Luật lao động là gì? Đối tượng, phương pháp điều chỉnh của luật lao động

Một khi cơ chế đấu tranh cá nhân không còn đủ mạnh để duy trì quyền lợi ở mức tối thiểu cần thiết để sinh tồn thì một cách tự nhiên NLĐ buộc phải liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh lớn hơn nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Tài liệu Tổng hợp 2.1 K tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 2.2 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 1 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Luật lao động là gì? Đối tượng, phương pháp điều chỉnh của luật lao động

Một khi cơ chế đấu tranh cá nhân không còn đủ mạnh để duy trì quyền lợi ở mức tối thiểu cần thiết để sinh tồn thì một cách tự nhiên NLĐ buộc phải liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh lớn hơn nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

23 12 lượt tải Tải xuống
Luật lao động là gì? Đối tượng, phương pháp điều chỉnh của
luật lao động
1. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động ?
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động các quan hệ hội về sử dụng lao động (quan hệ lao
động) và các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao động (quan hliên quan đến quan hệ
lao động) gồm quan hệ vviệc làm, quan hệ học nghề, quan hệ về bồi thường thiệt hại, quan hệ
về bảo hiểm xã hội, quan hệ giữa người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao động, quan
hệ về giải quyết tranh chấp lao động và các cuộc đình công, quan hệ về quản ii lao động.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động ?
+ Phương pháp thoả thuận: phương pháp y chủ yếu áp dụng trong trưởng hợp xác lập quan
hệ lao động giữa người lao động người sử dụng lao động trong việc c lập thoước lao
động tập thể;
+ Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức quản lao động, chủ yếu
được dùng để xác định nghĩa vụ của người lao động đối với người sử dụng lao động;
+ Phương pháp thông qua các hoạt động công đoàn, c động vào các quan hệ phát sinh
trong quá trình lao động: phương pháp này được sử dụng để giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong quá trình lao động có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
như: sắp xếp việc làm, điều động lao động, trả công, trả thưởng, thực hiện bảo hiểm xã hội... phải
sự tham gia của tổ chức công đoàn với cách người đại diện để bảo vệ quyền lợi của giới
lao động.
Luật lao động một khoa học pháp chuyên ngành, đối tượng nghiên cứu toàn bộ hệ
thống các quy phạm pháp luật lao động, bản chất, nội dung, sự phát sinh, phát triển của các quy
phạm; nghiên cứu những nét đặc trưng của các quan hệ pháp luật lao động; nghiên cứu các quan
điểm, khái niệm, tưởng, học thuyết pháp liên quan đến ngành luật lao động; nghiên cứu
mối quan hệ hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và pháp luật lao động.
Một môn học trong chương trình đào tạo luật theo các cấp độ khác nhau, nhằm trang bị cho
người học những hiểu biết về quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.
3. Phân tích về mối quan hệ đại diện các bên trong quan hệ lao động
Sự xuất hiện đại diện các bên quan hệ lao động hệ quả tất yếu của quá trình phát triển của nền
kinh tế thị trường phản ánh sự thay đổi về chất của hoạt động giải quyết mâu thuẫn kinh tế
trong quan hệ lao động hiện đại. Đó là bước chuyển của quy trình giải quyết xung đột lợi ích lao
động từ cấp độ nhân chuyên sang cấp độ tập thể. Theo quy luật chung của sự vận động, sự
vật, hiện tượng luôn hướng đến sự hoàn thiện.
Trong quan hệ lao động, nhân NLĐ thường yếu thế hơn so với NSDLĐ, do không sở hữu tư
liệu sản xuất do sức ép về việc làm. Nếu chỉ dựa vào nhân, Nsẽ khó đấu tranh bảo vệ
quyền lợi ích của mình. Do đó, họ cần phải đoàn kết, tập hợp nhau lại, tạo nên sức mạnh đấu
tranh với NSDLĐ. Tuy nhiên, cũng chính sự xuất hiện tổ chức đại diện bên lao động đã kéo theo
sự liên kết phía NSDLĐ để thực thi vai trò thương lượng.
Sự xuất hiện của hoạt động đại diện chính là sự bù đắp tất yếu cho những thuộc tính được xem là
“hạn chế” riêng của quan hệ lao động, nhằm giữ mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ đặc biệt này
trong trạng thái cân bằng tương đối để thtiếp tục duy trì, ổn định phát triển. Giải quyết
xung đột lợi ích cấp độ tập thể nghĩa cái tôi biệt chủ quan sẽ nhường chỗ cho cái chung,
cho những lợi ích phổ quát, khách quan hơn. Sự phát triển của các tổ chức đại diện các bên
tiền đề để tạo ra thương lượng tập thể cấp độ cao, cho phép phân phối các lợi ích hợp
công bằng hơn.
Nghiên cứu quá trình phát triển của thị trường lao động cho thấy khi các bên liên kết mức cao,
như cấp ngành hay liên ngành, thì trong thương lượng tập thể giữa họ lợi ích chung của hội
sẽ được nh đến. Bởi khi đó hoạt động đại diện của các bên cũng như thoả thuận họ thực
hiện sẽ bao trùm một số lớn các đơn vị sử dụng lao động. Những mối quan tâm sẽ mang tính
cộng đồng công luận trở thành yếu tố không thể bỏ qua. Các nhà nghiên cứu cho rằng hoàn
cảnh đó đại diện của các bên không cách lựa chọn nào khác “phải hành xử một cách
trách nhiệm”} vậy, sự xuất hiện của hoạt động đại diện trên thị trường lao động, một cách tự
nhiên cũng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
ràng tổ chức đại diện vai trò lớn vai trò đó cần được phát huy đầy đủ. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy pháp luật với chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thể thúc đẩy những xu
hướng tích cực tạo sự hài hòa trong quan hệ lao động và thúc đẩy kinh tế phát triển song cũng có
thể làm hạn chế vai trò tích cực của các tổ chức đại diện trong quan hệ lao động. Tổ chức Lao
động quốc tế - quan sứ mệnh '‘thúc đẩy hội việc làm tốt thu nhập cho mọi
người trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn đảm bảo nhân phẩm luôn khuyến nghị các
quốc gia thực hiện tự do liên kết, hiệp hội, tự do công đoàn và thương lượng tập thể và coi đây là
những tiêu chuẩn pháp quốc tế quan trọng bậc nhất. Trong số các công ước của Tổ chức Lao
động quốc tế, Công ước số 87 năm 1948 về quyền tự do hiệp hội về việc bảo vệ quyền được
tổ chức được xem quan trọng số 1, Công ước số 98 năm 1949 về Quyền tổ chức thương
lượng tập thể (Right to Organise and Collective Bargaining Convention, 1949) được xem là quan
trọng thứ 2. Xem: http://www.ilo.org/global/standards/introduction-to-intemational- labour-
standards/conventions-and-recommendatìons/lang--en/index.htm Công ước số 98 đã được Quốc
hội Việt Nam khóa XIV phê chuẩn việc gia nhập ngày 14/6/2019.
Cơ quan này cũng nhấn mạnh việc bảo vệ các tổ chức đại diện của các bên quan hệ lao động, đặc
biệt công đoàn, không bị ảnh hưởng sự can thiệp từ các lực lượng bên ngoài vào quá trình
thành lập, vận hành cũng như quản lí của chúng.
Tựu trung lại, để thực hiện hiệu quả vai trò của mình, tổ chức đại diện phải được phát triển trong
một môi trường dân chủ trong đó quan trọng nhất chúng phải sự độc lập về mặt tổ chức
kinh tế. Slệ thuộc về phương diện tổ chức tài chính dễ dẫn đến sự suy yếu hoặc biến dạng
của vai trò đại diện. Chỉ khi sự tự chủ và trách nhiệm của các tổ chức đại diện được đề cao, tiềm
năng con người mới được giải phóng, khi đó sản phâm đích thực của hoạt động đại diện
hoạt động đại diện được thực hiện với hiệu quả kinh tế hội cao. Cũng với tinh thần đó, Nhà
nước, với cách quan quản hoạt động chung của xã hội, cần dành cho các bên không
gian cần thiết (thể tham khảo tiêu chuẩn lao động quốc tế để thực hiện điều này), tránh can
thiệp quá sâu vào hoạt động đại diện của các bên.
Như vậy khi nghiên cứu về đại diện trong quan hệ lao động cần chú ý một số điểm:
Thứ nhất, sự ra đời, xuất hiện của tổ chức đại diện nhu cầu nh tự thân tất yếu trong
quan hệ lao động kể từ khi sức lao động được coi là hàng hóa và NLĐ với tư cách là người tự do
đem nó ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nó không phải là kết quả từ ý chí của nhà nước hay
mong muốn chủ quan của bất cứ ai.
Thứ hai, tổ chức đại diện trong quan hệ lao động về bản chất tổ chức tự nguyện vận hành
theo cơ chế thành viên. Tuy nhiên, sự tự nguyện này chỉ thực sự tồn tại khi các cá nhân có cơ hội
để lựa chọn như vậy việc thừa nhận một thị trường lao động tồn tại nhiều tổ chức đại diện
dường như là điều kiện thiết yếu và đương nhiên của tự do lựa chọn tổ chức đại diện.
Thứ ba, để đảm bảo tính chân thực và hiệu quả của hóạt động đại diện trong quan hệ với các chủ
thể khác trong chế hai bên (NLĐ NSDLĐ) hay ba bên (nhà nước, công đoàn NSDLĐ)
tổ chức đại diện không nên những lệ thuộc vào bất đối tác nào, đặc biệt về phương diện tổ
chức hay tài chính.
Như vậy, đại diện các bên quan hệ lao động sản phẩm của nền kinh tế thị trường, bao gồm
(các) tổ chức độc lập của bên lao động và bên sử dụng lao động, được lập ra theo chí, nguyện
vọng của nhân NLĐ NSDnhằm thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ, duy trì phát
triển lợi ích của mỗi bên trong mối quan hệ của họ đổi với nhau cũng như với các chủ thể khác
trong thị trường lao động.
4. Sự hình thành và phát triển đại diện bên tập thể lao động ?
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa trong đó hoạt động sản xuất, tiêu thụ và phân phối
được thực hiện trên shao đổi hàng hóa tiền tệ cùng sự tồn tại chi phối của quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu... Quan hệ lao động một phần của nền kinh tế đó,
được tạo nên bởi các chủ thể trên thị trường lao động với những mục đích động làm việc
riêng. NSD mong muốn tăng lợi nhuận, còn NLĐ mong muốn công ăn việc làm, tiền
lương cao và ổn định để trang trải cuộc sống.
thế, hai chủ thể y cùng dựa vào nhau để mưu cẩu những lợi ích chung riêng cho mình,
về bản chất, quyền và lợi ích của hai chủ thể này ở hai phía đối trọng. NSDLĐ luôn tìm mọi cách
để giảm các chi phí như: tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc... hoặc tăng thời gian làm việc,
cho thôi việc NLĐ khi không cần thiết... Ngược lại, NLĐ mong muốn được tăng lương, cải thiện
điều kiện làm việc, được duy trì việc làm... đòi hỏi các quyền lợi khác như: quyền được làm
việc và nghỉ ngơi hợp lí, quyền được bảo hiểm... - những điều đòi hỏi NSDLĐ phải đầu nhiều
hơn...
Yếu tố cạnh tranh nguyên nhân dẫn đến việc các nhà sản xuất phải kiểm soát các chi phí thận
trọng. Họ cũng muốn ng năng suất hiệu quả sản xuất kinh doanh để được lợi nhuận,
thể duy trì và phát triển doanh nghiệp. Lao động một trong các chi phí đó chính sự kiểm
soát, hạn chế chi phí lao động yếu tố tất yếu y ra những tác động bất lợi cho những người
làm công. Như vậy, mâu thuẫn đấu tranh về lợi ích kinh tế trong quan hệ lao động thuộc
tính tự nhiên của quan hệ này nhưng sự đấu tranh giữa các bên nhằm phân chia “công bằng”
những gì họ làm ra chỉ trở nên quyết liệt, công khai hơn khi có sự tham gia của số đông lao động
đó cũng lúc kinh tế thị trường đã phát triển đến mức cao. Hệ quả của cạnh tranh tàn khốc
giữa các nhà sản xuất sự cắt giảm chi phí lao động tăng cao khiến bên lao động rơi vào tình
cảnh tồi tệ như: lương thấp không đủ sống, cường độ làm việc quá cao, thời giờ làm việc quá dài
vượt quá ngưỡng chịu đựng của con người...
Một khi chế đấu tranh nhân không còn đủ mạnh để duy trì quyền lợi mức tối thiểu cần
thiết để sinh tồn thì một cách tự nhiên NLĐ buộc phải liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh
lớn hơn nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình. Như vậy, công đoàn xuất hiện kết quả tất yếu
của quá trình phát triển phong trào công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường, giúp cho tiếng
nói của công nhân gây được những ảnh hưởng đến quyết định của NSDLĐ.
| 1/4

Preview text:

Luật lao động là gì? Đối tượng, phương pháp điều chỉnh của luật lao động
1. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động ?
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là các quan hệ xã hội về sử dụng lao động (quan hệ lao
động) và các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao động (quan hệ liên quan đến quan hệ
lao động) gồm quan hệ về việc làm, quan hệ học nghề, quan hệ về bồi thường thiệt hại, quan hệ
về bảo hiểm xã hội, quan hệ giữa người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao động, quan
hệ về giải quyết tranh chấp lao động và các cuộc đình công, quan hệ về quản ii lao động.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động ?
+ Phương pháp thoả thuận: phương pháp này chủ yếu áp dụng trong trưởng hợp xác lập quan
hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động và trong việc xác lập thoả ước lao động tập thể;
+ Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức và quản lí lao động, chủ yếu
được dùng để xác định nghĩa vụ của người lao động đối với người sử dụng lao động;
+ Phương pháp thông qua các hoạt động công đoàn, tác động vào các quan hệ phát sinh
trong quá trình lao động: phương pháp này được sử dụng để giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong quá trình lao động có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
như: sắp xếp việc làm, điều động lao động, trả công, trả thưởng, thực hiện bảo hiểm xã hội... phải
có sự tham gia của tổ chức công đoàn với tư cách là người đại diện để bảo vệ quyền lợi của giới lao động.
Luật lao động là một khoa học pháp lí chuyên ngành, có đối tượng nghiên cứu là toàn bộ hệ
thống các quy phạm pháp luật lao động, bản chất, nội dung, sự phát sinh, phát triển của các quy
phạm; nghiên cứu những nét đặc trưng của các quan hệ pháp luật lao động; nghiên cứu các quan
điểm, khái niệm, tư tưởng, học thuyết pháp lí có liên quan đến ngành luật lao động; nghiên cứu
mối quan hệ hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và pháp luật lao động.
Một môn học trong chương trình đào tạo luật theo các cấp độ khác nhau, nhằm trang bị cho
người học những hiểu biết về quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.
3. Phân tích về mối quan hệ đại diện các bên trong quan hệ lao động
Sự xuất hiện đại diện các bên quan hệ lao động là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển của nền
kinh tế thị trường và phản ánh sự thay đổi về chất của hoạt động giải quyết mâu thuẫn kinh tế
trong quan hệ lao động hiện đại. Đó là bước chuyển của quy trình giải quyết xung đột lợi ích lao
động từ cấp độ cá nhân chuyên sang cấp độ tập thể. Theo quy luật chung của sự vận động, sự
vật, hiện tượng luôn hướng đến sự hoàn thiện.
Trong quan hệ lao động, cá nhân NLĐ thường yếu thế hơn so với NSDLĐ, do không sở hữu tư
liệu sản xuất và do sức ép về việc làm. Nếu chỉ dựa vào cá nhân, NLĐ sẽ khó đấu tranh bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Do đó, họ cần phải đoàn kết, tập hợp nhau lại, tạo nên sức mạnh đấu
tranh với NSDLĐ. Tuy nhiên, cũng chính sự xuất hiện tổ chức đại diện bên lao động đã kéo theo
sự liên kết phía NSDLĐ để thực thi vai trò thương lượng.
Sự xuất hiện của hoạt động đại diện chính là sự bù đắp tất yếu cho những thuộc tính được xem là
“hạn chế” riêng có của quan hệ lao động, nhằm giữ mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ đặc biệt này
trong trạng thái cân bằng tương đối để có thể tiếp tục duy trì, ổn định và phát triển. Giải quyết
xung đột lợi ích ở cấp độ tập thể nghĩa là cái tôi cá biệt chủ quan sẽ nhường chỗ cho cái chung,
cho những lợi ích phổ quát, khách quan hơn. Sự phát triển của các tổ chức đại diện các bên là
tiền đề để tạo ra thương lượng tập thể ở cấp độ cao, cho phép phân phối các lợi ích hợp lí và công bằng hơn.
Nghiên cứu quá trình phát triển của thị trường lao động cho thấy khi các bên liên kết ở mức cao,
như ở cấp ngành hay liên ngành, thì trong thương lượng tập thể giữa họ lợi ích chung của xã hội
sẽ được tính đến. Bởi khi đó hoạt động đại diện của các bên cũng như thoả thuận mà họ thực
hiện sẽ bao trùm một số lớn các đơn vị sử dụng lao động. Những mối quan tâm sẽ mang tính
cộng đồng và công luận trở thành yếu tố không thể bỏ qua. Các nhà nghiên cứu cho rằng ở hoàn
cảnh đó đại diện của các bên không có cách lựa chọn nào khác là “phải hành xử một cách có
trách nhiệm”} Vì vậy, sự xuất hiện của hoạt động đại diện trên thị trường lao động, một cách tự
nhiên cũng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Rõ ràng tổ chức đại diện có vai trò lớn và vai trò đó cần được phát huy đầy đủ. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy pháp luật với chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội có thể thúc đẩy những xu
hướng tích cực tạo sự hài hòa trong quan hệ lao động và thúc đẩy kinh tế phát triển song cũng có
thể làm hạn chế vai trò tích cực của các tổ chức đại diện trong quan hệ lao động. Tổ chức Lao
động quốc tế - cơ quan có sứ mệnh '‘thúc đẩy cơ hội có việc làm tốt và có thu nhập cho mọi
người trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn và đảm bảo nhân phẩm ”
luôn khuyến nghị các
quốc gia thực hiện tự do liên kết, hiệp hội, tự do công đoàn và thương lượng tập thể và coi đây là
những tiêu chuẩn pháp lí quốc tế quan trọng bậc nhất. Trong số các công ước của Tổ chức Lao
động quốc tế, Công ước số 87 năm 1948 về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được
tổ chức được xem là quan trọng số 1, Công ước số 98 năm 1949 về Quyền tổ chức và thương
lượng tập thể (Right to Organise and Collective Bargaining Convention, 1949) được xem là quan
trọng thứ 2. Xem: http://www.ilo.org/global/standards/introduction-to-intemational- labour-
standards/conventions-and-recommendatìons/lang--en/index.htm Công ước số 98 đã được Quốc
hội Việt Nam khóa XIV phê chuẩn việc gia nhập ngày 14/6/2019.
Cơ quan này cũng nhấn mạnh việc bảo vệ các tổ chức đại diện của các bên quan hệ lao động, đặc
biệt là công đoàn, không bị ảnh hưởng sự can thiệp từ các lực lượng bên ngoài vào quá trình
thành lập, vận hành cũng như quản lí của chúng.
Tựu trung lại, để thực hiện hiệu quả vai trò của mình, tổ chức đại diện phải được phát triển trong
một môi trường dân chủ trong đó quan trọng nhất chúng phải có sự độc lập về mặt tổ chức và
kinh tế. Sự lệ thuộc về phương diện tổ chức và tài chính dễ dẫn đến sự suy yếu hoặc biến dạng
của vai trò đại diện. Chỉ khi sự tự chủ và trách nhiệm của các tổ chức đại diện được đề cao, tiềm
năng con người mới được giải phóng, khi đó có sản phâm đích thực của hoạt động đại diện và
hoạt động đại diện được thực hiện với hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cũng với tinh thần đó, Nhà
nước, với tư cách là cơ quan quản lí hoạt động chung của xã hội, cần dành cho các bên không
gian cần thiết (có thể tham khảo tiêu chuẩn lao động quốc tế để thực hiện điều này), tránh can
thiệp quá sâu vào hoạt động đại diện của các bên.
Như vậy khi nghiên cứu về đại diện trong quan hệ lao động cần chú ý một số điểm:
Thứ nhất, sự ra đời, xuất hiện của tổ chức đại diện là nhu cầu có tính tự thân và tất yếu trong
quan hệ lao động kể từ khi sức lao động được coi là hàng hóa và NLĐ với tư cách là người tự do
đem nó ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nó không phải là kết quả từ ý chí của nhà nước hay
mong muốn chủ quan của bất cứ ai.
Thứ hai, tổ chức đại diện trong quan hệ lao động về bản chất là tổ chức tự nguyện và vận hành
theo cơ chế thành viên. Tuy nhiên, sự tự nguyện này chỉ thực sự tồn tại khi các cá nhân có cơ hội
để lựa chọn và như vậy việc thừa nhận một thị trường lao động tồn tại nhiều tổ chức đại diện
dường như là điều kiện thiết yếu và đương nhiên của tự do lựa chọn tổ chức đại diện.
Thứ ba, để đảm bảo tính chân thực và hiệu quả của hóạt động đại diện trong quan hệ với các chủ
thể khác trong cơ chế hai bên (NLĐ và NSDLĐ) hay ba bên (nhà nước, công đoàn và NSDLĐ)
tổ chức đại diện không nên có những lệ thuộc vào bất kì đối tác nào, đặc biệt về phương diện tổ chức hay tài chính.
Như vậy, đại diện các bên quan hệ lao động là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, bao gồm
(các) tổ chức độc lập của bên lao động và bên sử dụng lao động, được lập ra theo ỷ chí, nguyện
vọng của cá nhân NLĐ và NSDLĐ nhằm thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ, duy trì và phát
triển lợi ích của mỗi bên trong mối quan hệ của họ đổi với nhau cũng như với các chủ thể khác
trong thị trường lao động.
4. Sự hình thành và phát triển đại diện bên tập thể lao động ?
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa trong đó hoạt động sản xuất, tiêu thụ và phân phối
được thực hiện trên cơ sở hao đổi hàng hóa tiền tệ cùng sự tồn tại và chi phối của quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu... Quan hệ lao động là một phần của nền kinh tế đó,
được tạo nên bởi các chủ thể trên thị trường lao động với những mục đích và động cơ làm việc
riêng. NSDLĐ mong muốn tăng lợi nhuận, còn NLĐ mong muốn có công ăn việc làm, tiền
lương cao và ổn định để trang trải cuộc sống.
Vì thế, hai chủ thể này cùng dựa vào nhau để mưu cẩu những lợi ích chung và riêng cho mình,
về bản chất, quyền và lợi ích của hai chủ thể này ở hai phía đối trọng. NSDLĐ luôn tìm mọi cách
để giảm các chi phí như: tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc... hoặc tăng thời gian làm việc,
cho thôi việc NLĐ khi không cần thiết... Ngược lại, NLĐ mong muốn được tăng lương, cải thiện
điều kiện làm việc, được duy trì việc làm... và đòi hỏi các quyền lợi khác như: quyền được làm
việc và nghỉ ngơi hợp lí, quyền được bảo hiểm... - những điều đòi hỏi NSDLĐ phải đầu tư nhiều hơn...
Yếu tố cạnh tranh là nguyên nhân dẫn đến việc các nhà sản xuất phải kiểm soát các chi phí thận
trọng. Họ cũng muốn tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh để có được lợi nhuận, có
thể duy trì và phát triển doanh nghiệp. Lao động là một trong các chi phí đó và chính sự kiểm
soát, hạn chế chi phí lao động là yếu tố tất yếu gây ra những tác động bất lợi cho những người
làm công. Như vậy, mâu thuẫn và đấu tranh về lợi ích kinh tế trong quan hệ lao động là thuộc
tính tự nhiên của quan hệ này nhưng sự đấu tranh giữa các bên nhằm phân chia “công bằng”
những gì họ làm ra chỉ trở nên quyết liệt, công khai hơn khi có sự tham gia của số đông lao động
và đó cũng là lúc kinh tế thị trường đã phát triển đến mức cao. Hệ quả của cạnh tranh tàn khốc
giữa các nhà sản xuất là sự cắt giảm chi phí lao động tăng cao khiến bên lao động rơi vào tình
cảnh tồi tệ như: lương thấp không đủ sống, cường độ làm việc quá cao, thời giờ làm việc quá dài
vượt quá ngưỡng chịu đựng của con người...
Một khi cơ chế đấu tranh cá nhân không còn đủ mạnh để duy trì quyền lợi ở mức tối thiểu cần
thiết để sinh tồn thì một cách tự nhiên NLĐ buộc phải liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh
lớn hơn nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình. Như vậy, công đoàn xuất hiện là kết quả tất yếu
của quá trình phát triển phong trào công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường, giúp cho tiếng
nói của công nhân gây được những ảnh hưởng đến quyết định của NSDLĐ.