Luật kinh tế quốc tế gì? Các nguyên tắc của
luật kinh tế quốc tế
1. Khái niệm luật kinh tế quốc tế
Điều ước đầu tiên chuyên về thương mại quốc tế xuất hiên vào thế kỷ xvn.
Đầu thế kỷ XX, xuất hiện một số nguyên tắc, chế định học thuyết pháp Ịý
quốc tế về điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế, như bình đẳng, mở cửa, không
phân biệt đối xử, tài phán lãnh sự, quyền th đắc, đãi ngộ tối hu quốc, đãi
ngộ quốc gia... Những nguyên tắc, chế định này thể hiện sự mâu thuẫn giữa
tự do thương mại với xu hướng độc chiếm thị trường nước ngoài bảo hộ
thị trường nội địa. Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiên những loại
điều ước quốc tế, như hiệp định trao đổi hàng hoá thanh tọán, thanh toán
hai bên, vận tải, bưu điên, sở hữu công nghiệp, quyền tác giả... Một loạt c
tổ chức quốc tế về kinh tế khoa học kỹ thuật được thành lập.
Sau Chiến tranh thế giới lần th n, ng với sự phát triển như bão của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã xuất hiện hàng loạt những lĩnh vực hợp
tác kinh tế mới. Lần đầu tiên, trong Hiến chương Liên hợp quốc, cộng đồng
quốc tế đã tuyên b về mục đích thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải
quyết c vấn đ quốc tế về kinh tế (khoản 3 Điều 1). Vào cuối những nãm 40,
đầu những năm 50 xuất hiện những tổ chức kinh tế quốc tế với tính liên kết
cao, như Hội đồng tương trợ kinh tế, Cộng đồng kinh tế Châu Âu. Năm 1947
Hiệp định đa phương về thương mại được kết - Hiệp định chung về thuế
quan thương mại (GATT), đánh dấu bước ngoặt quan trọng hình thành
luật kinh tế quốc tế.
Vào những năm 70, quá trình liên kết kinh tế quốc tê' diễn ra mạnh mẽ. Trong
khuôn khổ Liên hợp quốc đã hình thành xu hướng đấu tranh của các ớc
tiến trật tự kinh tế mới. Dưới áp lực của những nước này, Liên hợp
quốc đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng liên quan đến việc thiết lập
trật tự kinh tế quốc tế mới, như Tuyên bô' về việc thiết lập một trật t kinh tế
mới (Nghị quyết 320l/s -VI); Chương trình hành động nhằm xây dựng một trật
tự kinh tế quốc tế mới (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tại khoá
họp đặc biệt tháng 5/1974); Hiến chương về quyền nghĩa vụ kinh ' cùa
quốc gia (Nghị quyết 3281/XXIX tháng 12/1974). Những văn bản quốc tế này
đã khẳng định sự hình thành các nguyên tắc quy phạm của luật kinh tế
quốc tế. Đặc biệt, Tuyên bố về việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tê' mói
khẳng định mục đích xây dụng một trật tự kinh tế thế giới mới trên sở
công bằng, bình đẳng chủ quyền, hợp tác giữa các quốc gia thuộc hệ thống
kinh tế hội khác nhau nhằm loại bỏ sự bất nh đẳng, xoá bỏ khoảng cách
đang tăng lên giữa các nước đang phát triển phát triển, mọi thành viên của
cộng đồng quốc tế đều hưởng như nhau những thành quả của tiến bộ khoa
học-kỷ thuật.
Luật kinh tế quốc tế tổng thể các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh quan h
kinh tế giữa các quốc gia các chủ thể khác của luật quốc tế.
2. Nguồn của luật kinh tế quốc tế
ngành luật mới phát triển mạnh trong thế kỷ XX, các quy phạm pháp luật
kinh tế quốc tế được ghi nhận chủ yểu trong các điều ước quốc tế song
phương, đa phương. thể nói, các điều ước quốc tế đa phương ngày nay
huyết mạch của luật kinh tế quốc tế. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Hiệp
định chung về thương mại thuế quan (GATT) năm 1947 hệ thống các
Hiệp định Maraket 1994 hình thành tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
Hiện tại, việc duy trì phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia
phần lớn vẫn thông qua các điều ước song phương, trong đó phải kể đến các
hiệp ước về hữu nghị hợp tác, hiệp ước thương mại-hàng hải, hiệp định
thương mại, hiệp định thanh toán, hiệp định tín dụng, đầu tư, hợp tác khoa
học công nghệ, thuế quan, lao động ...
Bên cạnh đó, nguồn của luật kinh tế quốc tế những đặc t riêng. Điểm
đặc thù quan trọng nhất rất nhiều quyết: định của tổ chức quốc tế, hội nghị
quốc tế được coi nguồn quan trọng của luật kinh tế quốc tế. Mặc không
giá trị bắt buộc cao như điều ước quốc tế nhưng các quyết định a tổ
chức quốc tế hội nghị quốc tế trong lĩnh vực kinh tế quốc tế so với nghị
quyết trong nhiều Ehh vực hợp tác khác cùa tổ chức quốc tế các n bản
này không chỉ thuần tuý giá trị khuyến nghị” còn đưa ra căn cứ về tính
hợp pháp của hành vi của chù thể. Chính sự ràng buộc "mềm dẻo" càng
ngày các nghị quyết, quyết định cùa tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế càng
vai trò quan trọng trong luật kinh tế quốc tế.
Tập quán quốc tế áp dụng trong luật kinh tế quốc tế cũng vai trò quan
trọng. Do tính năng động của luật kinh tế quốc tế, nhiều quy định trong luật
kinh tế quốc tế, tuy hình thành chưa lâu nhưng đã tập hợp thành những tập
quán quốc tế phạm vi áp dụng rộng rãi, như nguyên tắc chủ quyền vmh
viễn của quốc gia đôì với tài nguyên thiên nhiên.
3. Các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế
3.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây nguyên tắc thể hiên sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ
hợp tác kinh tế nội dung cụ thể của đặt ra yêu cầu các quốc gia không
được phân biệt đối xử đối với thể nhân, pháp nhân của quốc gia khác, không
được đặt thể nhân, pháp nhân của quốc gia này vào vị trí thấp kém hơn so
với thể nhân, pháp nhân của quốc gia sở tại hoặc quốc gia khác. Nguyên tắc
này không đụng chạm đến quyền dành ưu đãi đặc biệt hay điều kiện đãi ngộ
ưu đãi hơn. Nói cách khác, nguyên tắc không phân biệt đối xử yêu cầu mỗi
quốc gia nghĩa vụ không được đối xử đối với một quốc gia nào đó thấp
hơn mức bình thường chung trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau.
3.2 Nguyên tắc tối huệ quốc
Đây một khía cạnh bản của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối
xử, để tạo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế ưên
lãnh thổ một quốc gia, bằng việc thừa nhận không sự phân biệt đối xử của
nước sở tại với thể nhân, pháp nhân các nước ngoài ttên lãnh thổ nước mình.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế hoặc trong quan hệ thương mại quốc tế,
nguyên tắc y được cụ thể h quy chế tối huệ quốc, trong đó quy định
việc một quốc gia kết điều ước dành cho quốc gia kết kia những ưu đãi
thuận ỉợi quốc gia đó đang hoặc sẽ dành cho bất kỳ một quốc gia thứ ba
nào khác. Trong điều ước quốc tế, nguyên tắc nêu trên tồn tại dạng "điều
khoản tối huệ quốc” trong các lĩnh vực thương mại, hàng hải, thuế quan, quá
cảnh, hạn chế cấm đoán về nhập khẩu, sử dụng cảng biển, thủ tục tố tụng,
quyền của thể nhân, pháp nhân...
Những trường hợp ngoại không áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc bao gồm:
- Những điều kiện đãi ngộ đặc biệt đối với nước láng giềng.
- Những ưu đãi, thuận lợi trong liên minh thuế quan (như EU, NAFTA,
AFTA...), mậu dịch biên giới, quá cảnh, hàng hoá những ưu đãi thuận lợi
dành cho quốc gia không biển.
- Đối xử ưu đãi dành riêng cho các nước đang phát triển.
- Đối với những hạn chế hoặc cấm đoán được quốc gia đưa ra do an
ninh, trật tự công cộng, y tể, bảo vệ thực vật, các tài sản ngh thuật, lịch sử
khảo cổ ...
3.3 Nguyên tắc đối xử quốc gia
Trên sở của nguyên tắc không phân biệt đối xử, đây cũng chế độ đối xử
được dành một cách đơn phương hoặc theo điều ước quốc tế cùa một quốc
gia dành cho pháp nhân, hàng hoá, dịch vụ nước ngoài được hưởng một chế
độ đối xử không kém thuận lợi hơn so với pháp nhân, thể nhân, hàng hoá,
dịch vụ của nước mình. Nguyên tắc y tạo ra sự bình đẳng giữa pháp nhân,
thể nhân, hàng hoá, dịch vụ nước ngoài với pháp nhân, hàng hoa, dịch vụ
trong nước.
3.4 Nguyên tắc đối xử ưu đãi
Đây ngoại lệ đối với việc áp dụng nguyên tắc tối h quốc. bao gồm
những ưu đãi, thuận lợi về thương mại, đặc biệt thuế trong khuôn khổ giữa
hai nước hay trong một nhóm nước nhất định mà không dành cho nước thứ
ba.
Trước kia, chế độ ưu đãi được áp dụng trong quan hệ giữa mẫu quốc
thuộc địa, nửa thuộc địa nhằm làm cho nền kinh tế của các nước thuộc địa
ngày càng phụ thuộc vào chính quốc, trái với các nguyên tắc bản của luật
quốc tế hiên đại. Ngày nay, nguyên tắc này mang nội dụng, mục đích hoàn
toàn khác. Theo khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại
phát triển 1964, các nước công nghiệp phát triển phải đơn phương dành cho
các nước đang phát triển một số những ưu đãi thuận lợi đặc biệt trong
thương mại đồng thời các nước đang phát triển được quyền dành riêng cho
nhau những ưu đãi, thuận lợi thương mại không mở rộng áp dụng đối với
các nước ng nghiệp phát triển.
Ưu đãi trên sở không đi, lại, lợi cho các nước đang phát triển đã
được cụ thể hoá trong Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP - 1968) H thống ưu
đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển (GSTP - 1988), được
GATT thông qua ngoại lệ đối với các nguyên tắc hoạt động của thiết chế
này.

Preview text:

Luật kinh tế quốc tế là gì? Các nguyên tắc của
luật kinh tế quốc tế
1. Khái niệm luật kinh tế quốc tế
Điều ước đầu tiên chuyên về thương mại quốc tế xuất hiên vào thế kỷ xvn.
Đầu thế kỷ XX, xuất hiện một số nguyên tắc, chế định và học thuyết pháp Ịý
quốc tế về điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế, như bình đẳng, mở cửa, không
phân biệt đối xử, tài phán lãnh sự, quyền thủ đắc, đãi ngộ tối huệ quốc, đãi
ngộ quốc gia... Những nguyên tắc, chế định này thể hiện sự mâu thuẫn giữa
tự do thương mại với xu hướng độc chiếm thị trường nước ngoài và bảo hộ
thị trường nội địa. Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiên những loại
điều ước quốc tế, như hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh tọán, thanh toán
hai bên, vận tải, bưu điên, sở hữu công nghiệp, quyền tác giả... Một loạt các
tổ chức quốc tế về kinh tế và khoa học kỹ thuật được thành lập.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ n, cùng với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã xuất hiện hàng loạt những lĩnh vực hợp
tác kinh tế mới. Lần đầu tiên, trong Hiến chương Liên hợp quốc, cộng đồng
quốc tế đã tuyên bố về mục đích thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải
quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế (khoản 3 Điều 1). Vào cuối những nãm 40,
đầu những năm 50 xuất hiện những tổ chức kinh tế quốc tế với tính liên kết
cao, như Hội đồng tương trợ kinh tế, Cộng đồng kinh tế Châu Âu. Năm 1947
Hiệp định đa phương về thương mại được kí kết - Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT), đánh dấu bước ngoặt quan trọng hình thành luật kinh tế quốc tế.
Vào những năm 70, quá trình liên kết kinh tế quốc tê' diễn ra mạnh mẽ. Trong
khuôn khổ Liên hợp quốc đã hình thành xu hướng đấu tranh của các nước
tiến bô vì trật tự kinh tế mới. Dưới áp lực của những nước này, Liên hợp
quốc đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng liên quan đến việc thiết lập
trật tự kinh tế quốc tế mới, như Tuyên bô' về việc thiết lập một trật tự kinh tế
mới (Nghị quyết 320l/s -VI); Chương trình hành động nhằm xây dựng một trật
tự kinh tế quốc tế mới (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tại khoá
họp đặc biệt tháng 5/1974); Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tê' cùa
quốc gia (Nghị quyết 3281/XXIX tháng 12/1974). Những văn bản quốc tế này
đã khẳng định sự hình thành các nguyên tắc và quy phạm của luật kinh tế
quốc tế. Đặc biệt, Tuyên bố về việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tê' mói
khẳng định rõ mục đích là xây dụng một trật tự kinh tế thế giới mới trên cơ sở
công bằng, bình đẳng chủ quyền, hợp tác giữa các quốc gia thuộc hệ thống
kinh tế xã hội khác nhau nhằm loại bỏ sự bất bình đẳng, xoá bỏ khoảng cách
đang tăng lên giữa các nước đang phát triển và phát triển, mọi thành viên của
cộng đồng quốc tế đều hưởng như nhau những thành quả của tiến bộ khoa học-kỷ thuật.
Luật kinh tế quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.
2. Nguồn của luật kinh tế quốc tế
Là ngành luật mới phát triển mạnh trong thế kỷ XX, các quy phạm pháp luật
kinh tế quốc tế được ghi nhận chủ yểu trong các điều ước quốc tế song
phương, đa phương. Có thể nói, các điều ước quốc tế đa phương ngày nay
là huyết mạch của luật kinh tế quốc tế. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Hiệp
định chung về thương mại và thuế quan (GATT) năm 1947 và hệ thống các
Hiệp định Maraket 1994 hình thành tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
Hiện tại, việc duy trì và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia
phần lớn vẫn thông qua các điều ước song phương, trong đó phải kể đến các
hiệp ước về hữu nghị và hợp tác, hiệp ước thương mại-hàng hải, hiệp định
thương mại, hiệp định thanh toán, hiệp định tín dụng, đầu tư, hợp tác khoa
học công nghệ, thuế quan, lao động ...
Bên cạnh đó, nguồn của luật kinh tế quốc tế có những đặc thù riêng. Điểm
đặc thù quan trọng nhất là rất nhiều quyết: định của tổ chức quốc tế, hội nghị
quốc tế được coi là nguồn quan trọng của luật kinh tế quốc tế. Mặc dù không
có giá trị bắt buộc cao như điều ước quốc tế nhưng các quyết định cùa tổ
chức quốc tế và hội nghị quốc tế trong lĩnh vực kinh tế quốc tế so với nghị
quyết trong nhiều Ehh vực hợp tác khác cùa tổ chức quốc tế là các văn bản
này không chỉ thuần tuý có giá trị “khuyến nghị” mà còn đưa ra căn cứ về tính
hợp pháp của hành vi của chù thể. Chính sự ràng buộc "mềm dẻo" mà càng
ngày các nghị quyết, quyết định cùa tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế càng có
vai trò quan trọng trong luật kinh tế quốc tế.
Tập quán quốc tế áp dụng trong luật kinh tế quốc tế cũng có vai trò quan
trọng. Do tính năng động của luật kinh tế quốc tế, nhiều quy định trong luật
kinh tế quốc tế, tuy hình thành chưa lâu nhưng đã tập hợp thành những tập
quán quốc tế có phạm vi áp dụng rộng rãi, như nguyên tắc chủ quyền vmh
viễn của quốc gia đôì với tài nguyên thiên nhiên.
3. Các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế
3.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây là nguyên tắc thể hiên sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ
hợp tác kinh tế mà nội dung cụ thể của nó đặt ra yêu cầu các quốc gia không
được phân biệt đối xử đối với thể nhân, pháp nhân của quốc gia khác, không
được đặt thể nhân, pháp nhân của quốc gia này vào vị trí thấp kém hơn so
với thể nhân, pháp nhân của quốc gia sở tại hoặc quốc gia khác. Nguyên tắc
này không đụng chạm đến quyền dành ưu đãi đặc biệt hay điều kiện đãi ngộ
ưu đãi hơn. Nói cách khác, nguyên tắc không phân biệt đối xử yêu cầu mỗi
quốc gia có nghĩa vụ không được đối xử đối với một quốc gia nào đó thấp
hơn mức bình thường chung trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau.
3.2 Nguyên tắc tối huệ quốc
Đây là một khía cạnh cơ bản của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối
xử, để tạo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế ưên
lãnh thổ một quốc gia, bằng việc thừa nhận không có sự phân biệt đối xử của
nước sở tại với thể nhân, pháp nhân các nước ngoài ttên lãnh thổ nước mình.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế hoặc trong quan hệ thương mại quốc tế,
nguyên tắc này được cụ thể hoá ở quy chế tối huệ quốc, trong đó quy định
việc một quốc gia ký kết điều ước dành cho quốc gia ký kết kia những ưu đãi
thuận ỉợi mà quốc gia đó đang hoặc sẽ dành cho bất kỳ một quốc gia thứ ba
nào khác. Trong điều ước quốc tế, nguyên tắc nêu trên tồn tại dạng "điều
khoản tối huệ quốc”
trong các lĩnh vực thương mại, hàng hải, thuế quan, quá
cảnh, hạn chế và cấm đoán về nhập khẩu, sử dụng cảng biển, thủ tục tố tụng,
quyền của thể nhân, pháp nhân...
Những trường hợp ngoại lê không áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc bao gồm:
- Những điều kiện đãi ngộ đặc biệt đối với nước láng giềng.
- Những ưu đãi, thuận lợi trong liên minh thuế quan (như EU, NAFTA,
AFTA...), mậu dịch biên giới, quá cảnh, hàng hoá và những ưu đãi thuận lợi
dành cho quốc gia không có biển.
- Đối xử ưu đãi dành riêng cho các nước đang phát triển.
- Đối với những hạn chế hoặc cấm đoán được quốc gia đưa ra vì lý do an
ninh, trật tự công cộng, y tể, bảo vệ thực vật, các tài sản nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ ...
3.3 Nguyên tắc đối xử quốc gia
Trên cơ sở của nguyên tắc không phân biệt đối xử, đây cũng là chế độ đối xử
được dành một cách đơn phương hoặc theo điều ước quốc tế cùa một quốc
gia dành cho pháp nhân, hàng hoá, dịch vụ nước ngoài được hưởng một chế
độ đối xử không kém thuận lợi hơn so với pháp nhân, thể nhân, hàng hoá,
dịch vụ của nước mình. Nguyên tắc này tạo ra sự bình đẳng giữa pháp nhân,
thể nhân, hàng hoá, dịch vụ nước ngoài với pháp nhân, hàng hoa, dịch vụ trong nước.
3.4 Nguyên tắc đối xử ưu đãi
Đây là ngoại lệ đối với việc áp dụng nguyên tắc tối huê quốc. Nó bao gồm
những ưu đãi, thuận lợi về thương mại, đặc biệt là thuế trong khuôn khổ giữa
hai nước hay trong một nhóm nước nhất định mà không dành cho nước thứ ba.
Trước kia, chế độ ưu đãi được áp dụng trong quan hệ giữa mẫu quốc và
thuộc địa, nửa thuộc địa nhằm làm cho nền kinh tế của các nước thuộc địa
ngày càng phụ thuộc vào chính quốc, trái với các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế hiên đại. Ngày nay, nguyên tắc này mang nội dụng, mục đích hoàn
toàn khác. Theo khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và
phát triển 1964, các nước công nghiệp phát triển phải đơn phương dành cho
các nước đang phát triển một số những ưu đãi và thuận lợi đặc biệt trong
thương mại đồng thời các nước đang phát triển được quyền dành riêng cho
nhau những ưu đãi, thuận lợi thương mại mà không mở rộng áp dụng đối với
các nước công nghiệp phát triển.
Ưu đãi trên cơ sở không có đi, có lại, có lợi cho các nước đang phát triển đã
được cụ thể hoá trong Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP - 1968) và Hệ thống ưu
đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển (GSTP - 1988), được
GATT thông qua là ngoại lệ đối với các nguyên tắc hoạt động của thiết chế này.
Document Outline

  • Luật kinh tế quốc tế là gì? Các nguyên tắc của luậ
    • 1. Khái niệm luật kinh tế quốc tế
    • 2. Nguồn của luật kinh tế quốc tế
    • 3. Các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế
      • 3.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
      • 3.2 Nguyên tắc tối huệ quốc
      • 3.3 Nguyên tắc đối xử quốc gia
      • 3.4 Nguyên tắc đối xử ưu đãi