



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58886076 A. MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển của gia đình sẽ dẫn đến
một xã hội ổn định và phát triển. Nhận thức được vị trí quan trọng của gia đình, Đảng
và Nhà nước ta luôn chú trọng trong việc xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và tiến
bộ. Biểu hiện ở việc, Nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật điểu chỉnh quan
hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với sự phát triển của xã hội trong từng thời kỳ nhất định.
Trong quan hệ vợ chồng bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau
thì không thể nào không quan tâm đến đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa vợ
chồng vấn đề quan trọng và được pháp luật về hôn nhân và gia đình điều chỉnh, nó
là một trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng gia đình và đáp ứng nhu cầu
về vật chất, tinh thần của các thành viên. Tuy nhiên, không phải lúc nào giữa vợ
chồng cũng có thể cùng nhau xây dựng được gia đình hạnh phúc, tiến bộ, những bất
đồng về quan điểm, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống vợ chồng mà không thể
giải quyết được sẽ làm cho những sợ dây liên kết bị phá vỡ tất yếu dẫn đến việc chấm
dứt quan hệ hôn nhân. Khi đó, vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng khi li
hôn là một trong những vấn đề phức tạp và gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết.
Vì thế việc nắm rõ những quy định về vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong lý
luận lẫn thực tiễn áp dụng đối với mỗi cá nhân, đặc biệt khi Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 ra đời trên cở sở kế thừa những tinh hoa của Luật Hôn nhân và gia đình
2000 và tiếp thu những quy đinh mới mà thực tiễn khách quan yêu cầu, đã có những
quy định chính xác và mới mẽ về vấn đề này. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Chia
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2014”. Tuy
nhiên, sự nhận thức và tầm hiểu biết của bản thân người viết còn hạn chế nên không
thể tránh được những sai sót trong quá trình nghiên cứu đề tài, vì thế em mong quý
thầy (cô) giúp em xem xét những vấn đề chưa hoàn thiện trong quá trình nghiên cứu.
B. NỘI DUNG I. Những vấn đề lý luận chung về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn lOMoAR cPSD| 58886076
1. Khái quát về tài sản chung của vợ chồng a. Một số khái niệm về vợ
chồng, tài sản, chế độ tài sản của vợ chồng và tài sản chung của vợ chồng
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tài sản chung của vợ chồng, ta cần phải làm
rõ một số khái niệm có tác dụng bổ trợ cho hoạt động tìm hiểu về khái niệm tài sản chung của vợ chồng.
Thứ nhất, về khái niệm tài sản. Trong đời sống – kinh tế xã hội, tài sản được
coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt dộng trong lĩnh vực kinh tế và cả đời sống
xã hội. Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người, tài sản lại
tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là nô lệ, “vật” và các sản phẩm của tư
tưởng, trí tuệ,… phản ánh sự phát triển, văn minh của nhân loại đó. Ở Việt Nam, khái
niệm tài sản được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo quan niệm thông thường thì
tài sản là của cải vật chất được dùng vào hoạt động sản xuất hoặc tiêu dùng. Dưới
giác độ kinh tế, tài sản được hiểu là vật có giá thị trường hay giá trị trao đổi và là bộ
phận cấu thành của cải hay sở hữu của con người. Trên phương diện pháp lý thì tài
sản lại được hiểu một cách khác cũng như được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự
2015, tài sản bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản còn là bất
động sản hoặc động sản. Bất động sản và động sản có thể tồn tại trên thực tế hoặc
hình thành trong tương lai”.
Thứ hai, khái niệm vợ chồng cũng được hiểu theo nhiều quan niệm khác nhau,
có quan niệm gắn gọn mang tính xã hội như vợ chồng là từ ghép giữa từ vợ và từ
chồng để nói về hai người nào đó đã cưới nhau. Nhưng có quan niệm lại mang tính
pháp lý, vợ chồng là danh từ ghép dùng để chỉ những người đã đáp ứng đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình hiện hành, đã tiến hành
đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn đồng thời phát sinh những quyền và nghĩa vụ với nhau cũng như với những
người khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp những quy phạm pháp luật
điều chỉnh về (sở hữu) tài sản giữa vợ và chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác
lập, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường
hợp phân chia tài sản giữa vợ chồng và nguyên tắc phân chia. Vợ chồng có quyền lOMoAR cPSD| 58886076
lựa chọn việc áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả
thuận. Chế độ tài sản theo thoả thuận là sự thoả thuận của vợ chồng về tài sản của họ
trong suốt thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản theo luật định là những quy định của pháp
luật hôn nhân gia đình về tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân của họ.
Cuối cùng, khái niệm về tài sản chung của vợ chồng. Hai người tiến tới hôn
nhân với mục đích là xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no và tiến bộ. Có thể nói,
chức năng xã hội cơ bản của gia đình là chức năng kinh tế, mỗi bên vợ chồng phải
tham gia vào các hoạt động xã hội để tìm kiếm thu nhập nhằm bảo đảm cuộc sống
cho gia đình và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính vì sự liên kết chặt
chẽ giữa vợ và chồng nên từ đó cũng tạo nên những tài sản được gọi là của chung
của vợ chồng. Vậy tài sản chung của vợ chồng là những tài sản hình thành từ lao
động, kinh doanh, được thừa kế chung, tặng cho hung, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng của mỗi người và thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân nhằm đảm
bảo nhu cầu gia dình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
b. Đặc điểm của tài chung của vợ chồng
Một là được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau trong thời kỳ hôn nhân hợp
pháp. Tài sản chung của vợ chồng được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau như
lao động của người vợ, lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của chồng hoặc của cả
hai vợ chồng. Ngoài ra, còn các thu nhập hợp pháp khác như trúng xổ số, tiền trợ
cấp, tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân
sự đối với vật vô chủ, bị đánh rơi, bỏ quên và tài sản được thừa kế chung, được tặng cho chung.
Hai là tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia, dùng để bào đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của cợ chồng.
Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung trong đó phần quyền của các chủ sở hữu
chung không được xác định đối với tài sản chung. Tức có nghĩa, mỗi chũ sở hữu đều
có quyền đối với tất cả tài sản trong khối tài sản chung. Chỉ khi có căn cứ theo quy
định của pháp luật để chia tài sản chung thì khi đó mới xác định được phần của mỗi
bên trong tài sản chung ấy. Chính vì thế mà vợ chồng phải có nghĩa vụ cùng nhau
bàn bạc về phương hướng phát triển kinh tế gia đình, góp phần làm cho khối tài sản lOMoAR cPSD| 58886076
chung ấy ngày càng phát triển nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình và hơn thế nữa
là giúp đỡ những người khác trong xã hội.
2. Khái quát về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn a. Khái
niệm và đặc điểm ly hôn
Hôn nhân là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Quan hệ hôn nhân tồn lại
lâu dài, bền vững. Điều đó hoàn toàn phù hợp với tính chất, mục đích của hôn nhân
và tâm tư, nguyện vọng của những người kết hôn. Tuy nhiên, tính bền vững của hôn
nhân vẫn có ngoại lệ vì quan hệ hôn nhân bị chi phối phần lớn bởi yếu tố tình cảm.
Việc phát sinh mâu thuẫn giữa vợ và chồng trong cuộc sống hôn nhân là điều tất yếu
và khi mâu thuẫn trở nên quá căng thẳng, không thể hoà giải được, tồn tại cuộc sống
chung là hình thức thì vợ chồng có quyền chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một sự
kiện pháp lý, đó là ly hôn. Vậy ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi hai
nguoi còn sống do một bạn vợ hoặc chồng yêu cầu hoặc hai bên vợ chồng thuận tình,
được Toà án công nhận bằng bản án ly hôn hay bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
b. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Trong quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm thường được đưa lên vị trí hàng đầu,
không có sự rạch ròi nguồn góc tài sản và tài sản của ai nhưng cuộc sống vợ chồng
không phải lúc nào cũng êm đềm, một khi quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng không
thể tiếp tục được nữa việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ấy tất yếu phải dẫn đến kết
cục chấm dứt. Khi ấy, việc giải quyết quan hệ tài sản của hai bên vợ chồng là điều
tất yếu hay có thể nói khi đó giữa vợ và chồng sẽ xảy ra việc chia tài sản chung khi
ly hôn. Vậy chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là việc vợ chồng tự thoả thuận
hoặc yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa vào những
điều kiện nhất định, nhằm đảm bảo cho việc sở hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của
các bên khi sự kiện ly hôn xảy ra.
II. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lOMoAR cPSD| 58886076
1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn (Khoản 1 Điều 59)
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu mới phát
sinh của thực tiễn mà Luật hôn nhân và gia đình 2000 không thể đáp ứng. Một trong
những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là quy định về chế độ tài sản
của vợ chồng, so với quy định của luật cũ thì Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã
tăng thêm sựa lựa chọn cho những người muốn tiến đến quan hệ hôn nhân với nhau.
Nếu như Luật Hôn nhân và gia đình 2000 chỉ áp dụng duy nhất chế độ tài sản do luật
định thì đến với Luật Hôn nhân và gia đình 2014 các nhà làm luật đã mở rộng phạm
vi lựa chọn về chế độ tài sản cho những ai muốn tiến đến hôn nhân. Họ có thể tự lựa
chọn chế độ tài sản trên sự thống nhất về ý chí, nguyện vọng của đôi bên (Khoản 1
Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “1. Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng
chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản của
vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến
Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này. Chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật
này”). Cùng với sự lựa chọn về áp dụng chế độ tài sản là thoả thuận hay theo quy
định của luật thì khi giữa hai bên vợ chồng trong quá trình chung sống với nhau mà
xảy ra mâu thuẫn đến nỗi không thể tiếp tục quan hệ hôn nhân giữa hai bên và bắt
buộc phải ly hôn thì thì đương nhiên việc phân chia tài sản của vợ chồng là điều tất
yếu phải xảy ra. Lúc này các nhà làm luật cũng dựa vào quyền lựa chọn của vợ chồng
về áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận để đưa
ra những nguyên tắc khi phân chia tài sản chung cho từ chế độ tài sản mà vợ chồng
đã lựa chọn ngay từ trước khi đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong
trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc
của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều
này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này. lOMoAR cPSD| 58886076
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài
sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ
ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các
điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết”. Như vậy theo nguyên tắc thì
mỗi chế độ tài sản khác nhau lại được áp dụng những quy định khác nhau để giải
quyết nhưng chung quy lại trong cả hai trường hợp chế độ tài sản theo thoả thuận
hoặc chế độ tài sản theo luật định thì việc giải quyết tài sản được chia thành hai
hướng: một là theo thoả thuận giữa vợ và chồng. Hai là nếu không thoả thuận hoặc
thoả thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng theo quy định của luật. Việc phân chia
như vậy mang nhiều yếu tố tích cực như trong quá trình chung sống với nhau không
phải lúc nào tài sản của vợ chồng cũng có thể phân chia được một các rạch ròi bởi vì
trong đó còn mang cả những yếu tố tình cảm nên khi hai vợ chồng không thể nào tiếp
tục quan hệ hôn nhân được nữa (có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau)
thì việc phân chia tài sản chung giữa họ cũng rất khó khăn và đồng thời trên cơ sở
tôn trọng quyền tự định đoạt của hai vợ chồng về tài sản chung nên Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 đã ưu tiên cho các bên tự thoả thuận nhằm tạo ra sự thoải mái về
tâm lý giữa các bên đặc biệt là người vợ, các bên có thể đạt được những lợi ích mà
họ cảm thấy là phù hợp nhất và tránh những chi phí phát sinh gây tốn kém giải quyết
bằng “con đường Toà án”. Còn trong trường hợp các bên không thể thoả thuận hoặc
có thỏ thuận nhưng không đầy đủ, rõ ràng thì bắt buộc phải thực hiện hiện quy định
của pháp luật để bảo đảm quyền và lợi ích của hai bên.
2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo thoả thuận giữa các bên
Khi qua hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng chấm dứt, pháp luật tôn trọng quyền
tự định đoạt tài sản chung của họ tức là họ có quyền thoả thuận về phân chia tài sản
chung bào gồm những tài sản có liên quan đến giao dịch với người thứ ba, tài sản
chung năm trong khối tài sản cùa gia đình, quyền sử dụng đất và những tài sản chung
khác được đưa vào kinh doanh và nhiều tài sản chung khác. Mấu chốt ở đây chính là
sự tự thoả thuận giữa hai vợ chồng nhưng xen lẫn vào đó là những yếu tố tình cảm
như yêu, ghét, thù hận,… Bên cạnh đó, khi hai bên vợ chồng thoả thuận thường sẽ lOMoAR cPSD| 58886076
có mặt những người có quan hệ thân thích với họ để phân tích, giải thích cũng như
đánh giá xem giữa vợ chồng thì người nào sẽ được hưởng những gì nhưng đây cũng
chỉ là ý kiến của bên thứ ba, còn quan trọng nhất vẫn phụ thuộc vào sự thống nhất ý
chí giữa hai bên vợ chồng. Ngoài ra, trong quá trình thoả thuận hai bên sẽ tính đến
những yếu tố khác như hoàn cảnh của gia đình và của vợ chồng nếu như sau khi hai
bên ly hôn mà người vợ có khó khăn trong việc lao động để tạo lập của cải nuôi sống
mình thì người vợ có thể theo thoả thuận nhận phần nhiều hơn thậm chí là tất cả tài
sản nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là ý chí của người chồng. Công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển của khối tài sản cũng được xem
xét đến khi tiến hành thoả thuận. Một yếu tố không thể thiếu đó là lỗi của mỗi bên
trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng, có nhiều trường hợp vì người chồng có
hành vì ngoại tình và có đầy đủ chứng cứ nên khi thoả thuận chia tài sản chung vì
cảm thấy bản thân mình có lỗi nên họ có thể “ra đi” tay trắng và để lại toàn bộ tài sản
cho người vợ và con (nếu có).
3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình 2014
3.1 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng theo luật định
Pháp luật tôn trọng và trao quyền tự thoả thuận về phân chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn nhưng có thể vì một lý do nào đó mà giữa hai bên vợ chồng
không thể thoả thuận hoặc có thoả thuận từ trước (khi vợ chồng áp dụng chế độ tài
sản thoả thuận) nhưng thoả thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng không thoả
thuận thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng, Toà án giải quyết
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Và đương nhiên để đảm bảo cho
quyền, lợi ích hợp pháp của đôi bên thì pháp luật cũng quy định những nguyên tắc khi chia tài sản chung.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy
định khi ly hôn tài sản sẽ được chia đôi nhưng có tính những yếu tố như:
Thứ nhất, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng. Quy định này được viện
dẫn tại điểm a khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016 TTLT- lOMoAR cPSD| 58886076
TANDTCVKSNDTC-BTP, được hiểu là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực
hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ,
chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa
vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó
khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được
ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải
phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
Thứ hai, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập. Khi hai bên vợ chồng cùng nhau tạo lập nên khối tài sản chung thì
không thể lúc nào cũng đóng góp vào khối tài sản chung “bằng nhau” được, và không
ít gia đình có “truyền thống” người chồng là “trụ cột” của gia đình nên phải ra ngoài
kiếm tiền để “nuôi” gia đình còn người vợ chỉ ở nhà và có nhiệm vụ chăm sóc gia
đình. Vì vậy, khi hai bên ly hôn không ít trường hợp người chồng phủ nhận những
đóng góp của vợ (vì lý do người phụ nữ chỉ ở nhà chăm sóc gia đình, con cái mà
không lao động để tạo thu nhập cho gia đình) nên những nhà làm luật cũng đã dự liệu
và xem việc ở nhà chăm sóc gia đình, con cái là lao động có thu nhập ngang bằng
với thu nhập do người kia lao động mà có. Đây là một trong những quy định tiến bộ
của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước ta, một mặt đảm bảo sự công bằng
về công sức của hai bên trong việc tạo lập, đóng góp và phát triển khối tài sản chung,
mặt khác quyền, lợi ích hợp pháp của các bên vẫn được bảo đảm.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Việc chia tài sản
chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được
tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục
được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá
trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu
của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành
vi dân sự. Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy lOMoAR cPSD| 58886076
xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị
giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét
giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh
doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh
toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.
Thứ tư, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi
của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn
đến ly hôn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung
thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của
người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ và con chưa thành niên.
Ngoài ra, theo khoản 3, 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tài sản
chung của vợ chồng nếu là hiện vật thì sẽ được chia theo hiện vật, nếu không chia
được thì chia theo phần giá trị và bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật mà có giá
trị lớn hơn phần của mình thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệnh. Tài sản
riêng của người nào thì thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp đã nhập
vào tài sản chung và nếu vợ chồng có yêu cầu chia thì được thanh toán phần giá trị
tài sản đã nhập vào khối tài sản chung, trừ trường hợp hai bên có thoả thuận khác.
Một nguyên tắc quan trọng không thể thiếu trong việc chia tài sản chung vợ
chồng khi ly hôn là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con chưa thành
niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và
là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì
Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành
niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán
giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ
hoặc chồng có yêu cầu. lOMoAR cPSD| 58886076
3.2 Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba (Điều 60)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ
trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác”. Trong cuộc sống vợ
chồng không thể tránh khỏi những trường hợp cả hai vợ chồng cùng phát sinh quan
hệ tài sản với người thứ ba, chẳng hạn như hai vợ chồng cùng thoả thuận với người
thứ ba mua bán một tài sản nào đó như nhà, quyền sử dụng đất,… Nếu trong thời khi
hôn nhân vợ chồng đã giải quyết hết toàn bộ quyền, nghĩa vụ tài sản với người thứ
ba thì việc chia tài sản chung sẽ phần nào trở nên đơn giản hơn. Tuy nhiên, đặt trường
hợp quyền, nghĩa vụ tài sản với người thứ ba vẫn chưa được giải quyết trong thời kỳ
hôn nhân mà kéo dài đến khi ly hôn thì phải giải quyết như thế nào? Dự liệu được
trên thực tế sẽ xảy ra những trường hợp như thế, các nhà làm luật đã quy định khi đó
quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác. Có thể thấy mục đích của quy định
trên là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cả vợ chồng và người thứ ba, ví dụ: trong
thời kì hôn nhân vợ chồng anh A chị B có vay của anh C số tiền 200 triệu, nhưng vì
lý do nào đó mà giữa vợ chồng anh A xảy ra mâu thuẫn dẫn đến ly hôn. Khi đó, nghĩa
vụ trả nợ cho anh C của hai vợ chồng anh A vẫn có hiệu lực và theo thoả thuận của
các bên mà đưa ra phương thức thanh toán nợ cho anh C.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã dự liệu trong
trường hợp có tranh chấp vế quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều
27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết. Và nguyên
tắc trong chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham
gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng
có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa
án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có
nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án
hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác. Căn cứ theo quy định tại Điều 27: “1. lOMoAR cPSD| 58886076
Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định
tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các
điều 24, 25 và 26 của Luật này. 2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa
vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”. Đối với những giao dịch nhằm đáp ứng những
nhu cầu thiết yếu của gia đình, những giao dịch khi tham gia kinh doanh chung và
giao dịch liên quan đến giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản
chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới
đối với người thứ ba trong các giao dịch ấy.
Không những thế vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với những nghĩa vụ
chung được quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 gồm:
Một là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thoả thuận xác lập,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải
chịu trách nhiệm liên đới. Khi vợ chồng đồng thuận cùng nhau thực hiện giao dịch
dân sự như liên quan đến tài sản chung, vay tiền, thế chấp tài sản… thì vợ chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch đó.
Hai là nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình. Gia đình là tế bào cần được chăm nom, nuôi dưỡng, việc chi tiêu cho
cuộc sống gia đình là cần thiết, hơn hết hôn nhân được xây dựng dựa trên mong muốn
từ hai phía để tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi một bên thực hiện nghĩa vụ nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như sửa nhà, ăn uống, chăm con… thì người
còn lại cũng phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó.
Ba là nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, nghĩa là vợ chồng có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
vì thế khi sử dụng, chiếm hữu, định đoạt những tài sản ấy mà phát sinh nghĩa vụ thì
vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.
Bốn là việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc
để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho gia đình mà phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa vụ đó
là nghĩa vụ chung của vợ chồng. Quy định này thể hiện tính công bằng và sự tiến bộ lOMoAR cPSD| 58886076
trong lĩnh vực lập pháp của nước ta, tính công bằng thể hiện ở chỗ khi một bên vợ
hoặc chồng sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc tạo ra
nguồn thu nhập chủ yếu nhằm đảm bảo cho gia đình có điều kiện về vật chất, tinh
thần cho gia đình, xã hội mà phát sinh nghĩa vụ thì cả vợ, chồng đều có trách nhiệm
liên đới (vì mục đích ban đầu của hôn nhân là chung sống bên nhau suốt đời, xây
dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc).
Năm là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ
luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường và nghĩa vụ khác theo quy định của luật có
liên quan. Theo đó khoản 2 Điều 589 Bộ luật dân sự 2015 có quy định người chưa
đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại; nếu tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường
hợp người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời
gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý. Ví dụ: C 14 tuổi là con
của anh A chị B, C đã làm hỏng chiếc xe máy hiệu AB của a D và chi phí sửa chữa
là 10 triệu. Trong trường hợp này anh A chị B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho anh D cho cháu C gây ra. Ngoài ra, người từ mười lăm đến chưa đủ mười tám
tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình nêu không đủ thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3.3 Chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình (Điều 61)
Mục đích của hôn nhân là xây dựng cuộc sống ấm no, gia đình hạnh phúc và
để xây dựng được những điều trên là hoàn toàn không dễ dàng nếu vợ chồng không
sống chung với nhau thì làm sao có thể tạo nên gia đình hạnh phúc, ngoại trừ những
trường hợp vì đặc thù nghề nghiệp, tính chất công việc mà vợ chồng phải sống xa
nhau. Bên cạnh đó, không phải bất cứ cặp vợ chồng nào khi tiến đến hôn nhân cũng
có thể “tự thân” xây dựng “tổ ấm” cho mình, trường hợp những cặp đôi sau khi trở
thành vợ chồng và sống chung với gia đình bên vợ hoặc bên chồng không phải là
hiếm ở trong xã hội ngày nay thậm chí còn rất nhiều, đặc biệt là ở Việt Nam do sự lOMoAR cPSD| 58886076
chi phối của các phong tục, tập quán truyền thống như rước dâu, ở rễ thể hiện tinh
thần hiếu đạo của con người đất Việt từ xưa đến nay. Chính vì thế, khi hôn nhân giữa
vợ chồng xuất hiện những mâu thuẫn, khủng hoảng mà không thể giải quyết, kéo
theo đó là “dấu chấm hết” của cuộc hôn nhân thì quan hệ tài sản của vợ chồng lại
phát sinh những vấn đề như vợ chồng sống chung với gia đình mà có tài sản chung
nằm trong khối tài sản gia đình thì khi ly hôn việc chia tài sản chung ấy được giải
quyết như thế nào? Nhận thức từ thực tiễn xã hội, các luật gia đã dự liệu được những
tình huống như thế đồng thời tạo ra các quy định nhằm giải quyết vấn đề ấy.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Hồn nhân và gia đình 2014, trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được
chia một phần trong khối tài sản chung với gia đình căn cứ vào công sức đóng góp
của vơ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung ấy và đời
sống chung của gia đình. Việc phân chia ấy do vợ chồng thoả thuận với gia đình hoặc
yêu cầu Toà án giải quyết. Ở đây, khối tài sản chung của gia đình được tính thêm
công sức của vợ chồng trong việc đóng góp, giữ gìn cũng như phát triển khối tài sản
chung của gia đình, giúp đảm bảo cho tất cả thành viên trong gia đình theo nhu cầu
của mỗi người. Và khi vợ chồng ly hôn mà tài sản chung của họ nằm trong khối tài
sản chung của gia đình mà không xác định được thì họ vẫn có quyền được hưởng
một phần tài sản có thể là do họ đóng góp tài sản riêng hoặc công sức trong phát triển
khối tài sản chung của gia đình, điều này hoàn toàn hợp lý cũng như đảm bảo sự công
bằng cho mỗi bên. Việc phân chia cũng như xem xét thế nào là “một phần tài sản” và
cách tính “một phần tài sản ấy” là do vợ chồng thoả thuận cùng gia đình nếu không
thì có thể nhờ đến Toà án giải quyết và khi giải quyết thì Toà án cần phải lưu ý đến
việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải
thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, lOMoAR cPSD| 58886076
phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia và việc phân
chia cũng như nguyên tắc phân chia tương tự trường hợp trên.
3.4 Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (Điều 62)
Khi hôn nhân tan vỡ, bên cạnh “cú sốc” về tình cảm, các căp đôi c ̣ òn “đau
đầu” bởi viêc phân chia ṭ ài sản, đăc biệ t ḷ à tài sản lớn như nhà đất. Việc phân chia
tài sản chung là quyền sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với mội bên vì đây
là một loại tài sản đặc biệt.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “2. Việc
chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như
sau: a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai
bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa
thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo
quy định tại Điều 59 của Luật này. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có
điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh
toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; b) Trong trường
hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng
thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng
được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; c) Đối với đất nông nghiệp
trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định
tại Điều 59 của Luật này; d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của
pháp luật về đất đai”, đất nông nghiệp và đất trồng cây hằng năm, nuôi trồng thuỷ
sản là một trong những loại đất quan trọng ở nước Việt Nam hiện nay vì nước ta là
một trong những quốc gia nông nghiệp trên thế giới tuy đã có sự chuyển biến mạnh
mẽ trong tỉ trọng cơ cấu ngành kinh tế nhưng nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế ở nước ta. Theo quy định tại điểm a, đối với đất nông nghiệp để
trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là tài sản chung của vợ chồng thì khi ly hôn
sẽ được phân chia thành hai trường hợp để chia.
Trường hợp đầu tiên, cả hai bên vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực
tiếp sử dụng đất thì sẽ chia theo thoả thuận của các bên, nếu không có thoả thuận thì lOMoAR cPSD| 58886076
yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Cả vợ và chồng phải là những người có nhu cầu sử dụng đất, có thể nhu cầu của vợ
và chồng khác hoặc giống nhau như tạo ra của cải vật chất để có cuộc sống tốt đẹp
hơn, nuôi dạy con cái trong môi trường tốt hơn,… và kèm theo nhu cầu ấy là phải có
điều kiện trực tiếp sử dụng có thể hiểu là có đủ thời gian, công sức, tiền bạc cũng
như điều kiện đi lại hoặc hoàn cảnh gia đình của các bên để quản lý, khai thác nguồn
lợi từ phần đất được phân chia. Nhưng việc xác định thế nào là có nhu cầu sử dụng
và thế nào là điều kiện trực tiếp thì gần như là một vấn đề nan giải đối với các cơ
quan có thẩm quyền cũng như về phía hai bên. Ngoài ra, nếu giữa vợ chồng đều có
nhu cầu và điều kiện thì pháp luật tôn trọng sự thoả thuận giữa họ về việc phân chia
tài sản chung là quyền sử dụng đất ấy. Nếu họ không thể thống nhất với nhau thì lúc
bấy giờ, Toà án sẽ là cơ quan giải quyết việc phân chia, khi đó Toà án phải dựa vào
những nguyên tắc được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để
phân chia như thế nào cho phù hợp với công sức mà đôi bên đã bỏ ra trong việc tạo
lập, duy trì và phát triển tài sản ấy cũng như bảo vệ quyền, lợi ích của bà mẹ, trẻ em
cũng như con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trường hợp thứ hai, nếu chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp thì
bên đó sẽ tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên còn lại phần giá trị quyền
sử dụng đất mà bên kia có quyền. Việc thanh toán cũng do các bên tự thoả thuận và
nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Ví dụ: vợ chồng anh chị A có tài sản chung là quyền sử dụng đất
đối với mảnh đất nông nghiệp trồng cây hàng năm có diện tích là 10 ha, sau đó hai
anh chị ly hôn và chỉ có anh A có nhu cầu cũng như điều kiện trực tiếp sử dụng thì
trong trường hợp này anh A được tiếp tục sử dụng cũng như phải có nghĩa vụ thanh
toán cho chị B phần giá trị quyền sử dụng đất mà chị được hưởng (có thể theo thoả
thuận hoặc theo quyết định, bản án có hiệu lực của Toà án).
Bên cạnh đó, nếu vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hang
năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng
đât của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 62 Luật lOMoAR cPSD| 58886076
Hôn nhân và gia đình 2014. Đây là một quy định cần thiết vì không hiếm những
trường hợp vợ chồng sử dụng tài sản chung của mình để góp vào tạo thành tài sản
chung gia đình là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng
thuỷ sản thì khi vợ chồng ly hôn phần tài sản ấy phải được tách ra để đảm bảo cho
việc phân chia tài sản chung giữa vợ chồng đúng theo thoả thuận giữa họ hoặc phù
hợp với công sức, của cải mà hai bên đã bỏ ra.
Về phần đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất
ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (điểm c
khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Cón đối với các loại đất khác thì
chia theo quy định của pháp luật về đất đai. Sự phát triển và ngày càng hoàn thiên c ̣
ủa hê tḥ ống pháp luât đ ̣ ất đai đã và đang có nhiều đóng góp trong viêc ̣ giải quyết
triêt đ ̣ ể những vướng mắc trong quá trình phân chia tài sản chung là nhà đất của vợ chồng khi ly hôn.
Tại khoản 3 Điều 62, nếu như vợ chồng sống chung với gia đình mà không có
quyền sử dụng đất chung với gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có
quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo
quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Việc bảo đảm quyền, lợi ích
cho các bên khi ly hôn rất quan trọng nhất là đối với việc phân chia tài sản chung.
Trong nhiều trường hợp mặc dù vợ chồng sống chung với gia đình nhưng không có
quyền sử dụng đất chung thì khi họ ly hôn những quyền lợi vẫn được tôn trọng và
bảo đảm vì trong quá trình chung sống với gia đình có thể họ đã đóng góp tài sản
riêng của mình hoặc công sức vào việc tạo lập, duy trì tài sản chung của gia đình.
Chính về thế, khi họ “ra đi” pháp luật vẫn bảo vệ cho quyền và ợi ích hợp pháp của họ.
3.5 Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn (Điều 63)
Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định trong trường hợp mà nhà
ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn
thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp sau khi ly hôn vợ hoặc chồng có có khó
khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn lOMoAR cPSD| 58886076
nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Xuất phát từ thực tiễn
cuộc sống cũng như bảo vệ quyền lợi của mỗi bên trong quan hệ hôn nhân mà đặc
biệt về phía người vợ nên pháp luật đã quy định như thế. Tuy nhiên việc quy định thế
nào là “khó khăn về chỗ ở” cần phải có những hướng dẫn cụ thể hơn, ví dụ: không
có khả năng tài chính để thuê một chỗ ở mới,… Thời hạn 06 tháng có thể nói là con
số ước lượng mà các nhà làm luật đã đưa ra, trên thực tế dựa vào nhiều hoàn cảnh
khác nhau mà việc tìm được nơi ở mới đối với một trong hai bên vợ chồng là hoàn
toàn khác nhau. Nhưng tại phần cuối của Điều 63 các nhà làm luật đã trao quyền lựa
chọn cho các bên khi quy định “trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”, nhằm
mục đích để hai bên có thể đạt được những gì mà mình mong muốn nhất trong việc
giải quyết vấn đề chỗ ở cho bên có khó khăn.
3.6 Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh (Điều 64)
Về phần tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì khi ly hôn vợ, chồng đang
thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài
sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ có quyền được hưởng,
tài sản chung đưa vào kinh doanh nhằm mục đích phát triển khối tài sản để đảm bảo
nhu cầu về vật chất, tinh thần cho gia đình vì thế đây được coi là một trong những tài
sản quan trọng đối với các bên nên khi phân chia mà vợ, chồng đang có hoạt động
kinh doanh liên quan đến tài sản chung ấy pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
họ. Nếu như vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản
mà bắt buộc họ phải phân chia tài sản ấy bằng cách bán tài sản và chia cho bên kia
thì sẽ rất khó cho bên đang hoạt động nên thay vào đó bên đang có hoạt động kinh
doanh sẽ bù cho bên còn lại phần giá trị mà bên kia được hưởng. Ngoài ra, tại Điều
64 cũng có quy định những trường hợp mà pháp luật kinh doanh có quy định khác.
Pháp luật kinh doanh là tổng thể quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình kinh doanh. Những văn bản điều chỉnh hoạt động kinh
doanh có thể kể đến như Bộ luật dân sự 2015, Luật Đất đai 2013, Luật thương mại
2005, Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn. Chính vì thế, chia tài sản
chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh cần phải xét đến điều kiện sử dụng của đôi
bên cũng như tuân theo các quy định của pháp luật. lOMoAR cPSD| 58886076
III. Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện vấn đề chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn thoe quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 1. Thực
tiễn áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn
Trong thực tiễn cuộc sống, những mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ và chồng là
điều không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra là khi đứng trước những mâu thuẫn, bất
đồng ấy vợ chồng có thể “làm dịu” được hay không? Nếu những mâu thuẫn không
thể hoà hoãn được nữa thì tất yếu sẽ dẫn đến việc chấm dứt quan hệ hôn nhân và kéo
theo những vấn đề về tài sản mà trường hợp sau đây là một trong những ví dụ minh chứng:
“Bà Nguyễn Thị Tám (trú tại thôn Phú Điền, xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận
Bắc) cho biết bà và ông Phạm Văn Phục kết hôn với nhau năm 1995. Tới nay, hai
người đã có 4 người con chung (lớn nhất 21 tuổi và nhỏ nhất 7 tuổi).
Khi mới cưới nhau, vợ chồng sinh sống trên thửa đất 39m2 do cha mẹ chồng
để lại. Quá trình chung sống, vợ chồng bà mua thêm được 105m2 đất liền kề phía
sau và đã được UBND huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (GCNQSDĐ) với diện tích tổng cộng là 144m2 vào năm 2011. Bà Tám có thuê
một ki ốt để bán tạp hoá của Ban quản lí chợ.
Vào năm 2015, do có mâu thuẫn kéo dài nên vợ chồng bà phải đưa nhau ra tòa
xin ly hôn và chia tài sản chung. Bà Tám nhận trách nhiệm nuôi các con và đề nghị
được nhận hiện vật là nhà và 144m2 đất là tài sản chung của vợ chồng để nuôi các
con. Phần tiền chênh lệch, bà có trách nhiệm trả cho ông Phục đầy đủ. Trong khi đó,
phía ông Phục cũng có đề nghị được nhận hiện vật vì cho rằng trong 144m2 đất có
phần đất do ông được thừa kế từ ông bà nội. Ngoài ra, bà Tám đã có một ki ốt gần
nhà, tức là đã có nơi ăn ở, sinh hoạt ổn định.”1
1 Hà Thu, Vụ chia tài sản sau ly hôn ở Bình Thuận: Quyền lợi của vợ và con chưa thành niên cần được bảo đảm,
Nguồn: http://www.baomoi.com/vu-chia-tai-san-sau-ly-hon-o-binh-thuan-quyen-loi-cua-vo-va-cac-con-chua-
thanhnien-can-duoc-dam-bao/c/20668475.epi lOMoAR cPSD| 58886076
Theo như nhận định của người viết thì tài sản chung của vợ chồng ông Phục
và bà Tám là hiện vật bao gồm nhà và 144m2, theo quy định tại Điều 33 Luật HN &
GĐ1 2014 thì tài sản chung này hình thành từ hai nguồn, nguồn thức nhất là 39 m3
do cha mẹ chồng để lại nhưng cũng không có những chứng cứ rõ ràng để chứng minh
39m2 đất ấy là do chạ mẹ chồng của bà Tám để lại riêng cho chồng bà là ông Phục,
nguồn thứ hai là trong quá trình chung sống vợ chồng ông Phục đã mua được 105
m2 đất liền kề phía sau. UBND huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (GCNQSDĐ) với diện tích tổng cộng là 144m2 vào năm 2011. Vì thế,
khi vợ chồng ông Phục bà Tám yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn và chia tài sản chung
đồng nghĩa với việc giữa vợ chồng bà Tám đã không thể tiến hành tự thoả thuận phận
chia tài sản chung. Theo yêu cầu của vợ chồng bà Tám và ông Phục khi giải quyết
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng Toà án phải căn cứ vào các nguyên tắc quy
định tại Điều 59 Luật HN & GĐ 2014 như hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng; công
sức đóng góp vào khối tài sản chung; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năn lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo đó yêu cầu của bà Tám trong
việc phân chia tài sản chung có phần hợp lý hơn vì bà nhận trách nhiệm nuôi bốn
người con ăn học, con đầu đang học Đại học tại TP Hồ Chí Minh, con thứ 2 thì vừa
tốt nghiệp PTHT (phổ thông trung học) và 2 con dưới 18 tuổi nên rất cần có chỗ ở
ổn định. Nếu không có nơi cư ngụ, việc học tập và sinh hoạt của các con sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn. Nếu được chia hiện vật là nhà và 144m2 đất bà Tám phải bù lại phần
giá trị tài sản mà ông Phục có quyền được hưởng. Về phía ông Phục cho rằng bà Tám
đang thuê ki ốt bán tạp hoá từ Ban quản lí chợ nên được coi như có nơi ăn, ở và sinh
hoạt ổn định. Theo người viết đây là nhận định phiến diện của ông Phục nên Toà án
cần phải xem xét trong trường hợp này ki ốt mà bà Tám thuê từ Ban quản lý chợ có
thể sử dụng là chỗ sinh hoạt cho gia đình hay không vì theo như bà Tám ki ốt bà thuê
từ Ban quản lí chợ nên không thể làm nơi sinh hoạt.
1 Luật HN & GĐ: Luật Hôn nhân và gia đình 2014. lOMoAR cPSD| 58886076
Thêm một chi tiết nữa là Tòa cũng cần cân nhắc lại việc xác định nhà, đất
39m2 là tài sản riêng của ông Phục vì năm 2011, phần đất này đã được UBND huyện
Hàm Thuận Bắc cấp GCNQSDĐ cho “hộ ông Phạm Văn Phục” (tức là bao gồm cả
bà Tám). Như vậy, Tòa cần phải xác minh làm rõ việc ông Phục có tự nguyện xin
nhập 39m2 đất này vào tài sản chung của vợ chồng để xin cấp GCNQSDĐ cho “hộ
gia đình” hay không? Công sức của bà Tám trong việc chung sức vào việc xây dựng
nhà, tôn tạo diện tích đất 39m2 cũng cần được Tòa tính toán để đảm bảo quyền lợi cho người vợ.
Việc giải quyết vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cần phải
xem xét đến nhiều yếu tố khác nhau như hoàn cảnh gia đình, công sức đóng góp, bảo
vệ quyền lợi của người vợ, con chưa thành niên và “nguồn gốc” hình thành tài sản
chung nhằm mục đích đưa ra những bản án, quyết định chính xác đối với quyền và
lợi ích hợp pháp của cả hai bên vợ chồng.
2. Phương hướng hoàn thiện những quy định về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhan và gia đình 2014
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời với những sửa đổi, bổ sung quan trọng,
phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam, Luật này đã đáp ứng kịp
thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình trong tình hình mới;
bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình; bình đẳng giới; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền
thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ý thức xã
hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội và những quan hệ xã hội về lĩnh vực hôn
nhân và gia đình tự bản thân nó mang trong mình ít nhiều yếu tố tình cảm nên Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 cũng khó tránh khỏi những bất cập khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Điều 62 Luật HN & GĐ 2014 quy định về vấn đề chia quyền sử dụng đất của
vợ chồng khi ly hôn đề cập phần nhiều đến chia quyền sử dụng đất liên quan đến đất
nông nghiệp trồng cây hằng năm, nuôi trồng thuỷ sản mà ít đề cập đến các loại đất
khác và viện dẫn các quy định pháp luật về đất đai để phân chia. Có thể xem đây là