. Hiện còn 7 vở kịch của ông (trong số 70 bi kịch và 20 hài kịch), tiêu
biểu là Prômêtê bị xiềng.
Xôphôcclơ (496 TCN – 406 TCN): có thế giới quan tôn giáo truyền thống. Ông cho rằng bi kịch
sinh ra từ sự phản kháng số mệnh của con người. Ông đã sáng tác 123 vở kịch, nay chỉ còn lại 7 vở nguyên
vẹn, chẳng hạn như Ơđip làm vua.
Ơripit (khoảng 485/480 TCN – 406 TCN): viết 90 vở kịch, nay còn giữ được 18 vở kịch (17 bi
kịch, 1 hài kịch). Quan điểm của ông là không tin vào số mệnh, con người rơi vào bi kịch do không thắng
nổi dục vọng của mình. Trong các tác phẩm của ông, cuộc đấu tranh giữa trí tuệ và tình cảm rất mạnh mẽ,
nên được xem là người khởi đầu cho thể loại bi kịch tâm lí – xã hội.
Hài kịch: Arixtôphan (khoảng 445 – 386 TCN) 2.
Ông là nhà sáng tác hài kịch tiêu biểu nhất, với 44 ở kịch, nay còn 11 vở kịch, tiêu biểu như
Hòa bình, Kỵ sĩ, Đàn chim…Đề tài của ông xoay quanh các vấn đề thời sự, chính trị, mang tính đả kích,
châm biếm xã hội đương thời, như phản đối cuộc chiến tranh Pêlôpônne (431 – 404 TCN), các thói hư,
tật xấu của con người… Về quan điểm chính trị, ông thuộc phái bảo thủ, thường chỉ trích các nhà cầm
quyền dân chủ của Aten. 3. Triết học :
+ Triết học (Philosophy - Philosophia bắt nguồn từ chữ Hi Lạp philos - yêu và sophia – sự thông
thái, tri thức) là một trong những thành tựu văn minh lớn của người Hi Lạp, là cội nguồn của triết học
phương Tây. Triết học Hi Lạp ra đời trong một xã hội có nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp
phát triển, chế độ chiếm nô phát triển cao, trên nền tảng của những thành tựu khoa học tự nhiên, ít bị chi phối bởi tôn giáo.
+ Nét nổi bật trong lịch sử triết học Hi Lạp là sự hình thành, phát triển và đấu tranh giữa các trường phái duy vật và duy tâm.
+ Hai thời kỳ lịch sử của triết học Hi Lạp cổ đại :
Thời kỳ hình thành của các trường phái duy vật và duy tâm đầu tiên – từ thế kỷ VII đến thế kỷ VI TCN :
Trường phái duy vật đầu tiên – trường phái Milê: với các nhà triết học lớn là Talet, Anaximandro,
Anaximen, đều quê ở Milê, một thành bang Hi Lạp giàu có ven bờ biển Tiểu Á. Họ không thừa nhận sự
giải thích về thế giới của tôn giáo, mà tìm câu trả lời trong thế giới vật chất cho câu hỏi « cái gì là cơ sở
đầu tiên của mọi sự vật, hiện tượng ? », thừa nhận thế giới là một chỉnh thể thống nhất.
Talét (624 – 526 TCN), người sáng lập trường phái, cho rằng nước là cơ sở đầu tiên của vạn vật, vận
động sinh ra mọi sự vật, hiện tượng.
Anaximanđrơ (611 – 546 TCN) cho rằng chất Apâyrôn (không giới hạn – tiếng Hi Lạp) là cơ sở đầu
tiên của vạn vật, một chất không đổi, vĩnh cửu và không giới hạn. Vạn vật sinh ra từ đó và khi chết trở về
apâyrôn. Các mặt đối lập sinh ra từ apâyrôn, tương tác nhau sinh ra vạn vật.
Anaximen (585 – 525 TCN) cho rằng không khí sinh ra vạn vật, là nguồn gốc của sự sống. lOMoAR cPSD| 40420603
Hêraclit (554 – 483 TCN), người Êphêdơ (Tiểu Á), cho rằng lửa là nguồn gốc vạn vật. Ông là một
trong những người sáng lập ra phép biện chứng cổ đại, với câu nói nổi tiếng « Không thể tắm hai lần trên
một dòng sông », cho rằng sự vật đều vận động và thay đổi không ngừng, là đặc tính của vật chất, kết quả
của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trường phái duy tâm đầu tiên - Trường phái Pytago (Pythagore): Do Pytago (540 – 500 TCN) sáng
lập, một nhà toán học, lập ra « Hội tôn giáo – triết học ». Phái này tuyệt đối hóa các con số, con số không
chỉ là những biểu thức đơn giản mà còn thể hiện bản chất của sự vật (Ví dụ: số lẻ là hữu hạn, biểu thị điều
tốt; số chẵn là vô hạn, biểu thị điều xấu). Thành tựu của họ chủ yếu ở lĩnh vực toán học, thiên văn học và lý thuyết âm nhạc.
Ngoài ra còn có trường phái Êlê (một thành bang Nam Italia) do Xênôphan (570 – 480 TCN) sáng
lập, vừa có yếu tố duy tâm (sự vận động chỉ là hư ảo của cảm giác), vừa có yếu tố duy vật (thế giới vĩnh
cửu, không do ai tạo nên, cũng không bị hủy diệt).
Thời kỳ phát triển của triết học Hi Lạp cổ điển – thế kỷ V – IV TCN :
• Trường phái duy vật: kế thừa và phát triển lên tầm cao mới những quan điểm duy vật đầu tiên,
trong điều kiện xã hội mới. Aten trở thành trung tâm của nền triết học phương Tây cổ đại.
• Anaxago (500 – 428 TCN): Nhà triết học duy vật nổi tiếng đầu tiên của giai đoạn này, cho rằng thế
giới không do ai tạo ra, không bị hủy diệt, không có sự thay đổi chất lượng, là sự thống nhất và phân chia
của các dạng vật chất. Ban đầu chỉ có các « hạt giống » vô cùng nhỏ, hỗn độn, lắm hình vẻ, rồi chuyển
động, liên kết theo loại tạo ra vạn vật. Động lực của sự chia tách và liên kết là chất nhẹ nhất, sạch nhất – trí tuệ.
• Empêđốc (khoảng 495 – 435 TCN), cho rằng cội nguồn của vạn vật là lửa, nước, không khí và đất,
không chuyển hóa mà hỗn hợp với nhau một cách cơ học tạo ra vạn vật. Các sự vật, hiện tượng tồn tại
nhờ sự thống nhất (do yêu) và chia tách (do lòng căm thù) của các nguyên tố tạo nên. Ông sáng lập ra lí
thuyết cổ điển về các nguyên tố.
• Đêmôcrit (460 – 371 TCN), nhà triết học duy vật nổi tiếng nhất. Ông sáng lập ra thuyết nguyên tử
cổ đại. Theo đó, toàn bộ thế giới, gồm cả con người, đều được cấu thành từ những hạt nhỏ nhất – các
nguyên tử, không phân chia, chuyển động giữa các khoảng chân không, tạo nên vạn vật. Ông là người
đầu tiên nêu ra quan điểm vận động là thuộc tính của vật chất. Ông chống tôn giáo, cho rằng thần linh chỉ
là hiện thân của tự nhiên và bản tính con người. Thuyết nguyên tử của ông ảnh hưởng tới toàn bộ triết học
và khoa học châu Âu về sau.
• Trường phái duy tâm :
Phát triển mạnh một hệ thống quan điểm duy tâm về thế giới, về xã hội và bản thân con người.
(470 – 399 TCN): Nhà triết học lớn, không để lại tác phẩm nào mà quan điểm được biết đến qua tác
phẩm của các học trò, như Platông, Xênôphôn và Arixtôphan.
Ông cho rằng triết học có tác dụng giáo dục đạo đức cho con người, rất quan tâm đến lí luận nhận
thức. Phương pháp nhận thức chân lí của ông là tranh luận. Ông phân biệt con người thành 2 loại: có thể
và không thể nhận thức chân lí.
(427 – 347 TCN), học trò Sôcơrat, nhà triết học lớn của phái duy tâm, « đối thủ tư tưởng » chủ yếu
của Đêmôcrit. Ông sáng lập trường phái Academi, chủ yếu nghiên cứu toán học, xây dựng phép biện
chứng độc đáo trên cơ sở toán học.
Thuyết ý niệm: Thừa nhận thế giới khách quan tồn tại, nhưng cho sự tồn tại đó chỉ là sự phản ảnh,
sản phẩm của thế giới ý niệm bên kia. Thế giới ý niệm tồn tại thực sự, bất biến và vĩnh cửu. Thế giới ý
niệm có trước thế giới vật chất, vật chất chỉ là sự phản ánh của thế giới ý niệm lOMoAR cPSD| 40420603
Học thuyết về nhà nước: Phản đối nhà nước dân chủ chủ nô, đưa ra mô hình nhà nước thành bang lí
tưởng theo mẫu nhà nước Xpac, do các nhà triết học thông thái nắm quyền, binh sĩ và bình dân lao động,
bảo vệ, nô lệ không phải công dân, phụ nữ bình đảng với nam giới.
(384 – 322 TCN ): nhà triết học, nhà bác học vĩ đại thời cổ đại, thầy dạy học của Alexandre Makedonia.
Ông dung hòa triết học duy vật và duy tâm (triết học nhị nguyên), phê phán thuyết ý niệm của
Platông, thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, dùng phương pháo duy vật để nghiên cứu các đối tượng,
những cho rằng tự nhiên phát triển được là do sự kích thích đầu tiên của « lí trí thế giới »
Ông sáng tạo ra phép quy nạp trong nhận thức, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của triết học và logic học.
Về chính trị, ông nêu ra 3 mô hình nhà nước: nhà nước quân chủ (của 1 người), nhà nước quý tộc
(của 1 nhóm người), nhà nước dân chủ (của mọi người), trong đó ủng hộ mô hình nhà nước quý tộc (trong
tác phẩm « Nền chính trị Aten »)
Quan điểm triết học và thành tựu khoa học của ông ảnh hưởng sâu rộng tới các khuynh hướng triết
học trung cổ và cận đại (nhà thờ Thiên chúa giáo dùng một số quan điểm của ông để giải thích thế giới,
coi đó là chân lí, ai chống lại sẽ bị trừng phạt)
Triết học thời kỳ Hi Lạp hóa – 3 thế kỷ trước công nguyên :
Thời kỳ phát triển cuối cùng của triết học Hi Lạp cổ đại, với hai trường phái Êpiquya và Stôisit Trường phái Êpiquya:
Trường phái này do Êpiquya (341 – 270 TCN) sáng lập. Ông kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử
của Đê mô crit, cho rằng sự chệch hướng của các nguyên tử gây ra sự va chạm không ngừng của các
nguyên tử, sinh ra kết hợp mới, tạo chất mới. Ông cho rằng con người có thể nhận thức thế giới bằng cảm
giác, và cảm giác hoàn toàn đáng tin cậy Trường phái Stoisit (khắc kỷ):
Trường phái này do Dênôn (Zénon, khoảng 335 – 264 TCN) sáng lập, vừa có yếu tố duy vật, vừa
có yếu tố duy tâm. Trường phái này coi đức hạnh là điều cần có lớn nhất của con người, chủ trương con
người phải thanh đạm, kiên cường và bình thản trước nguy nan, chống lại xu hướng hưởng lạc của phái Êpiquya 4.
Triết học Hi Lạp cổ đại là sản phẩm của một xã hội chiếm nô phát triển, trên cơ sở nền kinh
tế thủ công nghiệp và thương nghiệp khá phát triển, trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên,
ít bị tôn giáo chi phối. Sự phát triển ấy diễn ra trong bầu không khí xã hội tương đối tự do, diễn ra
cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng duy vật và duy tâm. Nó đã đặt cơ sở cho nền triết học phương Tây về sau. 5.
Khoa học tự nhiên: Toán học, Vật lý, Thiên văn học, Y học
Hi Lạp cổ đại không chỉ là quê hương của triết học mà còn là cái nôi của nền khoa học châu Âu, đặc
biệt là khoa học tự nhiên.
Trong một xã hội có nhiều bước tiến về kinh tế và một bầu không khí tương đối dân chủ - tự do (dân
chủ chủ nô), xuất hiện nhiều nhà khoa học, khám phá tự nhiên và đi đến nhiều thành tựu quan trọng, có
giá trị cho sự phát triển của khoa học nhân loại. Trên rất nhiều lĩnh vực, các nhà khoa học Hi Lạp cổ đại
(thường đồng thời là nhà triết học) đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
- Toán học: Vượt qua được những phép tính và bài toán sơ giản, các nhà toán học Hi Lạp cổ đại đã
khái quát những kiến thức toán học thành các định lí, định đề, nguyên lí vẫn còn được sử dụng trong toán
học hiện đại: Định lý Pitago, định lí Talet, định luật Acsimet, Tiên đề Ơcơlit…Họ đã phát minh và lOMoAR cPSD| 40420603
đặt cơ sở cho môn hình học. Chính nhuwgx điều đó đã khiến cho toán học và nền khoa học nói chung của
Hi Lạp cổ đại phát triển mạnh, vượt qua những thành tựu của người phương Đông cổ đại về lý thuyết toán học.:
+ Talet: phát biể định lý Talet về tam giác đồng dạng, đo được chiều cao của kim tự tháp, tính được
chính xác ngày nhật thực ở Milê (28/5/585 TCN)
+Pitago (580 – 500 TCN), đứng đầu trường phái học thuật Pitago, đã phát biểu định luật Pytago nổi
tiếng “Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác”
+Acsimet (285 – 212 TCN), nhà toán học, vật lý, thiên văn, người khám phá ra sức đẩy của nước,
phát hiện ra nguyên lí của phép đòn bẩy, tìm ra trị số Pi gần đóng = 3, 1324
+ Ơcơlit (nửa đầu thế kỷ III TCN), nhà toán học quê Alếchxanđri, người đầu tiên biên soạn sách
giáo khoa hình học, tác giả của các định đề Ơcơlit trong toán học, ngày nay vẫn rất quan trọng trong hìn học.
- Thiên văn học: đạt nhiều thành tựu quan trọng, như dự đoán được ngày nguyệt thực, nhật
thực(Talet); thừa nhận quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định (Pitago); đề ra thuyết hệ
thống mặt trời, quả đất quay quanh mặt trời và tự quay quanh nó (Arixtac); tính được chu vi trái đất khá
chính xác (37000 km, Eraxtoten)…
- Y học: Híppôcơrát (460 – 377 TCN), “ông tổ của y dược học phương Tây”, đả phá mê tín dịđoan,
đề ra phương pháp chữa bệnh khoa học, đề cao trách nhiệm của người thầy thuốc (Lời thề Híppôcơrát)… 6.
Nét độc đáo của các nhà khoa học Hi Lạp, là đã vượt qua được cách nhìn thần bí của tôn
giáo về thế giới, dùng con mắt trực quan, phương pháp khoa học để khám phá thế giới, dù còn ở bước
đầu, từ đó khái quát thành tri thức khoa học, với những tiên đề, định lí, định luật mà ngày nay một số
vẫn còn giá trị khoa học lớn và được giảng dạy trong các trường học (định lí Talét, định lí Pytago, định
luật Ácsimét, tiên đề Ơcơlít…). Khoa học tự nhiên ở Hi Lạp cổ đại khác với những tri thức khoa học ở
phương Đông, vốn mang tính chất kinh nghiệm và ít khi vươn lên tầm khái quát. Đây là một trong
những nguyên nhân khiến cho nền triết học Hi Lạp cổ đại nảy nở và phát triển mạnh các học thuyết triết học duy vật. 7.
Kiến trúc – Điêu khắc
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Hi Lạp là một trong những di sản quý báu của nền văn minh
Hi Lạp, đặt nền móng và ảnh hưởng sâu sắc tới nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phương Tây. Những tác
phẩm của người Hi Lạp cổ đại, về một số mặt vẫn còn là hình mẫu cho nghệ thuật đương đại. Kiến trúc:
+ Ban đầu kiến trúc Hi Lạp còn sơ giản, sử dụng gỗ, gạch và đá, càng về sau chất liệu đá càng được
sử dụng nhiều, kiểu cách và hoa văn càng trở nên phong phú và tinh tế.
+ Thế kỷ VII TCN, kiến trúc Hi Lạp có bước thay đổi lớn, xuất hiện các ngôi đền 4 mặt với 4 hàng
cột đá. Kiến trúc hình chữ nhật bằng đá với 4 mặt đều có 4 hàng cột tròn là nét đặc trưng, chung nhất của
các kiểu thức kiến trúc Hi Lạp. Các kiểu thức nối tiếp nhau ra đời, với nét khác nhau nổi bật là hình thức của các cột trụ.
Kiểu thức Đôrien (thế kỷ VII TCN), ra đời sớm nhất. Đặc trưng: trang nghiêm và giản dị; cột đứng
trực tiếp trên mặt công trình, không có bệ đỡ; cột to, nhiều nấc, thu nhỏ lại ở phía trên, các đường xoi dọc
thân cột không sâu. Phần đỉnh cột gồm đoạn phình tròn phía trên và một phiến đá vuông nằm trên đó,
không trang trí. Tiêu biểu: đền thờ thần Dớt ở Olympia, đền thờ thần Apollo ở Côrinh.
Kiểu thức Iônien (Thế kỷ V TCN), phổ biến rộng rãi ở Hi Lạp. Đặc trưng: thanh thoát, trang nhã hơn
kiểu Đô rien; cột có bệ đỡ bằng đá – có trang trí hoa văn; cột thon hơn Đô rien, phần trên ít thu nhỏ, các
đường xoi dọc thân cột sâu hơn, tạo hình múi khế, thay phiến đá vuông phía trên cột bằng phiến đá có hai
nếp cuộn tròn giống 2 lọn tóc cuốn. Tiêu biểu: đền thờ thần Ac- tê- mit ở Êphedơ (Tiểu Á, 1 trong 7 kỳ lOMoAR cPSD| 40420603
quan thế giới cổ đại), đền thờ nữ thần Hera ở đảo Xamốt, đền Pactenôn (trinh nữ) thờ nữ thần Atena ở
Aten (kết hợp Đôrien và Iônien), Lăng mộ vua Môxôlơ (Mausole) ở Halicacnat
Kiểu thức Cô rinh (thế kỷ IV TCN), cơ bản giống kiểu Iônien, song cột cao hơn, bệ dỡ cầu kỳ hơn,
đỉnh cột được trang trí thêm các cành, lá dưới các nếp cuộn đứng (phổ biến trong kiến trúc Roma về sau)
Những công trình kiến trúc Hi Lạp nguy nga, đồ sộ xuất hiện chủ yếu trong hai thế kỷ V – IV TCN,
với nhiều kiệt tác. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, đa phần các công trình không còn nữa hoặc hư hại
nặng nề, nhưng những tàn tích còn lại vẫn rất tuyệt mĩ, cùng với những ảnh hưởng của kiến trúc Hi Lạp
về sau đã cho thấy sự vĩ đại và trường tồn của các công trình kiến trúcHi Lạp.
Một số kỳ quan của thế giới cổ đại: đền thờ thần Actêmit ở Êphedơ, Lăng mộ vua Môxôlơ (Mausole) ở Halicacnat. Lăng mộ của Mausole
Lăng mộ Maussollos, hay Lăng Halicarnassus là một lăng mộ được xây dựng giai đoạn 353 TCB–
350 TCN tại Halicarnassus (Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay), dành cho Mausolus, vị vương hầu một tỉnh
thời Đế chế Ba Tư, và Artemisia, vợ và chị ông. Công trình cao gần 45 mét và mỗi mặt đều được trang trí
bởi một trong bốn nhà điêu khắc nổi tiếng Hi Lạp: Bryaxis, Leochares, Scopas và Timotheus. Khi hoàn
thành công trình được coi là một thành công lớn về nghệ thuật tới mức được coi là một trong bảy kỳ quan
thế giới. Từ lăng (mausoleum) từ đó được sử dụng chung với nghĩa là một ngôi mộ lớn, dù nguyên nghĩa
"Mausol–eum" là "để vinh danh Mausole". Đền Artemis
Đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ Diana được xây dựng từ đá cẩm thạch bởi
kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, dài 115 m, rộng 55 m, bao gồm 127 cột đá, ở thành phố
Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kì). Đền được bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá trình xây dựng
lại và mở rộng qua nhiều thời kỳ, lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa
thiêu hủy vào đêm Alexandros Đại Đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi đền
cũ. Năm 262, người Goth đã đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác của ngôi đền thứ
hai còn tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn còn lưu một số di tích thuộc ngôi đền thứ hai.
Hải đăng Alexandria là ngọn đèn biển được xây dựng vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên trên
hòn đảo Pharos tại Alexandria, Ai Cập làm tín hiệu thông báo của cảng, và sau này là một ngọn hải đăng.
Chiều cao đèn biển được ước tính khá khác biệt từ 115 đến 135 mét, là một trong những công trình
nhân tạo cao nhất Trái đất trong nhiều thế kỷ và được các học giả cổ đại coi là một trong bảy kỳ quan thế giới.
Được xây dựng từ những khối đá lớn sáng màu, tháp có ba tầng: phần thấp hình vuông với một lõi
trung tâm, phần giữa hình bát giác, và đỉnh hình tròn. Đỉnh của nó có đặt một tấm gương phản chiếu ánh
mặt trời vào ban ngày; hay một ngọn lửa vào ban đêm Điêu khắc:
Nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp ra đời từ thế kỷ VIII TCN, ban đầu dùng chất liệu gỗ. Song phải đến
thế kỷ V TCN, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp mới vươn lên đỉnh cao của nó, ới hàng loạt tên tuổi của những
nhà điêu khắc danh tiếng. Chất liệu chủ yếu của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp là đá.
Nét độc đáo trong nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp là sự hoàn mỹ trong mô tả con người, với sự
chính xác cao độ về vóc dáng, tỷ lệ các phần trên cơ thể, nét sống động của tượng, thê hiện tâm trạng ưu
tư, buồn vui của con người, đồng thời mang đậm nét cá nhân sâu sắc: không chỉ miêu tả thánh thần (rất
gần gũi với hìh hài con người), các nhà điêu khắc còn tạc tượng các nhân vật nổi tiếng trong nhiều lĩnh
vực, thậm chí chính nhà điêu khắc. Mỗi nhà điêu khắc ở từng thời kỳ chịu ảnh hưởng của phong cách
thời kỳ đó, đồng thời thể hiện cá tính của mình trên các tác phẩm. lOMoAR cPSD| 40420603
+ Mi rông (Myron, thế kỷ V TCN): tác giả bức tượng “Người ném đĩa”, diễn tả chuẩn xác động
tác và vẻ đẹp cơ thể.
+ Phiđiat (Phidias, thế kỷ V TCN): ông là nhà điêu khắc nổi tiếng nhất của Hi Lạp. Các tác phẩm
tiêu biểu của ông có tượng nữ thần Atena trong đền Pactênôn (Aten), tượng thần Dớt ở Olimpia (một trong
7 kỳ quan của thế giới cổ đại), khảm vàng và ngà voi, tượng “Atena chiến đấu”, cao 17 mét bằng đồng,
đặt trên Acrôpôn (Vệ thành) của Aten.
Tượng thần Zeus ở Olympia
Được xây dựng vào năm 470 - 460 trước Công nguyên, cao 40 ft, rộng 22 ft, tạc hình thần Zeus ngồi
trên ngai vàng, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo choàng làm bằng vàng, tay phải cầm tượng
thần Victory có cánh biểu tượng cho chiến thắng trong các kỳ Thế vận hội, tay trái cầm vương trượng
trang trí hình chim đại bàng bằng kim loại, tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần.
Đầu thần Zeus trang điểm vòng hoa ôliu. Ngai vàng làm bằng gỗ tuyết tùng và ngà. Chân thần đặt lên một ghế lớn.
+ Praxiten (thế kỷ IV TCN), tác giả của các bức tượng nam, nữ thần, trong hình hài của những thanh
niên đẹp đẽ, chẳng hạn tượng thần Hecmet, tượng thần Aphrôđit (Tiểu Á)
Thời kỳ Hi Lạp hóa, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp tiếp tục phát triển, với những tác phẩm lớn, như
tượng thần Nikea (chiến thắng), tượng người khổng lồ trên đảo Rôđôs (Rode – một trong 7 kỳ quan của
thế giới cổ đại), tượng thần vệ nữ Milô (tiêu biểu của nghệ thuật tượng Hi Lạp)
Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes
Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes là tượng đồng khổng lồ thể hiện vị thần mặt trời Helios - vị thần bảo
hộ thành Rhodes - đã có công giúp thành phố thoát khỏi cuộc bao vây của Demetrius "Poliorcetes", vua
Syria, năm 305 trước Công nguyên. Theo nhiều giả thiết được đặt tại thành phố Rhodes, thủ phủ của đảo
Rhodes, Ai Cập, tượng được xây dựng năm 280 TCN và sụp đổ trong một trận động đất vào năm 224
TCN. Tượng cao khoảng 33 mét.
Nhìn chung, kiến trúc và điêu khắc Hi Lạp có giá trị lớn, là cơ sở của kiến trúc và điêu khắc Roma
cũng như một số nét được kế thừa trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của phương Tây về sau. Câu 9:Văn minh La Mã
- Thành tựu chủ yếu( chữ viết, kiến trúc điêu khắc, luật pháp, khoa học tự nhiên) - Trả lời: *Chữ viết
- Chữ viết của người Etrusqua ( người Tiểu Á) xuất hiện khoảng TK VIII- VII TCN, nhưng đếnnay
thì người ta vẫn chưa đọc được thứ chữ viết này. Người ta tìm được khoảng 9000 dòng chữ của họ nhưng
không biết được đâu là từ, đâu à câu, đâu là bài.
- Theo nhiều nguồn ài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào khoảng TK VI TCN có nguồngốc
từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hi Lap cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại
chữ riêng của mình mà ngày nay người ta quen gọi là chữ Latinh.
- Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở phổ biến và được sửdụng
rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu
hiện đại ( Ý, TBN, BĐN, Pháp, ...) người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn
thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.
=> Có thể nói bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ ngày nay được sử dụng làm
ngôn ngữ chung cho cả tế giới, trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, khoa học,
nghệ thuật, ... mang mọi nền văn hóa của các quốc gia xích lại gần nhau hơn. *Văn học lOMoAR cPSD| 40420603
- Người La Mã vốn sớm đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hi Lạp, đặc biệt là sau khi đánh chiếmthành
phố Tarentơ của Hi Lạp ở trên bán đảo Ý vào năm 272 TCN, La Mã bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Hi Lạp
do đó đã chịu ảnh hưởng của văn học Hi Lạp.
* Văn học La Mã gồm nhiều thể loại: + Sử thi +Thơ trữ tình +Thơ trào phúng +Văn xuôi, kịch, ...
- Thần thoại của La Mã hầu như là những cau chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùngvới
những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người.
- Thời Cộng Hòa, La Mã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch, ví dụ, Andronicut đã dịch Ô Đi xê ratiếng
Latinh, Ca tu lút đã viết nhiều bài thơ trữ tình.
- Thời kì phát triển nhất của thơ ca La Mã là thời kì thống trị của Ôctavianut, để phục vụ cho chếđộ
chính trị của Ôctavianut, nhóm tao dàn Mê xen được thành lập. Mê xen là một người thân cận của
Ôctavianut, là Mạnh Thường Quân của La Mã đã đứng ra bảo trợ các thi nhân văn sĩ. Trong nhóm này có
các nhà thơ nổi tiếng như Viếcgiliút, Hôratiút, Ôviđiút, ...
- Một số tác phẩm như: Những bài thơ ca của người chăn nuôi, Khuyến Nông ( Mê xen), Sử thi Ênêit, ... *Kịch:
- Ở La Mã, các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têrexiút cũng là những nhà soạn bikịch
và hài kịch. Năm 240 TCN, ở La Mã bắt đầu diễn kịch, và Anđrôcút là người đầu tiên được giao nhiệm
vụ chuẩn bị kịch bản cho các buổi biểu diễn ấy, từ đó các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi lịch và hài
kịch của Hi Lạp, đồng thời mô phỏng theo kịch Hi Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải
biến đi thành của mình. * Sử học La Mã:
Từ khoảng giữa TK V TCN ở La Mã đã có những tài liệu tương tự như lịch sử biên niên gọi là “Niên
đại sử kí” (Annales) nhưng nền sử học thật sự của La Mã đến cuối TK III TCN mới xuất hiện, người được
coi là nhà sử học đầu tiên cũng là nhà soạn kịch Nơviút, ông đã tham gia các cuộc chiến tranh puních lần
thứ nhất, nhờ đó ông đã viết tập sử thi Cuộc chiến tranh Puních, nhưng tác phẩm này chỉ còn một số đoạn.
- Người đầu tiên dùng văn xuôi để viết sử à Cato(234- 149TCN) nhà nhà sử học thực sự đầu tiêncủa
La Mã, từ Cato trở về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc: Polibius, Plutarch, Tacitus, ..
+Polibius (201- 120 TCN), là người Hi Lạp bị đưa sang La Mã, tác phẩm nổi tiếng của ông là thông
sử(gồm 40 tập), ông nói “Sử học là một tứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời”
- Ví dụ: Từ Ca tông về sau La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc: Pôlibiút, Tiút Liviút, Taxitút, Plu tác, ...
=> Những thành tựu nói trên của La Mã đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của
nền sử học thế giới. *Tôn giáo
- Người La Mã nguyên thủy cũng theo đa thần giáo. Trên cơ sở lấy các vị thần của Hy Lạp tiếp thuvà
cải biên đi thành những vị thần của mình như: thần Jupiter, Juno, Neptune, ... khi tiếp xúc với văn hóa Hi
Lạp, họ đã tiếp nhận toàn bộ tôn giáo của người Hi Lạp với đầy đủ các đặc điểm của nó: trần tục và thực
tế, không có nội dung thần thánh và luân lí, mối quan heejgiuwax con người với thần thánh thực chất là
một hợp đồng có lợi cho cả 2 bên, các vị thần của người Hi Lạp và La Mã cùng có một chức nawg tương ứng như nhau. lOMoAR cPSD| 40420603
- Tuy nhiên tôn giáo của người La Mã mang tính chính trị và ít nhân bản hơn.Nó được sử dụngkhông
phải để vinh thăng con người hay làm cho con người hưởng cuộc sống trần thế mà là để bảo vệ nhà nước khỏi kẻ thù.
- Một đặc điểm nữa là khi nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đại Kito, mặ dù đạo
Kitokhông phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết người đã sáng tạo ra đạo Kito là Jesus Crit, con của
chúa trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria, Jesus Crit ra đời vào khoảng TK IV TCN tại
Bethleem ( Palestin ngày nay), đến năm 30 tuổi Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.
- Đạo Kito khuyên con người nhẫn nhục, chịu đưng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ đượchưởng
hạnh phúc nơi thiên đàng, chúa Trời sáng tạo ra thế giới này, chúa Jesus thành thần tuy ba mà một ( tam
vị nhất thể). Đạo Kito cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỷ, ... giáo lí của đạo
Kito gồm có Kinh cựu ước ( kể từ khi chúa Jesus ra đời) luật lệ của đạo Kito thể hiện trong 10 điều răn.
- Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kito tổ chức thành những công xã mang tính chất tôn giáo,
vừagiúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến TK II, các công xã Kito dần phát triển thành giáo hội.
- Khi mới ra đời, đạo Kito bị các hoàng đế La Mã và bọn quý tộc đại phương đàn áp rất tàn bạo,
vụđàn áp đẫm máu nhất là vào năm 64, dưới thời Hoàng đế Nê rông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ,
nhưng số người theo đạo Kito không những không giảm mà ngày càng tăng lên, về sau giáo hội đề ra
nguyên tắc: “ Vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính
dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng các Hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung
sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đò Kito. Năm 313 đạo Kito được
hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Côn xtatinut đã gia nhập
đạo Kito, hoàng đế theo đạo Kito thì đương nhiên các quan lại cũng đua nhau theo đạo. Ngân quỹ của
quốc gia được chi ra để đóng góp cho nhà thờ. Đạo Kito được truyền bá rộng khắp vùng đất quanh Địa
Trung Hải. Sau này khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kito đã ăn sâu và lan rộng khắp châu Âu. * Nghệ thuật:
Gồm ba mặt chủ yếu: Kiến trúc, điêu khắc, hội họa. *Kiến trúc
Thành tựu về kiến trúc của La Mã lại càng rực rỡ, về mặt này người La Mã có rất nhiều sáng tạo.
Các công trình kiến trúc của người La Mã bao gồm: tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát, khải hoàn
môn, côt kỉ niệm, cầu đường, ống dẫn nước....
Người La Mã khi xây dựng các công trình đều tuân thủ theo một đồ án bất di bất dịch đó là: hình
vông hay hình chữ nhật với các cạnh thật vuông vức được kẻ ô như bàn cờ, nhà kiến trúc sư nổi tiếng là
Vitrius (86- 26 TCN), mơ ước làm sống lại những kiến trúc cổ điển Hi Lạp, ông đã dành cả đời để viết về
các kĩ thuật kiến trúc xây dựng, và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay.
=> Những công trình này từ thời Cộng Hòa đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Ôctavianút, chính
Ôctavianút đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch thành La Mã bằng cảm thạch.
Trong số các công trình kiến trúc ở La Mã nổi tiếng nhất là đền Păngtênông, rạp hát, các khải hoàn môn. *Điêu khắc
- Nghệ thuật điêu khắc La Mã cùng một phong cách với nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp, chủ yếu thểhiện
ở hai mặt: TƯỢNG và PHÙ ĐIÊU
- Để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo rất nhiều tượng, tượng của Ôgútđược dựng ở khắp nơi
- Các bước phù điêu thường được khắc trên các cột kỉ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trênvòm các khải hoàn môn. lOMoAR cPSD| 40420603
- Nội dung của các bước phù điêu thường mô tả những sự tích lịch sử ( ví dụ trên vòm khải hoànmôn
của hoàng đế Ti út 79- 81, khắc cảnh đoàn quân thắng trận trở về, các binh lính mang theo chiến lợi phẩm
lấy được trong đền miếu ở Giêrudalem, trên các cột trụ của Tơragian có những hình vẽ mô tả cuộc chiến
tranh với người Đaxi. *Hội họa
- Các tác phẩm hội họa của La Mã cổ đại còn được giữ lại chủ yếu là các bích họa, trên đó vẽphong
cảnh, các công trình kiến trúc, đồ trang sức, tĩnh vật, ...Còn chân dung người tuy cũng có nhưng rất ít.
Đặc biệt ở vùng sa mạc A rập đã giữ lại được mấy bức chân dung vẽ bằng màu trên gỗ rất đẹp, đó là hình
của người chết dùng để đặt lên mặt của xac ướp.
* Khoa học tự nhiên:
Những thành tựu quan trọng và một số nhà khoa học tiêu biểu:
+ Nhà khoa học nổi tiếng nhất của La Mã là Pliniút (Pliniu 23- 79), với tác phẩm đầu tiên là “ Lịch
sử tự nhiên” gòm 37 chương, đó là bản tập hợp các tri thức củ các nghành khoa học như: thiên văn học,
vật lí học, địa lý học, nhân loại học, động vật học, thực vật học nông học, y học, luyện kim học, hội họa,
điêu khắc, thời bấy giờ. => Do vậy đây là một tác phẩm tương tự như bách khoa toàn thư của La Mã cổ đại.
+ Clốt ptôlêmê là một nhà thiên văn học, toán học, địa lí người Hi Lạp sinh trưởng ở Ai Cập, sống
vào TK II. Ông đã soạn bộ sách “ Tổng hợp- kết cấu toán học).
+ Y học, người được suy tôn là thủy tổ của phương Tây là Hipôcrat.
+ Đến thời La Mã đại biểu xuất sắc nhất về y học là Claođiút Galênút ( 131- đầu thế kỉ III), quê ở
Pécgam ( Tiểu Á) trên cơ sở tiếp thu các thành tựu trước đó, nhất là của Hipôcrat.
Tóm lại, cách đây trên dưới 2000 năm, nền khoa học của La Mã đã có những thành tựu rất
lớn, những thành tựu ấy đã đặt ơ sở cho sự phát triển huy hoàng của nền khoa học thời cận hiện
đại, đồng thời là một tền đề quan trọng của sự phát triển của nền triết hoc Hi – La. *Triết học
- Hi Lạp và La Mã là quê hương của triết học phương Tây, trên cơ sở chiếm hữu nô lệ, đại biểu cho
các khuynh hướng chính trị khác nhau, quan điểm triết học của các nhà Hi – La đa dạng, nhưng chung
quy cũng bao gồm hai phái chính là triết học duy vật và triết học duy tâm.
a) Triết học duy vật
- Kế thừa triết học Hi Lạp, đến TK I TCN, triết học La Mã cũng tương đối phát triển, nhà triết họcduy
vật xuất sắc nhất của La Mã là Lêcretiút (98- 54 TCN), ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ từ tư
tưởng của nhà triết học Epicurus ( thuyết khắc kỉ) tác phẩm duy nhất mà ông để lại đó là “về bản chất của sự vật”
b)Triết học duy tâm.
- Trường phái triết học duy tâm của Hi- La cổ đại cũng có nhiều đại biểu nổi tiếng, họ là nhữngngười
thông minh và có tài hùng biện
- Để chống lại phái duy vật, lúc đầu phái duy tâm thường xuất iện dưới dạng ngụy biện và lậpthành
một trường phái – phái ngụy biện.
+ P2 luận của họ là nặng về chủ nghĩa hình thức và thường thiên về lối chơi chữ.
+Đại biểu đầu tiên của phái ngụy biện là Protagorat ( 85- 410 TCN)
- Đến thời La Mã, thuộc về phái Xtoinit có ba nhà triết học là Xênéc, Epíchtêút, Mácut Ôrêliút
- Trong hai TK ấy SCN, thuyết khắc kỷ được coi là phù hợp với những đức tính truyền thống với
người dân La Mã, có 3 môn đồ nổi tiếng đó là: lOMoAR cPSD| 40420603
+ Seneca (TK III TCN- 65TCN) là thầy hoc của bạo chúa Nê ron, tư tưởng triết học chủ yếu của ông
là vấn đề đạo đức, ông chủ trương con người phải độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần, tác phẩm
“bàn về nhân tử, bàn về phẫn nỗ, bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, ...”
+Epictetus( TK I –đầu TK II) là học trò của Xê néc, đặc điểm triết học của ông là bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa.
+Marchus Orelius( 121- 180) là hoàng đế La Mã (161- 180) được gọi là “nhà triết học trên ngôi
báu”, quan điểm triết học chủ yếu của ông là “con người là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn
nghĩa vụ của mình dù phải chịu đựng khó khăn và thử thách” *Luật pháp
- Nếu như trong lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La Mã dươc xem là học trò củangười
Hi Lạp thì trong ĩnh vực luật pháp, vị thế của họ còn cao hơn nhiều.
- Khoảng 514 TCN nhà nước Cộng hòa La Mã được thành lập, bộ máy nhà nước gồm có việnnguyên
lão, đại hội nhân dân và quan chấp chính. Hệ thống pháp luật của họ là kết quả của một quá trình tiến triển
lâu dài được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN cử 3 người sang
tìm hiểu luật pháp của Hi Lạp, nhất là của Xô Lông, năm 452 TCN, La Mã thành lập ủy ban 10 người để
soạn luật, soạn được bộ luật khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường. Năm 450 TCN, cử một ủy ban
10 người mới, soạn thêm 2 bảng nữa, vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.
- Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố tụng xét xử,việc
kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, qua n hệ gia đình, địa vị phụ nữ, ...Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo
vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất
của chế độ gia trưởng.
- Về lĩnh vực chính trị: “ Luật 12 bảng đề ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù của nhân dânLa
Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù”
=> Tóm lại, nội dung của 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống xã hội, nhiều
hình thức phạt quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự xét xử độc đoán của quý tộc, đồng
thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp La Mã cổ đại.
- Những pháp lệnh khác từ giữa TK V về sau, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều pháp lệnh
bổsung, năm 445 TCN, ban bố luật Canuleiut cho phép bình dân kết hôn với quý tộc. Năm 367 TCN, lại
thông qua ba pháp lệnh quan trọng:
1 Xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã.
2 Không ai được chiếm quá 50 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.
3 Bỏ chức tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan cấp chính hằng năm, trong số 2
quanchấp chính phải có một người là bình dân. -
Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân, có hiệu lực nhưpháp
luật đối với mọi công dân La Mã. -
Đến cuối TK III, quyền lập pháp của Viện Nguyên Lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh
củanguyên thủ tức là pháp luật. -
Nói chung luật của La Mã được chia thành ba nghành lớn:
+ Jus civile tức là dân luật: tức là luật chủ yếu được liên quan đến La Mã và các công dân của nó.
+ Jus gentium tức la luật của nhân dân có giá trị chung cho mọi người dân không phân biệt dân tộc
+ Jus naturale tức là luật tự nhiên, họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một trình tự hợp lí, vốn
được thể hiện thành công lý và quyền hạn, có nghĩa là tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau,
và con người được hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ chính trị khác không được xâm phạm.
Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại đều có ảnh hưởng rất lớn ở châu Âu. lOMoAR cPSD| 40420603
Câu 10: So sánh văn minh phương Đông cổ đại và văn minh phương Tây cổ đại: cơ sở hình thành Nội dung
Phương Đông cổ đại
Phương Tây cổ đại -
Khái quát về vị trí địa lí, địa bàn hìnhthành của văn minh mở - Biển ĐTH thanh bình, bờ biển
các nền văn minh Ai Cập, Ấn
khúc khuỷu, nhiêu eo, vịnh, tạo ra những hải Độ, Trung Hoa
cảng tự nhiên, nên đời sống của cư dân găn -
Các nền văn minh PĐ cổ đại đều hìnhthành trên liền với biển – văn minh biển.
lưu vực của các con sông lớn, mang tính chất văn minh -
Khoáng sản ở đây khá phong phú với
sông nước. - Các nền văn minh phương Đông cổ đại nhiềumỏ quặng lộ thiên làm xuất hiện khá
đều hình thành trên các đồng bằng phù sa, đất đa màu sớm ghành khai khoáng và luyện kim (sắt).
mỡ, mềm, mịn, tơi xốp, từ đó hình thành tính chất văn Đất đai cứng nên chỉ khi đồ sắt ra đời, cư dân
minh nông nghiệp. - Buổi đầu hầu hết các quốc gia PĐ ở đây mới canh tác được – văn minh đồ sắt.
đều tồn tại một cách biệt lập, khép kín, vì thế có ý kiến -
Khoáng sản phong phú, đất đai nói
cho rằng văn minh PĐ mang tính chất khép kín
chung ítphù hợp cho việc trông cây lương -
Nguồn tài nguyên khoáng sản ít, kĩ thuậtkhai thực, nên kinh tế phát triển theo xu hướng thủ
khoáng chưa phát triển nên các công
công nghiệp và mậu dịch hàng hải – văn minh
ĐKTN cụ lao động thô sơ, lạc hậu, tiến bộ nhất là công thương nghiệp, thủ công nghiệp.
cụ bằng đồng, Chính vì thế văn minh PĐ -
Với laoij hình khí hậu ôn đới địa trung
còn gọi là văn minh đồ đồng.
hảikhá lí tưởng, phong cảnh hữu tình nên -
Loại hình khí hậu chủ yếu là nhiệtđới( nhiệt đới người Hi Lạp, La Mã sớm có thói quen sinh
sa mạc và nhiệt đới gió mùa)
hoạt và văn hóa ngoài trời, tạo tiền đề cho hội -
Hi Lạp và La Mã cổ đại là 2 quốc gia ở khuvực họa, kịch thơ ra đời và phát tiển. - Lãnh thổ hi
Địa Trung Hải, nơi giao nhau của các châu Á, Âu, Phi, lạp và la mã thời cổ đại lớn hơn
biên giới có 3 mặt giáp với biển tạo nên địa hình mở - Cư dân 1. Ai Cập
thống đảo trên biển Aegean đã tạo ra chiếc cầu
Khối cư dân bản địa đầu tiên là người nối với các nền văn minh PĐ cổ đại
Negroid (thổ dân châu Phi), đến khoảng -
Địa hình La Mã có nhiều có nhiều
4000 năm TCN một nhánh người Hamit ở đồngbằng, đồng cỏ, ít bị chia cắt – sự thống
phía Đông Địa Trung Hải đến định cư ở nhất chính trị được xác lập ngay từ đầu.
vùng đồng bằng sông Nil, dần dần đồng 1.Hi Lạp
hóa với cư dân bản địa, đều coi mình là con Từ TNK III TCN ở hi lạp lục địa đã có cư dân
cháu của thần sông Nil và đc gọi là người bản địa sinh sống, cuối TNK III TCN, một số
Egypt- chủ nhân của nền văn minh ngày tộc người ở hạ lưu sông Danub đã di cư đến
nay bao gồm phần lục địa và các hòn đảo Hi Lạp, đến cuối TNK II TCN, cả hai khối dân
lớn nhỏ nằm rải rác trên Địa Trung Hải.
cư này gọi chung là người Hellad, chủ nhân -
Ở hi lạp, miền bắc và miền trung bị chia cắtbởi của văn minh Hi Lạp.
đồi, rừng – tiền đê hình thành các quốc gia thành bang, 2.La Mã
đặc biệt phần lãnh thổ phía Tây tiểu á cùng với hệ Trước TNK II TCN, khối dân cư bản địa là Ai Cập cổ đại.
người Ligures, sau đó người Etrusque, người 2. Ấn Độ
hi lạp, người Celte, ... cùng một số tộc người
Chủ nhân của nền văn hóa Harapa(văn từ phía Bắc cũng đến định cư trên bán đảo Ý. minh
sông Ấn ) là người Dravida, được Tất cả họ đều góp phần tạo ra văn minh này, xem là khối
cư dân bản địa. đặc biệt là người La Mã. Chủ nhân của nền văn minh sông Hằng là người
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Aryan, có nguồn gốc từ vùng thảo nguyên Trung Á, thiên di xuống Ấn Độ khoảng TNK III
TCN, ngoài ra Ấn Dộ còn có nhiều tộ người khác đến định cư và sinh sống như người Mông
Cổ, Hi Lạp, Hung Nô, Ả rập, ... 3.Trung Hoa
Khối cư dân đầu tiên cư trú ở vùng đồng
bằng Hoa Bắc(lưu vực sông Hoàng Hà)là
người Hoa hạ, cuối TNK II TCN, họ chinh
phục người Địch và Nhung ở phía Bắc và
phía Tây, đến thời nhà Tần các khối dân cư
này gọi chung là người Hán- chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa.
Nền kinh tế của hầu hết các quốc gia Nền KT Hi Lạp và La Mã cổ đại mang tính phương
Đông cổ đại là nền kinh tế tự chất của một nền KT hàng hóa tiền tệ (cổ
Kinh Tế nhiên, mang tính tự cung tự cấp. điển), phát triển theo hướng thủ công nghiệp và thương
nghiệp với lực lượng lđ chủ yếu là nô lệ.
Là nghành kinh tế chủ đạo, trồng trọt và Trồng trọt và chăn nuôi đã tách thành 2 chăn nuôi
chưa tách rời ( trồng trọt là nghành riêng biệt.
chính, chăn nuôi là phụ) - Trồng trọt: quy mô canh tác khá lớn với sản - Trồng trọt: đất canh
tác chủ yếu là đất phẩm chủ yếu là nho và ô liu.
phù sa, quy mô canh tác manh mún, nhỏ - Chăn nuôi: được tiến hành theo mô hình lẻ,
thường chỉ tiến hành vụ/năm, sản phẩm “bầy đàn không chuồng trại” sản phẩm chăn chủ
yếu là lúa (đại mạch, tiểu mạch, lúa nuôi khá phong phú và đa dạng Nông
nước), sản lượng không cao, ít sản phẩm
=>Các sản phẩm của nông nghiệp đều được Nghiệp thừa. coi là hàng hóa.
- Chăn nuôi mang tính chất cá thể, riêng lẻ,
theo mô hình “bầy đàn có chuồng trại”, quy
mô chăn nuôi nhỏ nên cung không đủ cầu,
chủ yếu sử dụng làm sức kéo và phục vụ
cho các dip lễ, tết, cưới hỏi, ..
=>Do vậy, các sản phẩm nông nghiệp không trở thành hàng hóa.
Thủ công Phát triển mang tính chất cục bộ, quy mô Đã tách ra khỏi nông nghiệp, phát triển khá nghiệp
các xưởng thủ công nhỏ, chủ yếu phục vụ đa dạng về nghành nghề với những xưởng sử cho nhu cầu
trong công xã, sự trao đổi dụng hàng ngàn lao động nô lệ. Trong sx một hàng hóa diễn ra rất ít, tuy
nhiên các số nghành đã diễn ra quá trình chuyên môn nghành nghề tương đối phong phú và chất hóa
nên năng xuất khá cao, sản phẩm phong
lượng khá tinh xảo, lượng hàng hoa làm ra phú. cũng chưa nhiều.
=>Mọi sản phẩm của thủ công nghiệp cũng
=>Do vậy, các sản phẩm thủ công nghiệp được coi là hàng hóa.
cũng không trở thành hàng hóa.
Nền kinh tế tự nhiên và mạng lưới giao Phát triển mạnh đặc biệt là mậu dịch hàng thông
chưa phát triển nên thương nghiệp hải và sớm mang tính quốc tế, trong đó việc chưa thực
sự hình thành, mang tính cục buôn bán nô lệ rất phát đạt. Buôn bán phát bộ, ít giao lưu và
ít trao đổi với bên ngoài. triển làm cho tiền tệ sớm xuất hiện và có thể Đồng tiền với tư cách
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
là vật trung gian để sử dụng ở nhiều nước khác. Từ đó xuất hiện định giá trị hàng hóa hầu
như chưa xuất việc đổi tiền, cho vay lãi và hình thành các hiện nên phương thức trao đổi chủ yếu là ngân hàng.
Thương hàng đổi hàng. =>Nhìn chung kinh tế Hi – La cổ đại khá nghiệp =>Có thể nói, KT các quốc
gia cổ đại PĐ phát triển, lao động nô lệ làm cho quý tộc chưa phải là nền kinh tế hàng hóa, lực thaots
li khỏi lao động chân tay có ĐK HĐ lượng sx chủ yếu là nông dân tự do (trong và sáng tạo ra các thành
tựu văn minh rực rỡ đó nông dân công xã chiếm vai trò chủ của hai nền văn minh này.
đạo), quá trình phân công lao động và
chuyên môn hóa chưa diễn ra.=> Vì vậy,
các thành tựu văn minh thường không phát
trển đến đỉnh cao và sớm bị lụi tàn. Nhà nước và kết cấu xã hội
Các nhà nước PĐ cổ đại đều mang tính KT phát triển dẫn đến sự phân hóa giai cấp chất
chuyên chế, tính chất này đã tồn tại và xuất hiện nhà nước.Về đại thể nhà nước hi dai dẳng,
chi phối nhiều mặt đến tiến trình lạp, la mã hình thành trong khoảng đầu TNK phát triển
của các nền văn minh PĐ. I TCN, trên cơ sở tan rã của công xã thị tộc và hầu như không
có sự can thiệp của bạo Nhà nước
lực. Ở hi lạp và la mã xuất hiện hiều hình thức
nhà nước khác nhau, từ thành bang đến đế
chế, cộng hòa đến quân chủ, nhưng dù dưới
hình thức nào thì trình độ tổ chức nhà nước ở
Hi – La cổ đại cũng đã khá chặt chẽ.
Nguyên - Những yếu tố thuận lợi tạo ra từ ĐKTN,
nhân của đặc biệt là các con sông đã quần tụ trong sự
chuyên các công xã nông thôn các khối dân cư chế sống
phụ thuộc vào nó. Tính cộng đồng hình thành làm cho
yếu tố cá nhân không được đề cao và luôn bị cộng đồng
chi phối, những điều đó làm cho họ dễ bị lệ thuộc vào cộng đồng. -
Công việc trị thủy đã liên kết họ lại
vớinhau, tất yếu xuất hiện vai trò của một
thủ lĩnh tối cao được trao quyền lực – tiền
thân của ông vua chuyên chế. Vai trò của
tôn giáo, chỗ dựa của nền chuyên chế PĐ
trong việc thần thánh hóa vua, vì vậy, vua
cũng chính là thủ lĩnh tối cao của tôn giáo. -
Thái độ khiếp sợ và thần phục tự
nhiên,dẫn đến thần thánh hóa tự nhiên. Khi
một cá nhân lợi dụng được yếu tố này sẽ
được hợp pháp hóa quyền lực và trở thành kẻ cai trị hợp pháp.
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603 -
Các nhà nước PĐ buổi đầu ra dời
trên cơsở kẻ mạnh chinh phục kẻ yếu, kẻ
chiến thắng sẽ trở thành người cai trị, áp
đặt ý chí của mình để cai trị. -
Buổi đầu, do công cụ lao động và
vũ khícòn thô sơ, do vậy cư dân PĐ ít có
khả năng chống lại các thế lực tự nhiên và
kẻ mạnh. *Tính chất: -
Vua nắm giữ quyền lực tối cao, nắm
cảvương quyền và thần quyền, vua luôn
được thần thánh hóa, tính chất thế tục, vua
sở hữu toàn bộ đất đai, bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu. *Tổ chức: -
mô hình chung của các nhà nước cổ đại
PĐ: Vua chuyên chế - > Hệ thống quan lại
Tính chất trung ương - > Hệ thống quan lại địa và tổ
chức phương (quản lí, phân chia ruộng đất, thu thuế,
hành chính, ...), công cụ bảo vệ nhà nước và duy trì trật
tự xã hội là hệ thống nhà tù, quân đội. -
Các nhà nước PĐ cổ đại thường có 3 chức năng chủ yếu:
+Thu thuế và cai trị dân chúng
+Trị thủy và xây dựng các công trình công cộng +Mở rộng lãnh thổ
Kết cấu XH PĐ cổ đại nói chung tồn tại 2 giai cấp XH Hi – La cổ đại chia ra làm 2 phần: dân tự xã
hội chủ yếu: giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc do và nô lệ lột.
+Dân tự do: quan lại, chủ nô(giai cấp bóc
+G/C bóc lột: Vua, quan lại, tăng lữ, quy lột), công dân (các tầng lớp này đc nhà nước tộc
và pháp luật bảo vệ), bình dân (Demot, Pleb
+G/c bị bóc lột: nông dân công xã (chiếm chưa là công dân nhưng cũng không phải nô số
lượng áp đảo là lực lượng lao động lệ), bình dân đã nhiều lần đấu tranh để doid chính làm
ra của cải vật chất của xã hội), quyền bình đẳng với công dân và giành đc thợ thủ công,
thương nhân và nô lệ (chủ những thắng lợi nhất định. yếu phục dịch trong các gđ chủ nô,
việc +Nô lệ chiếm số lượng đông đảo nhưng lại tham gia vào sx không nhiều) không được
thừa nhận về thân phận, đc xem Chế độ chiếm hữu nô lệ ở PĐ là là tài sản của chủ nô, là
“công cụ biết đi, biết
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
chế độ chiếm hữu nô lệ không điển hình nói”
hay còn gọi là chế độ nô lệ gia trưởng =>Mâu thuẫn cơ bản tong XH diễn ra giữa chủ nô và nô lệ.
=>Từ những đặc điểm về KT, CT, XH của hi
lạp và la mã, Mác gọi đó là “chế độ chiếm
hữu nô lệ điển hình” *Ai Cập: *Hi Lạp:
- Thời kì tảo vương quốc (khoảng 3200-
- Thời kì văn hóa Cret- Mixen (khoảng giữa 3000 TCN) TNK II- TK XII TCN)
- Thời kì cổ vương quốc (khoảng 3000-
- Thời kì Home ( TK XII- IX TCN ) 2200 TCN)
- Thời kì hình thành các quốc gia thành bang
- Thời kì trung vương quốc( khoảng 2200- (TK VIII- IV TCN) 1570 TCN)
- Thời kì Maxedonia và hi lạp hóa (khoảng
- Thời kì tân vương quốc (khoang 1570- cuối TK III - 30 TCN) 1100 TCN) *La Mã: Các giai
- Thời kì từ TK X- năm 30 TCN)
- Thời kì vương chính (753 TCN- 510TCN)
đoạn lịch *Ấn Độ: - Thời kì cộng hòa (510- 30 TCN) sử - THời kì văn minh sông Ấn (đầu
TNK III - Thời kì đế chế (29 TCN- 476) – giữa TNK II TCN)
- Thời kì Veda ( giữa TNK II TCN –giữa TNK I TCN)
- Thời kì từ TK VI TCN – XII - Thời kì từ XIII- XIX *Trung Hoa:
- Thời kì cổ đại(khoảng TK XXI TCN 221 TCN)
Thời kì trung đại (221TCN- 1840)
Câu 11: Phong trào văn hóa phục hưng ở Tây Âu thời hậu kì trung đại: thành tựu, nội dung tư tưởngh?
- Từ TK XIV, ở Ý bắt đầu xuất hiện phong trào văn hóa mới, rồi đến nửa sau TK XV,
ptrao ấy lansang các nước tây âu khác như: pháp, anh, TBN, đức, Nedectan và đc gọi là ptrao Phục Hưng. *ĐK lịch sử:
- Đk chủ yếu dẫn đến sự ra đời của phong trào văn hóa phục hưng là do sự xuất hiện
của quan hệtư bản chủ nghĩa.
- Trong khi đó, những thành tựu về VH từ TK XI- XIII còn xa mới đáp ứng đc nhu cầu
của g/c tưsản mới ra đời, đồng thời lúc bấy giờ, tư tưởng tình cảm của con người vẫn bị ràng
buộc bởi hệ tư tưởng khắt khe của giáo hội Thiên chúa. Do vậy g/c tư sản cần phải có hệ tư
tưởng và nền VH riêng để phục vụ cho đời sống tinh thần và để đấu tranh với hệ tư tưởng
lỗi thời của giáo hội và giai cấp quý tộc phong kiến đang cản trở sự phát triển của XH.
* Ý trở thành quê hương đầu tiên của VH phục hưng là vì:
1.Tuy bị phân tán về chính trị nhưng do những điều kiện thuận lợi về địa lí, quan hệ TBCN ra đời ở đây sớm nhất. Từ TK XIV, miền bắc ý đã có Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
nhiều thành phố phồn thịnh và lập thành những nước cộng hòa thành thị như Phirenxe, Venexia, Gienova,
...trong đó Phirenxe chủ yếu phát triển công nghiệp, còn Venexia, Gienova chủ yếu phát triển về thương nghiệp.
2.Ý vốn là quê hương văn minh La Mã cổ đại, do đó cho đến thời bấy giờ, ở đây còn giữ lại được
nhiều di sản VH về các mặt kiến trúc, điêu khắc và văn học, ...Vì vậy mà hơn ai hết các nàh avwn, nghệ
sĩ Ý đã kế thừa được truyền thống văn hóa rực rỡ của dất nước mình. Đến TK XIV XV kinh tế XH đã có
những biến đổi quan trọng, họ đã có điều kiện để làm sống lại và phát triển các thành tựu VH ấy.
3.Do KT phát triển, trong các nước cộng hòa, thành thị ở Ý đã xuất hiện một tầng lớp giàu có, và để
phô trương sự giàu sang của mình, họ đã xây dựng nhiều lâu đài tráng lệ đc trang sức bằng những tác
phẩm nghệ thuật có giá trị. Tình hình đó đã có tác dụng khuyến khích rất lớn đối với sự sáng tạo nghệ
thuật của các nghệ sĩ mà trước hết là đối vs các họa sĩ và nhà điêu khắc.
=>Đến TK XV, nhất là TK XVI chủ nghĩa tư bản cũng ra đời ở Anh, và tiếp đó là ở các nước Tây
Âu như Pháp, TBN, Nedectan, Đức, ...Vì vậy phong trào VH phục hưng có ĐK phát triển sang các nước Tây Âu khác.
*Những thành tựu chính:
Là một bước nhảy vọt về VH, phong trào văn hóa phục hưng đã đạt đc những thành tựu rực rỡ về
mọi mặt, đặc biệt là văn học nghệ thuật. 1.Văn học
Nền văn học thời phục hưng có cả 3 thể loại: thơ, tiểu thuyết, kịch đều có những tác phẩm có giá trị
gắn với tên tuổi của những tác giả nổi tiếng. *Thơ:
- Nhà thơ nổi tiếng nhất đồng thời là người mở đầu cho phong trào văn hóa phục hưng là Đantê(1265-
1321), thi nhân cuối cùng của thời trung cổ.[ xuất thân gia đình giáo trình trang 288] *Tiểu thuyết:
- Về lĩnh vực này trc hết phải kể đến Bôcaxiô (1313- 1375) nhà văn Ý đc đặt ngang hàng với 2
nhàthơ Đantê và Pêtơraca và đc gọi chung là “Ba tác giả lỗi lạc”. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện
ngắn “Mười ngày” (Decameron)
- Sau khi phong trào văn hóa phục hưng lan rộng sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và TBN
xuấthiện 2 nhà văn nổi tiếng đó là Rabơle và Xécvăngtét. *Kịch:
- Tác giả tiêu biểu của nghệ thuật kịch thời phục hưng đồng thời là người tiêu biểu cho nền văn
hóaAnh thời kì này là Sếchxpia (Wiliam Shakepeare, 1564- 1616). Trc Sếchxpia, việc diễn kịch trong dân
gian ở nước Anh đã rất thịnh hành, từ năm 1580 về sau, nghệ thuật kịch nói của Anh càng phát triển, lúc
bấy giờ thì ở Luân Đôn chỉ có 20 vạn người à có đến 8 rạp kịch. *Nghệ thuật:
- Phirenxê là nơi xuất phát đầu tiên của nền nghệ thuật thời kì phục hưng, trong 2 TK XIV XV
nềnnghệ thuật ở đây gắn với tên tuổi của các họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng như Giốttô (1226- 1337),
Maxasiô (1401- 1428), Đôtatenlô (1386- 1466), ...
- Đặc điểm chung của nghệ thuật hội họa thời kì này là tuy đề tài vẫn khai thác trong kinh thánhhoặc
thần thoại, nhưng nội dung thì hoàn toàn hiện thực.
- Sang đầu TK XVI, nền nghệ thuật thời kì phục hưng đạt tới đỉnh cao.Những thành tựu tuyệt vờivề
hội họa và điêu khắc gắn liền với ten tuổi của nhiều nhà danh họa mà trong đó nổi tiếng nhất là Lêônácđô
đơ Vanhxi, Mikenlăngiơ và Raphaen.
*Khoa học tự nhiên và triết học;
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Thời phục hưng các ngành khoa học tự nhiên và triết học cũng có những thành tựu lớn lao, trong đó
đặc biệt quan trọng về thiên văn học.
- Nhà bác học mở đầu cho bước nhảy vọt về khoa học tự nhiên thời Phục Hưng là Nicôlacôpécních (1473- 1543).
- Trong đó nhiều nhà triết học, thiên văn học nổi tiếng như: Galilê (1564- 1642), Kêplơ (1571- 1630)
- Ngoài ra các lĩnh vực khác như vật lí học, toán học, y học, ... có nhiều thành tựu quan trọng gắnvới
tên tuổi của nhiều nhà bác học nổi tiếng, những phát minh tương đối tiêu biểu trong số đó là hình học giải
tích của nhà toán học người Pháp Đêcáctơ (1596- 1650), ...
- Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, lĩnh vực triết học cũng có bước tiến
quantrọng, người mở đầu cho trường phái duy vật thời phục hưng là phranxít bâycơn(1561- 1626), nhà triết học người Anh
- Ngoài ra còn có nhiều học giả nhờ giỏi cổ văn đã tập trng sức lực vào công việc khảo cứu màtrong
đó tiêu biểu nhất là Vala (1407- 1457) người Ý, ...
=>Tóm lại, sau gần 1000 năm chìm lắng, đến thời phục hưng nền văn học Tây Âu đã có một bước
tiến lớn lao và để lại nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ và những thành tựu khoa học lỗi lạc. * Nội
dung tư tưởng và ý nghĩa: 1. Nội dung
- Phong trào văn hóa phục hưng tuy có tiếp thu và kế thừa một số yếu tố trong nền văn háo Hi Lạpvà
La Mã cổ đại nhưng thực chất đây không phải là một phong trào làm sống lại những văn hóa cổ xưa mà
là một phong trào văn hóa hoàn toàn mới dựa trên dựa trên nền tảng kinh tế xã hội mới và đc chỉ đạo bởi
một hệ tư tưởng mới. Nói một cách khác, phong trào văn hóa phục hưng là một cuộc cách mạng văn hóa,
tư tưởng của giai cấp tư sản mới ra đời nhằm chống lại những quan điểm lỗi thời ràng buộc tư tưởng, tình
cảm của con người và kìm hãm sự phát triển xã hội của phong kiến và giáo hội Thiên chúa.
- Tư tưởng chủ đạo của văn hóa phục hưng là chủ nghĩa nhân văn (humanisme), đó là hệ tư tưởngchú
trọng đến con người, chú ý đến cuộc sống hiện tại, chủ trương cho con người đc quyền hưởng mọi lạc thú
ở đời, do đó nó hoàn toàn đối lập vs quan niệm của giáo hội Thiên Chúa chỉ sùng bái Chúa, chỉ chú ý đến
cuộc sống của linh hồn sau khi chết ở thiên đàng và đề xướng chủ nghĩa cấm dục.
- Dưới sự chỉ đạo của hệ tư tưởng mới, tính chất cách mạng của phong trào văn hóa phục hưng đcthể
hiện ở các mặt sau đây:
+ Lên án, đả kích, châm biếm sự tàn bạo dốt nát, giả nhân giả nghĩa của các giáo sĩ từ giáo hoàng
cho đến các tu sĩ và của giai cấp quý tộc phong kiến.
+Chống lại quan niệm của giáo hội về con người và cuộc sống trần gian.
+Chống những quan điểm phản khoa học và chủ nghãi duy tâm
+Đề cao tinh thần dân tộc, tình yêu đối với tổ quốc và tiếng nói của nước. 2. Ý nghĩa
- Là một phong trào cách mạng về văn hóa và tư tưởng, phong trào văn hóa phục hưng có
những ýnghĩa quan trọng:
+Bằng tinh thần đấu tranh dũng cảm bất chấp lò thiêu và ngục tối cua tòa án tôn giáo, các chiến sĩ
trên mặt trận văn hóa phục hưng đã đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời của phong kiến và giáo hội thiên chúa,
do đó đã giải phóng tư tưởng tình cảm của con người khỏi sự kìm hãm và trói buộc của giáo dục. Từ đó
chủ nghĩa nhân văn với các nội dung nhân quyền, nhân tính, cá tính ngày càng giữ vai trò chi phối
không những về văn học nghệ thuật mà cả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+Sau một nghìn năm chìm đắm, phong trào văn hóa phục hưng là bước tiến diệu kì trong lịch sử văn minh ở Tây Âu. Các văn nghệ sĩ, các nhà Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
khoa học, triêt học đã đóng góp trí tuệ, tài năng tuyệt vời của mình vào phong trào văn hóa đó bằng những
tác phẩm và công trình bất hủ, do đó đã làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của nhân loại. Hơn nữa
những công trình văn hóa đó về nhiều mặt là chuẩn mực, là sự mở đầu cho đời sau noi theo, chẳng hạn
như việc khai thác đề tài trong cuộc sống hiện thực, chú ý đến vẻ đẹp của con người nhất là phụ nữ trên
lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Hoặc như việc phát minh ra cách vẽ tranh sơn dầu, luật viễn cận, luật sáng
tối trên các lĩnh vực hội họa, hoặc như các quan điểm mới về thiên văn học, những phát minh về y học,
...Như vậy phong trào văn hóa phục hưng đã đặt cơ sở và mở đường cho sự phát triển của văn hóa Tây
Âu trong những thế kỉ mới.
Câu 12: Phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu thời hậu kì trung đại:
- Nội dung tư tưởng của Lu – thơ, Can – vanh. - Kết quả. *Nguyên nhân:
- giáo hội bóc lột nhân dân
- Hệ tư tưởng của giáo hội phong kiến cản trở sự phát triển của văn hóa, khoa học.
- Sự tồn tại của giáo hội cản trở sự phát triển của CNTB
- Phong trào cải cách tôn giáo khởi đầu ở Đức và lan sang các nước Tây Âu.
- Đại diện tiêu biểu: Lu – thơ, Can – vanh. *Nội dung;
- Kịch liệt phê phán những hành vi tham lam và đồi bài của giáo hoàng, phủ nhận sự thống trị củagiáo hội.
- Chỉ trích mạnh mẽ những giáo lí giả dối cua giáo hội.
- Đì bãi bỏ những hủ tục, lễ nghi phiền toái, đòi quay về với giáo lí Kito nguyên thủy.
*Kết quả, ý nghĩa:
- Đạo Kito bị phân thành 2 giáo phái: Cựu giáo là Kito cũ và Tân giáo, mâu thuẫn và xung đột vớinhau.
- Làm bùng lên cuộc chiến tranh nông dân Đức. *Nội dung chính:
a) Phong trào cải cách tôn giáo ở Đức.
- Người đề xướng cải cách tôn giáo ở Đức là Máctin Luthơ (Martin Luther), giáo sư thần học ởtrường
đại học Vitenbe (Wittenberg)
- Năm 1517, với lí do cần tiền để chữa nhà thờ Xanh Pie ở La Mã, giáo hoàng Lê ô X (1513- 1521)
đã cử các giáo sĩ đi bán giấy miễn tội ở khắp mọi nơi ở Đức.
- Nhân khi quân chúng nhân dân đang căm ghét việc bán giấy miễn tội, ngày 31/10/1517, Luthơdán
bản “Luận cương 95 điều” ở trc cửa nhà thờ cua đại học Vitenbe. Bản luận cương này cùng những tác
phẩm sau đó đã thể hiện quan điểm cải cách tôn giáo của Lu thơ với những nội dung chủ yếu sau đây:
+Chỉ có lòng tin vào chúa mới cứu vớt đc linh hồn, do đó chỉ cần thành tâm sám hối thì sẽ đc xóa
bỏ mọi tội lỗi, còn việc bán giấy miễn tội chỉ là một trò lừa bịp. Vả lại việc đó làm cho con người càng
tồi tệ vì họ đã đc bảo đảm không bị trừng phạt.
+Căn cứ của lòng tin vào Chúa là kinh Phúc Âm, còn các sắc lệnh của giáo hoàng, các quyết nghị
cua các Hội nghị tôn giáo đều không phải là cơ sở thật sự của lòng tin.
+Chủ trương thành lập “giáo hội rẻ tiền” tức là giáo hội đơn giản, không chiếm hữu nhiều ruộng đất,
không có hệ thống cấp bậc phức tạp, không có các lễ nghi xa hoa phiền phức, không thờ các thánh, không
thờ ảnh tượng, không quỳ lạy và làm dấu, ....
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
- Về mặt chính trị, Luthơ chủ trương dựa vào hoàng đế Đức và các vương hầu, khuyên các tín đồphải
phục tùng chính quyền của giai cấp phong kiến.
- Sau khi Lu thơ phát động cải cách tôn giáo, ở Đức đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa nôngdân
với phong kiến thế tục và giáo hội, giữa tân giáo với cựu giáo, mãi đến năm 1555, địa vị hợp pháp của tân
giáo LuThơ mới đc công nhận
- Tân giáo Luthơ đc truyền bá ở Bắc Đức, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển. Ở các nước châu Âukhác
như Ba Lan, Hunggari, Anh, Pháp, tân giáo LuThơ cũng có khá nhiều tín đồ.
b) Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ.
- Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ đầu tiên do Unrích Dvingli (1484- 1531), một giáo sĩ ở Châu
Duríchlãnh đạo từ năm 1518. Tư tưởng tôn giáo của Dvingli cũng tương tự như Luthơ nhưng về mặt chính
trị, ông tán thành chế độ cộng hòa.
- Năm 1529, giữa châu Durích và các châu rừng núi (các châu chống cải cách tôn giáo) diễn ra
mộtcuộc chiến tranh. Năm 1531 Durích bị thất bại, bản thân Dvingli bị tử trận, màn thứ nhất của cuộc cải
cách tôn giáo tạm thời kết thúc.
- Sau Durích thất bại, Giơnevơ trở thành trung tâm mới của cuộc cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ.Người
lãnh đạo lần này là Giăng Canvanh (Jean Calvin 1519- 1564), một người Pháp dến giơ ne vơ năm 1536
và đến năm 1541 thì trở thành người đứng đầu về tôn giáo và chính trị ở Giơnevơ.
- Hạt nhân của học thuyết Canvanh là thuyết định mệnh. Can vanh cho rằng số phận của mỗi
ngườihoàn toàn do chúa trời quyết định. Canvanh đã phủ nhận các hình thức miễn tội của giáo hội Thiên
chúa, phủ nhận vai trò của tầng lớp giáo sĩ và tác dụng của các nghi lễ bái phiền phức của đạo Thiên chúa.
- giáo hội Canvanh đc tổ chức theo nguyên tắc dân chủ. Đơn vị của giáo hội là các công xã tôngiáo.
Những người phụ trách mọi công việ trong công xã là mục sư và trưởng lão. Giáo hội trung ương do hội
nghị đại biểu tôn giáo cả nước đc triệu tập định kì bầu ra gồm 5 mục sư và 12 trưởng lão.
=>Dưới sự lãnh đạo của Canvanh, cuộc cải cách tôn giáo ở giơ ne vơ đã thành công, giơ ne vơ trở
thành trung tâm của cải cách tôn giáo ở Tây Âu. Tại đây đã thành lập một học viện Tân giáo để đào tạo
các nhà truyền đạo, rồi từ đo họ đc phái đến tất cả các nước Châu âu để hoạt động.
=>Vì vậy, lúc bấy giờ giơ ne vơ đc gọi là “La Mã của Tân giáo”. Kết quả, từ Thụy Sĩ, tân giáo
Canvanh đã nhanh chóng truyền bá ở nhiều nước, nhất là những nơi có nền công thương nghiệp phát triển
như Pháp, Anh, đặc biệt là Nêđeclan (tức là Hà Lan. Bỉ sau này).
Câu 13: Nền văn minh công nghiệp: -
Phát kiến địa lí
- Cách mạng công nghiệp: các phát minh kĩ thuật, các quy tắc cơ bản của nên sx côngnghiệp, tác động.
- Những thành tựu KHKT tiêu biểu của thế giớ từ TK XIX- đàu TK XX.
- Triết học ánh sáng (trào lưu triết học khai sáng): nội dung, tác động.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng: nội dung cơ bản?? - Trả lời:
I. Điều kiện ra đời của nền văn minh công nghiệp
1.1. Phong trào phát kiến địa lí thế kỉ XV- XVI: 1.1.1. Nguyên nhân:
Thế kỉ XV, kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư
sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Tại Tây Âu, tầng lớp giàu có cũng tăng lên do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn
gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên.
Trong khi đó, con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế
quốc Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi chiếm giữ, đi qua chỉ có mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển.
Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được
những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước
phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
1.1.2. Những cuộc phát kiến địa lí lớn thế kỉ XV- XVI:
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lí. Năm 1415 một
trường hàng hải do hoàng tử Henri của Bồ Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào
Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây Châu Phi.
Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do B. Dias chỉ huy đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt
tên mũi đất này là mũi Hy Vọng .
Năm 1497, Vascô đơ Gama (Vasco de Gama) đã cầm đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ.
Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do
C. Côlông (C. Colombus) chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã
tới được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là
Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Côlông không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn
toàn mới đối với người Châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới
đó sau này mang tên America. Thật đáng tiếc cho C. Côlông.
Năm 1519 - 1522, F. Magienlan đã cầm đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng
quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của
Nam Mĩ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam Châu Mĩ và sang được một đại dương mênh mông
ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magienlan hầu như
không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. F.Magienlan
đã bỏ mạng ở Philippin do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống
sót trở về được tới quê hương. 247 người bỏ mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới
vì những nguyên nhân khác nhau. Nhưng thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con
người đã đi vòng quanh thế giới.
1.1.3. Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lí:
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả
thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lí, thiên
văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới diễn ra do các cá
nhân có nguôn gốc văn hoá khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI- XVIII với những dòng người Châu
Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang Châu Mĩ .
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.
Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa,
buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
1.2. Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản ( thế kỉ XVI- XVIII):
Sự phát triển của thị trường trên qui mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc
gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất
yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng,
chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ XVI- XVIII đã diễn ra nhiều
cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mĩ.
Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư
sản Hà Lan ( 1566- 1572), Cách mạng tư sản Anh (1640- 1689), Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ
(1775- 1783), Cách mạng tư sản Pháp(1789- 1799)...
Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế
kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh
tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản,
công thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới.
II. Cuộc cách mạng công nghiệp
2.1. Những điều kiện dẫn tới cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh:
2.1.1. Về tự nhiên:
Anh có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về mặt kinh tế khi
khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp.
Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mĩ, đó là những
nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt.
Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng
sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hoá đi khắp thế giới.
2.1.2. Về mặt xã hội:
Giai cấp quí tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quí tộc mới, có
quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản.
Nhu cầu về lông cừu đã dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà
quí tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã cung
cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị.
2.2. Những thàng tựu của Cách mạng công nghiệp:
Năm 1733 John Kay đã phát minh ra “thoi bay”. Phát minh này đã làm người thợ dệt không phải lao
thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi.
Năm 1765 Giêm Hagrivơ ( James Hagreaves ) đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được 8 cọc sợi một
lúc. Ông lấy tên con mình là Gienny để đặt cho máy đó.
Năm 1769, Akrai ( Richard Arkrwight ) đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc
vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục Étmôn Cacrai (Edmund
Cartwright). Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.
Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều
phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất nhiều mặt. Năm 1784, Giêm Oát (James
Watt) phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà
máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hoá.
Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”. Mặc dù phương pháp của Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của
máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép.
Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó.
Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên
chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã
làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mĩ.
Năm 1807, Phơntơn (Robert Fulton) đã chế ra tàu thuỷ chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái
chèo hay những cánh buồm.
*Những nguyên tắc cơ bản của nền sx công nghiệp:
- Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi hẳn về mặt tổ chức và quản lí lao động, đề ra những
quy tắc mới khác với thời kì sx nông nghiệp khi trước.
1.Tiêu chuẩn hóa đc coi là quy tắc thứ nhất đối với tất cả các khâu của nền sản xuất công nghiệp, từ
trình độ và năng lực của người thợ đến thiết bị máy móc của quy trình sản xuất cho tới những sản phẩm
của nó.Sự không đáp ứng đúng tiêu chuẩn sẽ dẫn đến hậu quả là người thọ bị loại trừ, máy móc bị ngưng
trệ, sản phẩm bị phế thải, nhà doanh nghiệp thất bại.
2.Chuyên môn hóa là quy tắc thứ 2, là đòi hỏi bắt buộc của nền sx công nghiệp. Chính yếu tố sẽ dẫn
đến sự phân công lao động rõ ràng trong các xưởng và giữa những người thợ. Đồng thời gây ra sự phân
hóa trong hàng ngũ công nhân, những người lao động có trình độ kĩ thuật cao thích ứng với nền công nghệ
hiện đại và những người lao động giản đơn, kĩ thuật thấp dễ rơi vào nguy cơ bị loại khỏi nhà máy.
3.Đồng bộ hóa là nguyên tắc thứ 3 của nền sx công nghiệp mà mỗi người tham gia đều phải thi hành
đúng chức năng và nhiệm vụ của mình, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ giữa các cá nhân, các phân xưởng
để làm ra sản phẩm đúng quy cách.
4.Tạp trung hóa là quy tắc thứ 4 của nền sx công nghiệp, dần dần hình thành các công ti lớn và trung
tâm công nghiệp có quy mô lớn.
=>Những quy tắc trên cũng có thể đc coi là đặc điểm của nền sx công nghiệp, đánh dấu sự khác biệt
rất cơ bản so vs nền sx nông nghiệp. Người công nhân phải khắc phục những thói quen của phương cách
lao động nông nghiệp để tạo nên những tác phong mới thích hợp với sự phát triển của công nghiệp. Sự
biến đổi trong sản xuất sẽ tác động mạnh mẽ vào toàn bộ nền KT –XH do đó tạo nên sự biến đổi sâu sắc
trong các mặt của đời sống.
2.3. Những hệ quả của cách mạng công nghiệp:
Nhiều khu công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô
thị hoá thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần hình thành.
Giai cấp vô sản cũng ngày càng phát triển về số lượng. Với điều kiện sống cực khổ lúc đó, mỗi ngày
lại phải làm việc từ 12 đến 15 giờ nên những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã sớm nổ ra.
Năm 1811 - 1812, ở Anh đã nổ ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện đấu tranh bộc phát.
Bãi công là một vũ khí đấu tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi công cũng đã nổ ra.
Ở Anh, 1836 - 1848 còn nổ ra phong trào Hiến chương.
Quyết liệt hơn, ở Pháp, Đức còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Năm 1831 - 1834 tại Lion (Pháp) và
Sơlêdin (Đức) đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Những cuộc đấu tranh này chứng tỏ giai cấp vô sản đang
trở thành lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi thay đổi sự thống trị của giai cấp tư sản.
- Ngoài sự xuất hiện của 2 giai cấp tư sản và vô sản có quyền lợi đối kháng nhưng cùng tồn tại trong
một cấu trúc kinh tế TBCN, nền sx công nghiệp ở đây còn gây nhiều biến đổi quan trọng về mặt XH:
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
1.Khả năng lao động và sáng tạo của con người đc phát huy cao độ, đã làm ra một số lượng vật phẩm
vô cùng phong phú về số lượng và chất lượng mà trc đó ngta không thể hình dung nổi.
2.Những quy tắc của sx công nghiệp chi phối tất cả các mặt hoạt động của KT- XH, tất cả đều phải đc tiêu chuẩn hóa.
3.Sự thay đổi về dân số, có thể lấy những số liệu sau để minh chứng cho tốc độ tăng dân số quá
nhanh ở những xứ sở khi mới bước vào thời đại công nghiệp hóa.
+Nước Anh, tỉ lệ tăng dân số năm 1720 là 1%, năm 1750 là 4%, đến năm 1800 là 10%
+Dân số toàn châu Âu năm 1650 là 100 triệu, một thế kỉ sau là 170 triệu và đến năm 1800 đã vượt quá 200 triệu.
4.Trong nền kinh tế nông nghiệp do lực lượng lao động có hạn nên hầu hết các thành viên gđ phải
cùng nhau canh tác trên đồng ruộng. ĐK KQ đó tạo nên những gđ lớn nhiều thế hệ ( ông bà, cha mẹ, cô
chú, râu rể, cháu chắt, ..)sống chung dưới 1 mái nhà, cùng làm việc như 1 đơn vị kinh tế, cùng sinh hoạt
quây quần bên bữa ăn. Từ đó hình thành những xóm làng, dòng họ lớn.
5.Yếu tố thị trường chi phối không chỉ trong lĩnh vực KT mà còn tác động đến toàn XH, bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực ở trên, nó cũng gây ra nhiều mặt tiêu cực khác:
+Hố ngăn cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trở nên sâu sắc
+Nguyên tăc tự do bình đẳng trên thực tế không đc bảo đảm
+Quan hệ xã hội cùng nền tảng đạo lí truyền thống bị vi phạm, cuộc chạy đua vì đồng tiền nhiều khi
vượt quá giới hạn cho phép, làm băng hoại giá trị đạo đức, ...
=>Những thành tựu của quá trình công nghiệp hóa ở châu âu và bắc mĩ từ cuối TK XVIII- giữa TK
XIX đã tạo nên cơ sở vật chất, kĩ thuật mới, tạo nên ưu thế của nền sx TBCN đối vs nền sx phong kiến và
nhờ vậy đã hoàn thành về cơ bản trào lưu cách mạng tư sản ở các nước phương tây.
=>Thắng lợi của giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh chống chế độ hủ nô ở Mĩ (1861- 1865), công
cuộc thống nhất nước Đức và nước Ý (1871) cùng với sự thành công của cuộc vận động duy tân Minh Trị
ở NB (1868) đánh dấu bước ngoặt cơ bản của phong trào tư sản, xác lập sự thắng thế của CNTB trên phạm vi toàn thế giới.
III. Những phát minh KHKT và học thuyết chính trị thời cận đại
3.1. Những phát minh khoa học tạo nên cuộc cách mạng tri thức thế kỉ XVII- XVIII:
Trong hai thế kỉ XVII và XVIII, khoa học đã đạt được những thành tựu lớn đặc biệt trong các ngành
thiên văn, vật lí, hoá học, y học.
Người phát triển và ủng hộ tính đúng đắn của học thuyết Côpécnic là nhà bác học Đức, Giôhan
Kêple (Johann Kepler). Kêple đã đưa ra 3 định luật về sự chuyển động của các thiên thể. Định luật thứ
nhất, ông khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời, không những thế ông còn xác định được quĩ
đạo chuyển động của nó không phải là đường tròn mà là hình elíp. Định luật thứ hai, Kêple chứng minh
vận tốc chuyển động của hành tinh tăng lên khi đang tới gần Mặt Trời và giảm dần khi nó chuyển động
xa Mặt Trời. Định luật thứ ba, ông đã xác lập được công thức toán học giữa thời gian cần để hành tinh
chuyển động hết một vòng quanh Mặt Trời và khoảng cách giữa nó với Mặt Trời.
Galilêô Galilê (Galileo Galilei), một nhà thiên văn học người Ý đã chế tạo ra kính thiên văn để quan
sát bầu trời. Galilê cũng là người ủng hộ nhiệt tình học thuyết của Côpecnic. Ông còn là người trực tiếp
làm thực nghiệm về sự rơi tự do trên tháp nghiêng Piza...Có thể nói Galilê là người tiến hành hàng loạt
thí nghiệm một cách có hệ thống. Vì vậy, sau này người ta coi Galilê là cha đẻ của phương pháp thực nghiệm trong khoa học.
Một nhà vật lí người Anh, William Gilbert trong một quyển sách xuất bản năm 1600 đã giải thích
Trái Đất như một cục nam châm khổng lồ tạo ra một từ trường (nhưng không mạnh), điều đó làm kim la bàn chỉ xoay về hướng Bắc. Ông còn Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
nghiên cứu về hiện tượng tĩnh điện. Ông thấy rằng, không chỉ có hổ phách khi bị chà xát mới hút các vật
nhẹ mà có những thứ khác như thuỷ tinh. .. cũng có tính chất như vậy. Ông gọi đó là hiện tượng hổ phách
- electric. ( electric do từ electron theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là hổ phách).
Niutơn ( I. Newton ) là một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ
XVIII. Đóng góp vĩ đại nhất của Niutơn nằm trong 3 định luật mang tên ông mà nổi bật là định luật Vạn
vật hấp dẫn. Có thể coi Niutơn là hòn đá tảng của nền vật lí cổ điển. Tác phẩm vĩ đại của
Niutơn là Các nguyên lí toán học của triết học tự nhiên
Về hoá học, Joseph Priestley là một luật sư người Anh đã khám phá ra oxy.
Y học cũng có nhiều tiến bộ. Adreas Vesalius, một nhà khoa học người Bỉ đã cho in cuốn sách Về
cấu trúc của cơ thể người. Để viết được cuốn sách này, ông đã phải nghiên cứu rất nhiều tử thi. Ông phê
phán những người chỉ biết vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà y học thời cổ đại.
Hacvây (William Harvey), một nhà sinh lí người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về hệ tuần hoàn của
chim, cá, ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu trong cơ thể người qua quyển sách Tiến hành giải phẫu
đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài vật.
3.2. Những phát minh khoa học, kĩ thuật nổi bật trong thế kỉ XIX:
Cuộc cách mạng tri thức trong thế kỉ XVIII đã tạo điều kiện cho những tiến bộ ở những thế kỉ sau.
Đantơn (John Dalton), một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các nguyên
tử. Nguyên tử của các chất khác nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành từng đơn vị
( bây giờ ta gọi là phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công thức hoá học.
Một phát minh vĩ đại về mặt hoá học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của Dmitri Mendeleev,
một nhà hoá học Nga. Ông đã xắp xếp các chất hoá học thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính chất
riêng của chúng. Ông còn dự đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp vào chỗ trống trong
Bảng tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc.
Năm 1800, Vonta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hoá học. Năm 1831, Michael
Faraday (Anh) đã chứng minh *Chủ nghĩa xã hội k tưởng:
Đầu thế kỉ XIX chủ nghĩa tư bản bộc lộ những mặt hạn chế khiến một số nhà tư tưởng tiến bộ đã đề
ta một học thuyết mới: Chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Hoàn cảnh ra đời của CNXH không tưởng:
- Sự bóc lột tàn nhẫn người lao động của giai cấp tư sản.
- Những người tư sản tiến bộ thông cảm với nỗi khổ của người lao động mong muốn xây
dựng mộtchế độ tốt đẹp hơn, không có tư hữu và bóc lột.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời đại diện là Xanhximông, Phuriê, Ooen.
Nội dung của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Tố cáo, lên án mặt trái của xã hôị tư bản
Muốn xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp
hơn: không có tư hữu, không có bóc lột.
+Xanh xi mông (1760- 1825), Pháp nhận thức đc cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội giữa những
kẻ ăn bám tức là quý tộc với những “nhà công nghiệp”, bao gồm tư sản và công nhân. Ông chủ trương
xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của những “nhà công nghiệp”, sx theo kế hoạch, mọi người đều có
nghĩa vụ lao động và dc quyền hưởng thụ bình đẳng. Ông chủ trương dùng biện pháp thuyết phục để hòa
bình cải tạo xã hội thay cho con đường cách mạng bạo lực.
+Phua riê (1771- 1837) Pháp, phê phán sự bất công của XH tư bản, nêu lên “sự nghèo khổ sinh ra
từ chính bản thân sự thừa thãi”, sự sung sướng của một số ít người này gây ra sự đau khổ cho số đông những người khác.
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
+Ô oean (1771- 1858), đã xây dựng một xưởng thợ thí nghiệm theo kiểu công xã, tài sản đc coi là
của chung, mọi người đều lao động, ngày làm việc 10 giờ, xóa bỏ chế độ cúp phạt, đặt ra chế độ khen
thưởng, lập nhà trẻ cho con em công nhân, ..
=>Những nhà XHCN không tưởng nửa đầu TK XIX đã phê phán mặt trái của XH tư bản và đưa ra
những dự kiến về việc xây dựng một xã hội tương lai không có bóc lột. Những tiến bộ và hạn chế của
chủ nghĩa xã hội không tưởng: 1. Tiến bộ
- Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu đầu thế kỷ XIX đều có sự phê phánchủ
nghĩa tư bản một cách gay gắt, mạnh mẽ, quyết liệt, xuất phát tư lĩnh vực kinh tế. Họ vạch rõ tính chất
tạm thời trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản và chống lại những quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn.
- Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có những phỏng đoán về chủ nghĩa xã
hộitrong tương lai là hoàn toàn tốt đẹp. Họ đã đưa ra dự án về xã hội tương lai tốt đẹp ấy bằng việc hình
dung tạo lập ra mô hình kinh tế - xã hội trong thực tiễn bằng khả năng của họ.
- Để thiết lập được một chế độ xã hội mới trong tương lai tốt đẹp, họ đã phát hiện được cần phảixóa
bỏ dần (Fourie), đi đến xóa bỏ hẳn (Owen) về chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. 2. Hạn chế -
Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa xã hội không tưởng không tìm ra được lối thoát thật sự mà
cònnằm trong vòng bế tắc, vì họ không phát hiện ra được những quy luật kinh tế khách quan vận động
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó họ không vạch ra được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, họ không thấy được vai trò của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. -
Họ chủ trương xây dựng xã hội mới bằng con đường không tưởng như việc tuyên truyền,
chờmong vào lòng từ thiện của những nhà tư bản và sự giúp đỡ của nhà nước tư sản, coi tư tưởng về
chủ nghĩa xã hội là tôn giáo mới. Câu 14:
Bối cảnh lịch sử của văn minh thế giới thời hiện đại:
Lịch sử văn minh thời hiện đại được tính từ thế kỉ XX. Lịch sử thế kỉ XX được đánh dấu bởi 3 sự kiện lớn: -
Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật -
Sự thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga và công cuộc công nghiệp hóa XHCN - 2 cuộc
chiến tranh thế giới và hệ quả của nó. Câu 15:
Những thành tựu của cuộc cách mạng KHCN -
Máy tính điện tử và công nghệ thông tin.
Sự xuất hiện của máy tính điện tử với các thế hệ nối tiếp nhau đã tạo ra các xu thế, các quan hệ hoàn
toàn mới lạ trong mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Khác với máy móc ở thười đại công nghiệp truyền thống
làm việc với nguyên liệu, máy tính điện tử làm việc với các tín hiệu gọi là thông tin, Máy tính điện tử
đóng vai trò cốt lõi của một ngành mới là tin học – ngành xử lí thông tin một cách tự động. Hiện nay máy
tính đặc biệt là máy vi tính đang được sử dụng ở khắp mọi nơi và được liên kết với nhau bởi csach mạng
truyền dữ liệu. Đặc biệt đã hình thành các mạng thông tin máy tính toàn cầu: Internet
Một thành tựu rực rỡ khsac của công nghệ điện tử là sự ra đời của rôbot- nó chứa đưungj cả 2 ưu
điểm của tự dodongj háo là giúp con người về lao động trí óc và lao động về cơ bắp.
- Các nguồn vật liệu mới: Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Một đặc trưng quan trọng của sự phát triển kinh tế được biểu hiện thông qua các vật liệu sự dụng,
coi đó là nền văn minh vật liệu.
Ngày nay vật liệu mới được tạo nên theo 2 tuyến: kim loại và phi kim loại. Theo hướng phi kim loại,
vâtk liệu mới dựa trên các tổ hợp vật liệu phi kim loại mới như gốm, sợi thủy tinh, . ..... với các tính chất
vật lí mới đang đem lại nhiều triển vọng rực rỡ.
Trong thập niên 80 loài người lại được tiếp nhận một công nghệ cao cấp rất hiệu quả là tia laser.
Công nghệ laser ra đời chưa bao lâu nhưng được úng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau như giải
phẫu, cắt và tiện kim loại, tắc địa, quân sự.
Trong CNTT, tia laser phối hợp với vật liệu sợi thủy tinh đã mở ra những chân trời mới của ngành
viễn thông – quang điện tử.
Vật liệu sợi thủyy tinh đưucoj chế tạo thành những cáp quang có tên cáp sợi thủy tinh. hình ảnh, số
liệu, chữ viết đi xa với khối lượng thông tin gấp hàng trăm lần so với việc truyền bằng sóng điện trong dây đồng thường dùng.
Lấy ví dụ ngày nay cho cáp quang.
- Công nghệ sinh học
Năm 1973 đã xuất hiện một bước ngoặt khi thế giới chứng kiến sự ra đời của công nghệ di truyền.
Với nhữunng thành tựu trong nông nghiêp và sinh học chắc chắn sẽ đem lại những cân bằng lương thực
mới cho hành tiinh và nhiều hỗ trợ đắc lực về sứuc khỏe cơ thể con người. Sinh học từ một khoa học “
quan sát” đã trở thành một khoa học “ hành động”.
công nghệ sinh học tập trung vào 4 lĩnh vực: công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim.
Đặc trưng của cuộc cách mạng KHCN từ những năm 70 của tki XX
Đó là cuộc cách mạng chủ yếu về công nghệ với sự ra đời của thế hệ điện tử mới, được sự dụng tring
mọi hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, về vật liệu mới, về nhữung dạng năng lượng mới và công nghệ
sinh học, về phát triển tin học.
Việc áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều
sâu, giảm tiêu hao năng lượng và nguyện liệu, gaimr tác hại đến môi trường nâng cao chất lượng sản phẩm
và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất. Giai đoạn này cách mạng tin học máy tính thay
thế nêu chức năng của lao động trí óc. Cách mạng công nghệ đã trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học
kỹ thuật và thu được nhiều thành tựu kỳ diệu. Công nghệ làm tăng khả năng cơ bắp và trí tuệ của con
người làm cho thiên nhiên trở lên có ích cho cộng đồng cuộc sống trở nên dễ chịu. triển kinh tế tạo lập một xã hội phồn vinh.
Tác động của cuộc cách mạng KHCN :
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã thu được những thành tựu kỳ diệu theo hướng ngày càng hoàn
thiện cơ khí, điện khí, đến điện tử vi mô, sinh học; từ loại hình tiêu tốn nhiều năng lượng đến dạng tự
động hóa xử lý thông tin ; từ nền công nghiệp của những ống khói nhà máy đến nền kinh tế “mềm” nhiều
yếu tố dịch vụ - tượng trưng.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm tăng của cải xã hội và làm cho cuộc sống con người ngày
càng văn minh hơn. Đời sống xã hội có những thay đổi to lớn và hầu như trên mặt từ kinh tế - sản xuất,
chính trị - quyền lực và cơ cấu lao động – xã hội.
Nhưng mặt khác, từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân loại phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu
nóng bỏng như: nguy cơ hạt nhân, ô nhiễm môi trường, sự xuống cấp của sinh thái hành tinh, tình trạng
bạo lực, khủng bố, nạn ma túy, bệnh AIDS, sự bùng nổ dân số và sự nghèo khổ của những khu vực chậm
phát triển, sự phân phối không đồng đều về lương thực thực phẩm và của cải......
Câu 16. Những mặt trái của nền văn minh thế giới thời hiện đại
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Văn minh thế giới hiện đại đạt được những thành tựu kì diệu nhưng vẫn tồn tại những mặt trái: -
Chiến tranh thế giới và những sự phá hoại khủng khiếp (sinh mạng con người, tồn tại vật
chất, tội ác phát xít, nạn đói, . ..). Nguy cơ chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. -
Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên (do sản xuất phát triển quá nhanh và không
đồng bộ với ý thức bảo vệ môi trường) -
Nguy cơ bệnh dịch, nạn đói, những vấn nạn xã hội -
Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng nghiêm trọng -
Sự hủy hoại của di sản và những giá trị văn hóa truyền thống
Câu 17. BẢO TỒN DI SẢN: NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH ĐẶT RA -
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể: là sản phẩm
tinhthần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
+ Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và
không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không
ngưng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề,
trình diễn và các hình thức khác.
+ Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm cả
di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cố vật, bảo vật quốc gia -
Di tích lịch sử- văn hóa
+ Là công trình xây dưng, địa điểm và các di vật cổ, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa
điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
+ Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên và công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mĩ, khoa học
+ Di vật là hiện tượng được lưu truyền, lại có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
+ Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên
+ Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước
về lịch sử, văn hóa, khoa học -
Các di sản bị đe dọa bởi nhiều yếu tố: biến đổi khí hậu, ứng xử chưa phù hợp của con người
với di sản, chiến tranh, … + Biến đổi khí hậu:
Biểu hiện của biến đổi khí hậu (hiện tượng hiệu ứng nhà kính và sự nóng lên toàn cầu, hạn
hán, lũ quét, sạt lở đất xuất hiện nhiều hơn, lượng mưa gia tăng)
Tác động của biến đổi khí hậu với công tác bao tồn di sản
Làm biến mất di sản (nhiệt độ trái đất nóng lên, nước biển dâng, sóng thần, lũ lụt cuốn trôi các công trình)
Làm hư hỏng, xuống cấp, giảm giá trị của di sản (sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm, không khí, lượng
mưa gây ra rạn nứt hoặc gây xói mòn, ngập úng, xuống cấp các di sản) -
Ứng xử chưa phù hợp của con người với di sản
+ Chưa nhận thức đúng về các giá trị ( lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo) của di sản nên chưa
biết cách để trân trọng và giữ gìn di sản
+ Bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di sản nhưng không hiểu và xâm hại giá trị sử dụng, văn hóa, nghệ thuật của di sản Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
+ Quá chú trọng khai thác giá trị kinh tế dẫn tới việc di sản có khả năng bị xâm hại, mai một, xuống
cấp, thậm chí làm biến mất di sản -
Để bảo vệ di sản cần tránh hoặc hạn chế tối đa tác động tiêu cực của các nhân tố trên (ngăn
chặn chiến tranh, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu; nâng cao ý thức bảo vệ di sản của con người,
…) - Là sinh viên, em sẽ làm những gì để bảo vệ di sản:
+ Tuân thủ các quy định khi đến thăm quan các di sản (không vứt rác, vẽ bậy, chạm vào di sản)
+ Tham giá các hoạt động tuyên truyền giá trị của di sản…
18. TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH, DỊCH BỆNH, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, XUNG ĐỘT
TÔN GIÁO, XUNG ĐỘT SẮC TỘC ĐỐI VỚI VĂN MINH NHÂN LOẠI.
- Chiến tranh: từ khi xa hội có giai cấp và nhà nước ra đời cho đến nay đã xảy ra rất nhiều cáccuộc
chiến tranh. Càng về sau, nhất là thời hiện đại, sự tàn phá của chiến tranh càng khủng khiếp (tiêu biểu là
hai cuộc chiến tranh thế giới lần 1 và lần 2)
- Ảnh hưởng của chiến tranh, xung đột tôn giáo và sắc tộc đối với văn minh thế giới
+ Chiến tranh, xung đột tôn giáo và sắc tộc gây nên những thiệt hại nặng nề về người và tài sản
+ tàn phá nghiêm trọng các thành tựu của các nền văn minh (lực lượng Taliban tàn phá các di
tích của Apganixtan; xung đột ở Sirya tàn phá nhiều di sản của con người.)
+ Đe dọa các giá trị văn minh của nhân loại và gây khó khăn cho công tác bảo tồn di sản
+ Đặt nhân loại trước nguy cơ chiến tranh và xung đột với những thảm kịch mới, đe dọa tới sự
phát triển của văn minh thế giới Câu 19 :
- Sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các công ty xuyên quốc gia ngày càngphát
triển và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế các quốc gia và quốc tế.
Hiện nay, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc, với các mô hình công ty mẹ, công ty con, một
sản phẩm hàng hóa là kết quả nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh của nhiều công ty. Công ty sản
xuất máy bay Boing là tập hợp của 650 công ty thành viên đặt ở nhiều quốc gia. Công ty Toyota hàng năm
chế tạo gần 1 triệu xe ô tô với 65 công ty cho thuê, 33 cơ sở bán phụ tùng, 44 công ty thiết bị tin cậy đặt
ở 25 quốc gia. Ngày càng có nhiều vụ sáp nhập các công ty và nhiều công ty xuyên quốc gia được thành
lập. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (Trans National Coporation, gọi tắt là TNC) bắt đầu được
mở rộng vào những năm 50 – 60 của thế kỷ XX với TNCs của Hoa Kỳ, sau đó là Nhật Bản, CHLB Đức
và nhiều quốc gia công nghiệp khác. Đến năm 1994, trên toàn thế giới có 38.800 TNCs, với 250 chi nhánh
ở các nước đang phát triển. Đến năm 1999, trên thế giới có 59.000 TNCs, kiểm soát 400.000 công ty nhánh.
Hiện nay các TNC không chỉ đầu tư vào khu vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp mà còn vào các
lĩnh vực dịch vụ, khoa học công nghệ, giáo dục… Ngày càng nhiều các vụ sáp nhập các công ty, thúc đẩy
việc phát triển các công ty xuyên quốc gia. Tổng giá trị các vụ sáp nhập toàn thế giới năm 2001 đạt 3.500
tỷ USD và năm 2004 đạt 1.300 tỷ USD.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng có vai trò trong nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn thế giới Ở
nhiều nước, chính phủ có các khoản nợ lớn, chủ yếu do các TNC cung cấp thông qua mua bán trái phiếu, tín phiếu, kho bạc nhà
- Ngày càng nhiều các tổ chức hợp tác kinh tế – xã hội, môi trường thế giới và khu vực
đượcthành lập và hoạt động có hiệu quả
Những thập kỷ gần đây, để tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, nhiều quốc
gia trên thế giới đã tích cực gia nhập các tổ chức hợp tác kinh tế – xã hội thế giới và các khu vực. Ngoài
tổ chức lớn nhất hành tinh là Tổ chức Liên Hợp Quốc có tới 198 quốc gia tham dự, Tổ chức
Thương mại Thế giới cũng ngày càng có nhiều nước gia nhập và chuẩn bị lộ trình để được gia nhập. Hiệp
định chung về Thuế quan và Mậu dịch (The General Agreement on Tariffs and Trade – GATT ) được ký
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
kết năm 1947 giữa 23 nước. Đến năm 1985 GATT có 87 thành viên, giá trị trao đổi thương mại thế giới
đạt 1, 8 nghìn tỷ USD. Đến năm 1995 GATT chuyển thành WTO với số lượng thành viên lên đến 127,
tổng giá trị trao đổi thương mại trên thế giới đã lên đến 5, 7 nghìn tỷ USD. Năm 2003 các chỉ số này tuần
tự là 148 và 7, 5 Như vậy, WTO ngày càng có vai trò lớn và tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương
mại, kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và trên bình diện thế giới. Các quốc gia tham gia tổ chức này sẽ
làm cho nền kinh tế quốc gia mình phát triển hài hòa theo thông lệ và nguyên tắc của WTO, là cơ hội đẩy
nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, từ đó tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội. Ngoài
hai tổ chức lớn là UNO, WTO, các tổ chức hợp tác khu vực và quốc tế khác được thành lập ngày càng
nhiều và phát triển lớn mạnh, có vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia, các
khu vực và trên toàn thế giới như:
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development Programme – UNDP);
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (Food and Agriculture Organization of
The United Nationals – FAO);
Tổ chức Giáo dục Khoa học về Văn hóa Liên Hợp Quốc (United National of Education Science and
Culture Organization – UNESCO);
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization – WHO);
Liên minh châu Âu (European United – EU);
Khối Buôn bán tự do Bắc Mỹ (North American Free Trade Association – NAFTA);
Diễn đàn Hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (Asian Pacific Economic Co – Operation Forum – APEC);
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of South East Asia Nations – ASEAN);
Tổ chức Thống nhất châu Phi (Organization African Union – OAU) …
Chỉ riêng ở châu Phi từ năm 1990 đến nay đã có tới hơn 100 tổ chức kinh tế – xã hội khác nhau được thành lập.
- Tốc độ trao đổi hàng hóa, vốn, tài chính trên toàn thế giới tăng trưởng nhanh
Mức độ tăng trưởng thương mại trung bình hàng năm của thế giới thời kỳ 1950 – 1996 đạt 6, 5%,
gấp 1, 5 lần so với mức độ tăng trưởng sản lượng kinh tế thế giới (4%); giá trị trao đổi thương mại toàn
thế giới năm 1948 chỉ có 124 tỷ USD, đến năm 1973 là 1.168 tỷ USD và đến năm 2002 lên đến 12.782 tỷ
USD. Như vậy, giá trị thương mại thế giới năm 2002 tăng gấp 103, 08 lần so với năm 1948. Thương số
thương mại trên sản lượng kinh tế thế giới dùng để chỉ báo toàn cầu hóa cũng tăng nhanh từ 11% giữa
những năm 70 so với mức của năm 1913 và đến năm 1994 đã tăng lên tới 16% và đến năm 1998 lên đến
20%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trung bình trong các năm 1970 – 1995 là 11%, nhiều hơn 2, 5 lần
mức độ tăng trưởng của sản lượng thế giới. FDI trên toàn thế giới năm 1998 là 693 tỷ USD, năm 2000 là
1.271 tỷ USD, năm 2001 là 823 tỷ USD, năm 2003 là 575 tỷ USD, năm 2005 là 884 tỷ USD. Tổng FDI
toàn cầu các năm từ năm 1998 đến năm 2005 cũng phản ánh rất rõ xu hướng toàn cầu hóa. Khi mà tình
hình an ninh, chính trị trên toàn thế giới, môi trường đầu tư vốn không an toàn đã tác động xấu đến tình
hình FDI toàn cầu cũng như nền kinh tế của toàn cầu.
• Xu hướng toàn cầu hóa cầu thể hiện sự phụ thuộc giữa các quốc gia với nhau về vốn, nguyên liệu
sản xuất, nguồn lao động, khoa học và công nghệ, thị trường Các nước phát triển bị phụ thuộc vào nguồn
nguyên, nhiên liệu và thị trường của các nước đang phát triển. Ví dụ: 40% nguồn nguyên liệu dầu lửa của
Hoa Kỳ; 70% nguồn nguyên liệu dầu lửa của EU và 80% nguồn nguyên liệu dầu lửa của Nhật Bản nhập
từ các nước Trung Cận Đông… Các nước đang phát triển cũng bị phụ thuộc vào vốn, khoa học công nghệ,
máy móc thiết bị và thị trường các nước phát triển. Vì vậy, các nước đều cố gắng điều chỉnh, cải cách các
chiến lược, chính sách phát triển kinh tế – xã hội theo hướng tăng cường tự do hóa, mở cửa và tăng cường
mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế, nâng cấp hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, hoàn thiện hệ thống luật pháp để Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Toàn cầu hóa còn được thể hiện như: các
nước đã và đang cùng hợp tác để giải quyết nhiều vấn đề về xã hội, môi trường, thiên tai, đói nghèo…
Tác động tích cực của xu hướng toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa góp phần thúc đẩy, phát triển các ngành kinh tế cũng như kinh tế – xã hội của mỗi quốc
gia và toàn thế giới thông qua quá trình mở rộng thị trường, buôn bán, giảm bớt sức ép về thuế. Gia tăng
các nhân tố sản xuất như vốn (cả vốn cố định, vốn con người) và KHKT được khuyến khích qua việc tự
do hóa lưu thông vốn, chuyển giao công nghệ, phát triển hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu hiệu quả, hạ
chi phí về giao dịch quốc tế và chi phí sản xuất. Thông qua sự gia tăng đầu tư vốn và công nghệ thông tin,
các quốc gia nhận đầu tư sẽ có điều kiện để học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý, phát triển kinh tế,
KHKT, tạo việc làm, nâng cao nhận thức và mức sống của dân cư. Trong quá trình tham gia toàn cầu hóa
giúp các nước cải thiện, nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, chất lượng môi trường, cải thiện được mức
lương của người lao động, hoàn thiện về luật pháp, chống tham nhũng, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
phù hợp, hiệu quả hơn. Kết quả là tất cả các nước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa đều có sự tăng
trưởng kinh tế cao hơn, các điều kiện bảo đảm cuộc sống tốt hơn, các nguồn lực cho phát triển kinh tế –
xã hội được cải thiện. Toàn cầu hóa mang lợi cho tất cả các nước, cho những người, những công ty tham
gia ở mức độ khác nhau.
Tác động tiêu cực của xu hướng toàn cầu hóa
Bên cạnh những tác động tích cực, những lợi ích toàn cầu hóa cũng có một số biểu hiện tiêu cực cần
được hạn chế Toàn cầu hóa làm mai một, xói mòn bản sắc giá trị truyền thống văn hóa địa phương. Thông
qua WTO các nước phát triển không sẵn lòng tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển,
với các điều kiện cao về lao động, vệ sinh môi trường đã làm rào cản đối với các nước đang phát triển
tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Các nước đang phát triển để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa
thường khai thác xuất khẩu các tài nguyên khoáng sản sơ chế, giá các mặt hàng này ngày càng cao, càng
xuất khẩu nhiều các nước đang phát triển càng thiệt thòi về lợi ích kinh tế. Các hàng hóa xuất khẩu của
các nước đang phát triển thường có hàm lượng công nghệ thấp, giá thành rẻ và thường phải nhập thiết bị
công nghệ giá cao nên dẫn đến thâm hụt ngoại thương cao. Trong quá trình đón nhận vốn viện trợ, đầu tư
hợp tác, các nước đang phát triển do thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, hệ thống luật pháp chưa hoàn
thiện và không quản lý được tham nhũng, các dự án đầu tư kém hiệu quả dẫn đến nợ nước ngoài càng gia
tăng. Thực tế các nước giàu được hưởng lợi từ toàn cầu hóa nhiều hơn các nước đang phát triển, vì các
nước phát triển chiếm gần 80% giá trị thương mại xuất khẩu và hơn 70% vốn đầu tư FDI trên toàn cầu.
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com)