



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601299
TÀI LIỆU TRIẾT LÍ LUẬN + VẬN DỤNG
Câu 0: Nguồn gốc, bản chất của ý thức
Ý thức đã trở thành phạm trù được nhiều quan điểm triết học bàn luận. Với quan niệm duy tâm, ý
thức là một thực thể tinh thần độc lập với bản tính năng động, ý thức sáng tạo ra vật chất, không chỉ thừa
nhận mà còn tuyệt đối hóa tính năng động sáng tạo của ý thức, coi ý thức là sự phản ánh của vật chất và
sáng tạo ra thế giới vật chất. Với quan niệm duy vật, ý thức là sự phản ánh một cách thụ động, đơn giản,
máy móc sự vật vật chất tồn tại khách quan vào bộ óc người, chủ nghĩa này dù thấy được tính phản ánh vật
chất của ý thức nhưng không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, không thấy được tính biện
chứng của quá trình phản ánh của ý thức.
Đến quan niệm của duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nguồn gốc của ý thức xuất
phát từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Với nguồn gốc tự nhiên, ý thức là một thuộc tính của dạng
vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài. Cùng với bộ
óc người, ý thức còn là sản phẩm do quá trình phát triển lâu dài của năng lực phản ánh ở vật chất - phản
ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người.
Với nguồn gốc xã hội, ý thức hình thành từ hoạt động thực tiễn của con người qua lao động sản xuất, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội của con người. Như vậy, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã
hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Đi sâu vào bản chất của ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng đưa ra những nội dung sau:
Một là, về bản chất phản ánh của ý thức - ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Vật
chất và ý thức là những cái đối lập không thể tách rời nhau. Cái được phản ánh (vật chất) là hiện thực khách
quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh (ý thức). Cái phản ánh (ý thức) là hiện thực chủ quan, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định. Ngoài ra, vật
chất và ý thức là những cái đối lập không thể đồng nhất nhau. Nếu coi cái phản ánh (ý thức) là hiện tượng
vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh, làm mất đi sự đối lập giữa vật chất và ý thức,
nghĩa là mất đi đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Hai là, về bản chất sáng tạo của ý thức - ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của óc người: Ý thức không phải là sự phản ánh bằng những hình ảnh mang tính vật lý hay tâm lý
động vật về thế giới mà là sự phản ánh bằng những hình tượng, tư tưởng tinh thần của con người. Trên cơ
sở những cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không
có trong thực tế, tiên đoán, dự báo, ảo tưởng hay những giả thuyết khoa học trừu tượng cao,… Ý thức chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi trong đó. Ngoài ra, ý thức lOMoAR cPSD| 61601299
của con người ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới cho nên nó có tính năng động,
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu và điều kiện của thực tiễn xã hội. Vì vậy, quá trình phản ánh năng động
sáng tạo của ý thức với hiện thực khách quan luôn thống nhất ba mặt: trao đổi thông tin qua lại giữa chủ thể
và khách thể phản ánh có tính định hướng, chọn lọc; mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần; chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn.
Ba là, về bản chất xã hội của ý thức - ý thức mang bản chất xã hội: Ý thức có nguồn gốc xã hội từ
điều kiện, thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội. Ý thức bị quy định bởi các điều kiện
sinh hoạt hiện thực xã hội và nhu cầu giao tiếp xã hội của con người. Ví dụ, tập quán văn hóa của một cộng
đồng phản ánh ý thức xã hội được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giáo dục và sinh hoạt tập thể.
Bốn là, bản chất sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức thống nhất với nhau trong
hoạt động thực tiễn của con người: Phản ánh của ý thức là phản ánh sáng tạo, sáng tạo của ý thức là sáng
tạo dựa trên phản ánh. Phản ánh sáng tạo hay sáng tạo dựa trên phản ánh đều bị chi phối bởi nhu cầu thực
tiễn đời sống xã hội.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Trong triết học Mác - Lênin, ý thức được coi là sự phản ánh của vật chất trong tư duy con người và
có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển con người. Đối với sinh viên, việc phát triển ý thức tự giác
trong học tập là một yếu tố quyết định trong việc đạt được thành công. Khi sinh viên nhận thức rõ về mục
tiêu học tập, ý thức tự giác sẽ thúc đẩy họ chủ động hơn trong việc học tập, nghiên cứu và rèn luyện. Việc
phát triển ý thức tự giác giúp sinh viên không chỉ học để thi cử mà còn học vì sự tiến bộ và phát triển bản
thân, từ đó nâng cao chất lượng học tập và đạt được kết quả cao.
Ý thức không chỉ phản ánh nhu cầu cá nhân mà còn liên quan đến trách nhiệm xã hội. Trong môi
trường học tập, sinh viên cần phát triển ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng học thuật, nghĩa là không chỉ
học để đạt thành tích cá nhân mà còn để đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội. Sinh viên có ý thức
trách nhiệm sẽ tham gia tích cực vào các hoạt động học thuật, trao đổi kiến thức, nghiên cứu khoa học và
giúp đỡ bạn bè. Điều này không chỉ giúp họ học hỏi thêm nhiều điều mà còn tạo ra một môi trường học tập
sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển chung.
Phát triển ý thức về nghề nghiệp tương lai là một yếu tố quan trọng trong học tập của sinh viên theo
triết học Mác - Lênin. Ý thức về nghề nghiệp giúp sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn trang bị cho
mình các kỹ năng, kiến thức và thái độ phù hợp với yêu cầu thực tế của nghề nghiệp. Khi sinh viên phát
triển ý thức về nghề nghiệp, họ sẽ chủ động tìm hiểu các lĩnh vực chuyên môn, tham gia các khóa đào tạo lOMoAR cPSD| 61601299
bổ sung, và thực hành để tích lũy kinh nghiệm. Ý thức về nghề nghiệp còn giúp sinh viên nhìn nhận tầm
quan trọng của việc học, từ đó nỗ lực hơn trong việc hoàn thiện bản thân, đáp ứng nhu cầu xã hội và đóng
góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ý thức không chỉ là sự tiếp thu kiến thức mà còn là khả năng phản biện và sáng tạo. Đối với sinh
viên, việc phát triển tư duy phản biện là một yếu tố quan trọng trong học tập. Sinh viên cần học cách không
chỉ tiếp thu kiến thức mà còn phải biết đặt câu hỏi, phân tích và đánh giá thông tin, từ đó hình thành tư duy
độc lập và sáng tạo. Phát triển ý thức phản biện giúp sinh viên không chỉ học một cách thụ động mà còn
chủ động tìm tòi, sáng tạo và giải quyết vấn đề một cách có hệ thống. Điều này sẽ giúp sinh viên có khả
năng ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn, cải thiện chất lượng học tập và góp phần vào sự phát triển xã hội.
Triết học Mác - Lênin nhấn mạnh rằng sự phát triển của con người không thể tách rời khỏi sự phát
triển của xã hội và môi trường xung quanh. Sinh viên cần phát triển ý thức về sự phát triển bền vững trong
học tập, tức là học không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn phải nghĩ đến tác động lâu dài của sự phát triển đó
đối với cộng đồng và xã hội. Việc phát triển ý thức này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của mình trong
việc đóng góp cho sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và phát triển xã hội công bằng. Từ đó, sinh
viên sẽ có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng tài nguyên, nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp bền vững
trong học tập cũng như trong công việc tương lai.
Một trong những ứng dụng quan trọng của triết học Mác - Lênin trong học tập là phát triển ý thức
học tập suốt đời. Theo quan điểm của Mác - Lênin, con người cần có ý thức tự giác trong việc cải thiện bản
thân và phát triển năng lực không ngừng. Sinh viên cần nhận thức rằng học tập không chỉ giới hạn trong
thời gian học ở trường mà là quá trình liên tục trong suốt cuộc đời. Phát triển ý thức học tập suốt đời giúp
sinh viên luôn chủ động trong việc tìm kiếm kiến thức mới, cải thiện kỹ năng và thích ứng với sự thay đổi
của xã hội. Đồng thời, khả năng tự học giúp sinh viên trở nên độc lập, sáng tạo và tự tin trong việc giải
quyết các vấn đề trong học tập và công việc.
Triết học Mác - Lênin cho rằng sự thay đổi và phát triển là quy luật tự nhiên của thế giới. Trong học
tập, sinh viên cần phát triển ý thức về sự thay đổi và khả năng thích ứng với những thay đổi trong phương
pháp học tập, yêu cầu của xã hội và công nghệ. Khi có ý thức về sự thay đổi, sinh viên sẽ chủ động trong
việc tiếp thu các phương pháp học tập mới, ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập, và tích lũy các kỹ
năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều này giúp sinh viên không chỉ tiếp thu
kiến thức mà còn phát triển bản thân một cách toàn diện và sẵn sàng đối mặt với những thử thách trong
công việc và cuộc sống.
Phát triển ý thức trong triết học Mác - Lênin không chỉ là việc tiếp thu kiến thức một cách thụ động,
mà là quá trình hình thành và phát triển các giá trị tư tưởng, trách nhiệm xã hội và khả năng tự chủ trong lOMoAR cPSD| 61601299
học tập. Đối với sinh viên, việc phát triển ý thức trong học tập giúp họ có sự tự giác, sáng tạo, trách nhiệm
và khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tế. Đồng thời, phát triển ý thức còn giúp sinh viên hình thành
những phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực cá nhân và đóng góp tích cực cho xã hội.
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất: Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động. Vật
chất vận động trong không gian và thời gian; Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các
dạng vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.
Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên: Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài
của vật chất. Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác
nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành
phản ánh ý thức của con người.
Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của loài người
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vật chất quyết định ý thức:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức
chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất
trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu
sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: lOMoAR cPSD| 61601299
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được
dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức:
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý
thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh. Ví dụ: Tục ngữ có câu “có
thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định
lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần.
Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc
vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp
tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con
người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay,
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các
chủ thể hoạt động. Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta
chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều lOMoAR cPSD| 61601299
này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất,
tạo sự phát triển cho vật chất.
Ý nghĩa phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính khách
quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích cực, sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan, tức phải nhận thức và giải quyết các quan hệ lợi ích,
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể, xã hội, đồng thời phải có động cơ trong sáng, thái độ khách quan,
khoa học trong nhận thức và hành động.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Trong triết học Mác - Lênin, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cho thấy rằng vật chất
tồn tại độc lập, còn ý thức là sự phản ánh của vật chất trong tư duy con người. Trong đời sống học tập của
sinh viên, điều này thể hiện qua việc học sinh viên phải tiếp thu và làm chủ kiến thức, công cụ (vật chất)
từ sách vở, tài liệu học tập, giảng viên và môi trường học tập. Những yếu tố vật chất này tạo nền tảng cho
quá trình hình thành và phát triển tư duy, ý thức của sinh viên. Tuy nhiên, tư duy, nhận thức của sinh viên
cũng có ảnh hưởng trở lại đối với việc tiếp thu và vận dụng kiến thức, góp phần làm phong phú thêm môi
trường học tập và nâng cao chất lượng học thuật.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cũng thể hiện rõ qua vai trò của ý thức tự giác trong
học tập. Sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn cần phải có ý thức tự giác học tập để vượt qua những
khó khăn, thử thách trong học đường. Khi sinh viên có sự nhận thức đúng đắn về mục tiêu học tập và rèn
luyện, ý thức tự giác sẽ thúc đẩy họ nỗ lực hơn trong việc vận dụng các công cụ học tập (sách vở, tài liệu,
công nghệ,…) vào quá trình học. Đây là sự tương tác biện chứng giữa ý thức và vật chất: ý thức của sinh
viên giúp họ sử dụng các phương tiện học tập một cách hiệu quả, đồng thời sự tiến bộ trong học tập sẽ thúc
đẩy ý thức tự giác, giúp họ tiếp tục nỗ lực và hoàn thiện bản thân. lOMoAR cPSD| 61601299
Môi trường học tập, các công cụ vật chất như giảng viên, tài liệu học tập, các cơ sở vật chất, đều có
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển tư duy của sinh viên. Khi sinh viên được tiếp cận
với môi trường học tập đầy đủ và hiện đại, tư duy và ý thức của họ sẽ phát triển theo một hướng tích cực.
Điều này phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: khi các yếu tố vật chất như cơ sở vật
chất và phương tiện học tập được cải thiện, ý thức học tập của sinh viên cũng có sự thay đổi, từ việc tiếp
thu thụ động sang việc học chủ động và sáng tạo hơn. Ngược lại, nếu môi trường học tập nghèo nàn, thiếu
thốn, sinh viên có thể sẽ gặp khó khăn trong việc hình thành và phát triển tư duy, ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
Trong học tập, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức còn thể hiện ở việc sinh viên vận
dụng lý thuyết vào thực tế. Lý thuyết, mặc dù là sản phẩm của tư duy con người, chỉ có thể thực sự có giá
trị khi được ứng dụng vào thực tiễn. Sinh viên không chỉ học lý thuyết từ sách vở mà còn cần có khả năng
phản biện, sáng tạo và vận dụng những kiến thức đó vào những tình huống thực tế. Việc sinh viên tham gia
vào các dự án nghiên cứu, thực tập, hoạt động ngoại khóa là một minh chứng cho sự tương tác giữa vật chất
(các công cụ, tài liệu, công nghệ) và ý thức (khả năng tư duy, sáng tạo, áp dụng kiến thức vào thực tiễn).
Quá trình này không chỉ giúp sinh viên củng cố và phát triển kỹ năng, mà còn tác động ngược lại làm phong
phú thêm tư duy và hiểu biết của họ.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong học tập cũng thể hiện ở việc sinh viên phát
triển năng lực tư duy thông qua sự tương tác với các công cụ học tập. Các công cụ như máy tính, phần mềm
học tập, internet, tài liệu điện tử,… là những yếu tố vật chất quan trọng giúp sinh viên nâng cao năng lực tư
duy và học tập. Tuy nhiên, sự phát triển năng lực tư duy không chỉ đơn giản là việc sử dụng các công cụ
này, mà là cách sinh viên hiểu và vận dụng chúng một cách sáng tạo. Tư duy sáng tạo và khả năng phản
biện của sinh viên có thể tạo ra những ứng dụng mới từ các công cụ học tập hiện có, từ đó phát triển các
công cụ học tập mới. Đây là một quá trình biện chứng trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức còn thể hiện ở sự tương tác giữa hành động và phản
ánh. Trong học tập, hành động của sinh viên như việc tham gia thảo luận, nghiên cứu, làm bài tập là những
hoạt động vật chất, nhưng chúng phản ánh sự phát triển của ý thức, tư duy và năng lực của sinh viên. Ngược
lại, những kiến thức đã học và ý thức về việc học tập sẽ phản ánh lại trong hành động của sinh viên, giúp
họ tiếp tục nỗ lực và đạt được kết quả cao hơn. Quá trình này là một chu trình biện chứng, trong đó hành
động và phản ánh tác động qua lại, thúc đẩy sự phát triển không ngừng của sinh viên.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức không chỉ thể hiện trong việc học các môn học lý
thuyết mà còn trong việc phát triển toàn diện của sinh viên. Sự phát triển tư duy và kỹ năng của sinh viên
không chỉ phụ thuộc vào việc học lý thuyết mà còn cần sự tác động của các yếu tố vật chất như môi trường lOMoAR cPSD| 61601299
học tập, các hoạt động ngoại khóa, thực tập và nghiên cứu. Quá trình học tập giúp sinh viên hình thành ý
thức về nghề nghiệp, phát triển các kỹ năng mềm và tư duy sáng tạo. Chính sự kết hợp giữa yếu tố vật chất
(công cụ, môi trường học tập) và ý thức (tư duy, nhận thức, sáng tạo) sẽ giúp sinh viên phát triển toàn diện
và trở thành những công dân có trách nhiệm và có khả năng đóng góp tích cực cho xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu rõ
hơn về quá trình học tập của mình. Quá trình này không chỉ đơn thuần là việc tiếp thu kiến thức mà còn là
sự tương tác liên tục giữa các yếu tố vật chất (công cụ học tập, môi trường học tập) và ý thức (tư duy, nhận
thức, sáng tạo). Chính mối quan hệ biện chứng này thúc đẩy sự phát triển toàn diện của sinh viên, giúp họ
không chỉ thành thạo về lý thuyết mà còn có khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tế, từ đó nâng cao chất
lượng học tập và phát triển bản thân.
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, quy định lẫn nhau, tác động qua lại,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Có rất
nhiều loại, nhiều mối liên hệ, trong đó có mối liên hệ chung, nhất là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng. Mối liên hệ này được gọi là mối liên hệ phổ biến.
Tính chất của mối liên hệ. Tính khách quan.
Mối liên hệ là cái vốn có của sự vật, hiện tượng đó có tính khách quan. Không phụ thuộc vào ý thức,
Ý muốn của con người chứ không phải là sự áp đặt nào đó từ bên ngoài.
vd: mối liên hệ giữa trái đất và mặt trời, mối liên hệ giữa con người và môi trường,... Tính Phổ biến
Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú,
song chúng đều có những dạng những biểu hiện khác nhau cùng một thế giới vật chất, chúng luôn chuyển
hóa lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác. Chúng đều là nguyên nhân và kết quả của nhau. Vì vậy mối liên
hệ giữa các sự vật hiện tượng tồn tại trong mọi lúc, mọi nơi, cả trong tự nhiên trong xã hội và trong 4 duy. Tính đa dạng, phong phú.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng có nhiều loại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, liên hệ
bên trong, liên hệ bên ngoài liên hệ chủ yếu liên hệ thứ yếu liên hệ, tất nhiên liên hệ ngẫu nhiên, liên hệ bản
chất liên hệ không bản chất. Liên hệ với không gian liên hệ về thời gian....
Ý nghĩa phương pháp luận sau: lOMoAR cPSD| 61601299
Thứ nhất, muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó
Thứ hai, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng
điểm, nhờ đó nắm được bản chất của sự vật.
Thứ ba, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật cần phải xem xét, đối chiếu với các mối liên hệ
của những sự vật, hiện tượng khác để tránh sai lầm trong nhận thức
Thứ tư, cần phải tránh lối xem xét một chiều, phiến diện, chống chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong triết học Mác - Lênin cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự
liên kết với nhau trong một hệ thống thống nhất và tác động qua lại. Trong đời sống học tập của sinh viên,
nguyên lý này có thể được vận dụng để hiểu rằng kiến thức không tồn tại đơn lẻ mà luôn có mối liên hệ với
các môn học khác, các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Ví dụ, khi học một môn khoa học tự nhiên, sinh
viên không chỉ tiếp thu lý thuyết trong sách vở mà còn phải liên hệ với thực tế cuộc sống và các môn học
khác như toán học, vật lý, hay công nghệ. Sự liên kết giữa các môn học và các lĩnh vực kiến thức giúp sinh
viên có cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn về vấn đề đang nghiên cứu, đồng thời cũng giúp họ phát triển khả năng tư duy hệ thống.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến cũng có thể được áp dụng trong mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn
trong học tập của sinh viên. Trong quá trình học tập, sinh viên không chỉ tiếp thu lý thuyết mà còn phải tìm
cách áp dụng chúng vào thực tế để thấy được sự tác động qua lại giữa kiến thức học được và cuộc sống thực
tế. Khi học các môn lý thuyết, sinh viên cần hiểu rằng các khái niệm và phương pháp học được không phải
chỉ để ghi nhớ mà để giải quyết các vấn đề thực tế. Việc tham gia vào các hoạt động thực tiễn như thực tập,
nghiên cứu khoa học hay các dự án cộng đồng giúp sinh viên áp dụng lý thuyết vào thực tế, từ đó làm phong
phú thêm hiểu biết và kỹ năng của bản thân.
Quá trình học tập của sinh viên không chỉ phụ thuộc vào bản thân sinh viên mà còn chịu sự tác động từ
nhiều yếu tố khác nhau như gia đình, xã hội, môi trường học tập và sự hỗ trợ của giảng viên. Nguyên lý
mối liên hệ phổ biến giúp sinh viên nhận thức được rằng để đạt được kết quả học tập tốt, họ cần phải nhìn
nhận và tận dụng các mối liên hệ này. Chẳng hạn, sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè giúp sinh viên có động
lực học tập, trong khi môi trường học tập tích cực và sự hướng dẫn của giảng viên giúp sinh viên cải thiện
phương pháp học và phát triển các kỹ năng mềm. Tất cả những yếu tố này tác động qua lại, ảnh hưởng đến
quá trình học tập và sự phát triển của sinh viên. lOMoAR cPSD| 61601299
Một ứng dụng quan trọng của nguyên lý mối liên hệ phổ biến là trong sự kết hợp giữa kiến thức lý
thuyết và kỹ năng mềm trong quá trình học tập. Khi học, sinh viên không chỉ cần tiếp thu kiến thức lý thuyết
mà còn phải rèn luyện các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề và quản lý thời
gian. Các kỹ năng này không tồn tại độc lập mà có mối liên hệ chặt chẽ với kiến thức học được. Chẳng hạn,
khi học về các lý thuyết kinh tế, sinh viên cần có kỹ năng phân tích, đánh giá tình huống và làm việc nhóm
để hiểu và áp dụng kiến thức vào các vấn đề thực tế. Việc phát triển cả kiến thức lẫn kỹ năng mềm sẽ giúp
sinh viên không chỉ giỏi lý thuyết mà còn có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó nâng cao khả
năng giải quyết vấn đề trong học tập và công việc.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong triết học Mác - Lênin cũng có thể được vận dụng để lý giải sự kết
nối giữa các ngành học trong quá trình phát triển toàn diện của sinh viên. Mỗi môn học mà sinh viên học
không chỉ riêng biệt mà có sự liên kết với các môn học khác. Ví dụ, khi học về xã hội học, sinh viên có thể
áp dụng các kiến thức về tâm lý học, lịch sử, kinh tế để có cái nhìn toàn diện hơn về các vấn đề xã hội. Mối
liên hệ này không chỉ giúp sinh viên hiểu sâu hơn về các lĩnh vực mà còn phát triển khả năng tư duy liên
ngành, giúp họ có một cái nhìn toàn diện và linh hoạt trong học tập và giải quyết vấn đề.
Trong triết học Mác - Lênin, mối liên hệ phổ biến không chỉ giới hạn trong các yếu tố vật chất mà còn
bao gồm các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống học tập của sinh viên, nguyên lý này có thể được vận dụng
để hiểu sự kết nối giữa việc học cá nhân và việc học trong cộng đồng. Sinh viên có thể học một cách độc
lập, nhưng việc tham gia vào các hoạt động nhóm, thảo luận, chia sẻ kiến thức với bạn bè và thầy cô là một
yếu tố quan trọng giúp họ phát triển. Sự học tập không chỉ là quá trình cá nhân mà còn là quá trình tương
tác với cộng đồng học thuật, giúp sinh viên củng cố kiến thức và kỹ năng giao tiếp, đồng thời nâng cao khả
năng làm việc nhóm và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
Cuối cùng, nguyên lý mối liên hệ phổ biến cũng có thể áp dụng trong mối quan hệ giữa học tập và phát
triển nghề nghiệp của sinh viên. Sinh viên không học chỉ để lấy bằng mà học để chuẩn bị cho sự nghiệp
trong tương lai. Việc lựa chọn ngành học, các môn học chuyên sâu và các hoạt động ngoại khóa có mối liên
hệ chặt chẽ với mục tiêu nghề nghiệp của sinh viên. Sinh viên cần nhận thức được rằng sự học không chỉ
giúp họ có kiến thức chuyên môn mà còn phát triển các kỹ năng cần thiết cho công việc, như kỹ năng lãnh
đạo, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề và sáng tạo. Mối liên hệ này giúp sinh viên định hướng
rõ ràng con đường sự nghiệp của mình và chuẩn bị tốt nhất cho tương lai.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong triết học Mác - Lênin giúp sinh viên nhận thức được rằng quá
trình học tập không phải là một hành trình đơn độc, mà luôn có sự liên kết và tác động qua lại giữa các yếu
tố trong đời sống học tập. Từ kiến thức lý thuyết đến thực tiễn, từ học tập cá nhân đến học tập trong cộng
đồng, từ các môn học đến các kỹ năng mềm, tất cả đều liên kết với nhau và tạo thành một hệ thống thống lOMoAR cPSD| 61601299
nhất. Sự nhận thức và vận dụng nguyên lý này giúp sinh viên có cái nhìn toàn diện, sâu sắc và linh hoạt hơn
trong học tập và phát triển bản thân.
b) Nguyên lý về sự phát triển.
Quá trình vận động từ thấp đến cao từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn từ chất cũ đến chất mới ở
trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển
chỉ sự vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển
Cần phân biệt phát triển với tiến hóa và tiến bộ. tiến hóa là một dạng phát triển diễn ra theo cách từ
từ và thường là sự biến đổi của hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Tiến bộ là một
quá trình biến đổi, hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
so với thời điểm ban đầu.
Tính chất của sự phát triển.
Tính khách quan: Sự phát triển của nguồn gốc nằm trong chính bản thân sự vật hiện tượng chứ không phải
do sự tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở khắp nơi, cả trong tự nhiên xã hội và 4 duy.
Tính kế thừa: Trong quá trình phát triển sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ nhưng
chúng không xóa bỏ hoàn toàn, phủ định sạch trơn sự vật, hiện tượng cũ, sự vật, hiện tượng mới chỉ gạt bỏ
những mặt tiêu cực, lỗi thời lạc hậu của sự vật hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển. Đồng thời
tiếp thu, giữ lại có chọn lọc Và cải tạo, những yếu tố còn tác dụng còn thích hợp với sự phát triển.
Tính đa dạng, phong phú: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực cả trong tự nhiên trong xã hội và
trong 4 duy mặt khác, mỗi Phẩy. sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, tính đa
dạng phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian, thời gian vào các yếu tố điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
Ý nghĩa phương pháp luận sau:
Thứ nhất, cần xem xét đối tượng trong sự vận động, phát triển của nó, phải phát hiện xu hướng biến
đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có
đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển,
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. lOMoAR cPSD| 61601299
Thứ tư, phải biết kế thừa những yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác - Lênin cho rằng sự vật, hiện tượng không ngừng thay
đổi và phát triển theo các quy luật khách quan. Trong đời sống học tập của sinh viên, nguyên lý này có thể
được vận dụng để lý giải quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên. Khi mới bắt đầu học tập, sinh viên
chỉ có kiến thức cơ bản và hạn chế về kỹ năng, nhưng qua thời gian, sự tích lũy kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm sẽ giúp sinh viên phát triển tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và sáng tạo. Quá trình học tập của
sinh viên là một quá trình không ngừng phát triển, từ việc tiếp thu kiến thức nền tảng đến việc áp dụng và
mở rộng kiến thức trong các tình huống thực tế.
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự
phát triển qua các giai đoạn. Điều này có thể được áp dụng vào quá trình học tập của sinh viên. Khi mới
nhập học, sinh viên học những môn học cơ bản, đơn giản và dần dần qua các năm học, kiến thức và kỹ năng
của họ sẽ trở nên chuyên sâu hơn. Quá trình học tập của sinh viên diễn ra qua các giai đoạn, từ học lý thuyết,
thực hành, nghiên cứu đến việc làm việc nhóm và tham gia vào các dự án nghiên cứu khoa học. Mỗi giai
đoạn học tập không chỉ làm giàu thêm kiến thức mà còn giúp sinh viên phát triển những kỹ năng mềm quan
trọng như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, giao tiếp và lãnh đạo.
Trong triết học Mác - Lênin, sự phát triển luôn đi kèm với sự thay đổi về chất. Quá trình học tập của
sinh viên cũng phản ánh nguyên lý này, đặc biệt là trong việc phát triển năng lực tư duy. Ban đầu, sinh viên
tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, chủ yếu qua việc ghi chép và học thuộc. Tuy nhiên, khi lượng kiến
thức đủ lớn và kết hợp với kinh nghiệm thực tế, tư duy của sinh viên sẽ chuyển từ thụ động sang chủ động,
từ lý thuyết sang thực hành. Quá trình này giúp sinh viên có khả năng tư duy phản biện, sáng tạo và áp dụng
kiến thức vào thực tế, thể hiện sự chuyển biến về chất trong quá trình học tập.
Một ứng dụng quan trọng của nguyên lý phát triển là sự phát triển toàn diện trong học tập của sinh
viên. Quá trình học tập không chỉ là sự tích lũy kiến thức mà còn là sự phát triển của các kỹ năng mềm, khả
năng làm việc nhóm, lãnh đạo, giao tiếp và giải quyết vấn đề. Khi sinh viên bắt đầu học, họ có thể chỉ tập
trung vào việc học lý thuyết và đạt điểm số cao. Tuy nhiên, qua thời gian, họ nhận ra rằng để thành công
trong công việc và cuộc sống, họ cần phát triển những kỹ năng mềm, tham gia các hoạt động ngoại khóa,
thực tập và nghiên cứu khoa học. Sự phát triển này phản ánh nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác
- Lênin, đó là sự thay đổi không chỉ về kiến thức mà còn về các yếu tố phẩm chất, kỹ năng của sinh viên.
Theo nguyên lý phát triển của triết học Mác - Lênin, sự phát triển luôn gắn liền với sự đấu tranh và
thay đổi. Trong học tập, sinh viên cũng phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn. Những khó khăn này lOMoAR cPSD| 61601299
không chỉ là thử thách về kiến thức mà còn là sự thử thách về khả năng tự quản lý thời gian, làm việc dưới
áp lực, giải quyết các vấn đề thực tiễn. Thông qua việc vượt qua những thử thách này, sinh viên không chỉ
phát triển về mặt kiến thức mà còn phát triển kỹ năng và phẩm chất cá nhân. Ví dụ, khi sinh viên phải đối
mặt với một kỳ thi khó, họ có thể cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi, nhưng chính những trải nghiệm này
giúp họ phát triển khả năng quản lý cảm xúc, học hỏi từ thất bại và tìm ra những phương pháp học tập hiệu quả hơn.
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác - Lênin cũng nhấn mạnh đến sự phát triển qua việc tự nhận
thức và tự cải thiện. Trong học tập, sinh viên không chỉ học từ giảng viên và sách vở mà còn phải biết tự
học và sáng tạo. Ban đầu, sinh viên có thể phụ thuộc vào giáo trình và bài giảng, nhưng theo thời gian, họ
sẽ tự nhận thức được sự quan trọng của việc tự nghiên cứu, tự tìm tòi thêm thông tin và sáng tạo trong cách
tiếp cận vấn đề. Sự chuyển từ việc học theo chỉ dẫn sang tự học và sáng tạo là một quá trình phát triển chất
lượng, giúp sinh viên trở thành những người học chủ động, có khả năng sáng tạo và áp dụng kiến thức vào thực tế.
Nguyên lý phát triển cũng thể hiện rõ trong việc vận dụng kiến thức học được vào thực tế. Khi sinh
viên chỉ học lý thuyết mà không có cơ hội áp dụng vào thực tế, sự phát triển sẽ bị giới hạn. Tuy nhiên, khi
sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động ngoại khóa, thực tập, nghiên cứu khoa học hoặc làm việc
nhóm, họ sẽ có cơ hội áp dụng kiến thức vào những tình huống cụ thể và thực tế. Quá trình này giúp sinh
viên không chỉ học lý thuyết mà còn phát triển khả năng giải quyết vấn đề và cải thiện khả năng làm việc
trong môi trường thực tế, từ đó nâng cao chất lượng học tập và sự phát triển toàn diện.
Nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác - Lênin cung cấp một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về
quá trình học tập của sinh viên. Quá trình học tập của sinh viên là một quá trình không ngừng phát triển, từ
việc tích lũy kiến thức đến việc nâng cao kỹ năng và khả năng sáng tạo. Sự phát triển trong học tập không
chỉ là sự thay đổi về chất lượng kiến thức mà còn là sự phát triển của tư duy, kỹ năng mềm, khả năng ứng
dụng kiến thức vào thực tế. Việc áp dụng nguyên lý phát triển vào đời sống học tập giúp sinh viên hình
thành phương pháp học chủ động và sáng tạo, từ đó phát triển toàn diện và sẵn sàng đối mặt với các thử
thách trong công việc và cuộc sống.
Câu 3: Quy luật lượng - chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật , hiện tượng. Là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành SV, HT nói lên SV, HT đó là gì, phân
biệt nó với các SV, HT khác. VD: Nguyên tố Al có nguyên tử khối là 27đvC, nhiệt độ nóng chảy là 660,32 lOMoAR cPSD| 61601299
độ C; nhiệt độ sôi là 2519 độ C. Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất riêng của nhôm , phân biệt
nhôm với các kim loại khác.
Nó thể hiện tính ổn định tương đối của SV, HT. Mỗi SV, HT trong mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có
chất riêng. Mỗi SV, HT không chỉ có 1 chất mà có thể nhiều chất. Chất được biểu hiện qua những thuộc
tính: thuộc tính cơ bản → là cái tạo thành chất, thuộc tính không cơ bản. → Cả 2 thuộc tính đều mang tính tương đối.
Không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành, mà còn bởi phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số
các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là
nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích
thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay
chậm…Ví dụ: Từ thí nghiệm trên ta thu được 2,24 lít CO2 . (2,24 lít là lượng)
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính biến đổi. VD: lượng kiến thức của mỗi chúng ta ngày càng tăng
chứ không dừng lại. Lượng có tính khách quan vì là một dạng biểu hiện của vật chất → chiếm vị trí không
gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Có nhiều loại lượng khác nhau. Có loại có thể đếm được→ gọi là
định lượng. Có loại thì phải nhận biết bằng năng lực trừu tượng hóa.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong đó
sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi về chất của sự vật dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng do
những thay đổi về lượng trước đó gây ra là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng bước giải kết thúc
một giai đoạn biến đổi về lượng là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật hiện tượng.
Các hình thức của bước nhảy: Bước nhảy đột biến, Bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ, Bước nhảy cục bộ.
Quy luật: Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi
dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất thông qua bước nhảy,
chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 61601299
Một là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng bao
giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thực hiện bước nhảy để
chuyển hóa về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải biết nỗ lực tích lũy dần dần về
lượng để làm biến đổi về chất, tránh thái độ chủ quan, nóng vội.
Hai là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng trong lĩnh vực xã hội, mặc dù có tính khách quan
nhưng các quy luật xã hội tác động thông qua các hoạt động có ý thức của con người, do đó khi đã tích lũy
đầy đủ về lượng phải quyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành thay
đổi về chất. Do vậy, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi phát
triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.
Ba là, quy luật lượng đổi – chất đổi chỉ ra rằng sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó.
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Quy luật lượng - chất trong triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng sự thay đổi chất lượng chỉ có thể diễn
ra khi có sự tích lũy đủ về mặt lượng. Trong đời sống học tập của sinh viên, quy luật này có thể được vận
dụng trong quá trình tiếp thu kiến thức. Ban đầu, sinh viên tiếp nhận các kiến thức cơ bản, bước đầu xây
dựng nền tảng vững chắc. Khi lượng kiến thức này đủ lớn và sinh viên có sự nắm bắt chắc chắn, họ sẽ bắt
đầu có những bước chuyển biến về chất, ví dụ như khả năng tư duy sâu sắc hơn, giải quyết vấn đề tốt hơn,
và có thể vận dụng kiến thức vào thực tế. Điều này thể hiện rõ trong việc học các môn cơ sở trong năm đầu
đại học, khi sinh viên tích lũy kiến thức nền tảng và dần dần chuyển sang các môn chuyên ngành, nơi họ
phải áp dụng kiến thức vào các tình huống cụ thể.
Quy luật lượng - chất cũng áp dụng trong việc phát triển các kỹ năng học tập của sinh viên. Ban đầu,
sinh viên có thể chỉ học bằng các phương pháp đơn giản như ghi chép, đọc sách, làm bài tập. Tuy nhiên,
khi họ tích lũy đủ kiến thức và kinh nghiệm, kỹ năng học tập của họ sẽ được nâng cao, chuyển từ việc học
theo cách thụ động sang việc học chủ động, tự nghiên cứu và tìm tòi. Quá trình này là sự chuyển biến từ
lượng (kiến thức cơ bản, kỹ năng học đơn giản) sang chất (kỹ năng nghiên cứu độc lập, khả năng giải quyết
vấn đề, khả năng sáng tạo trong học tập). Thực tế, khi sinh viên tiếp cận các chủ đề học tập phức tạp hơn,
họ sẽ nhận ra rằng để đạt được kết quả cao, không chỉ cần có lượng kiến thức lớn mà còn phải biết cách sử
dụng chúng một cách hiệu quả, sáng tạo. lOMoAR cPSD| 61601299
Quy luật này cũng có thể được vận dụng trong việc phát triển tư duy phản biện của sinh viên. Ban
đầu, sinh viên có thể chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động và chưa có khả năng phản biện. Tuy nhiên,
khi họ tích lũy đủ kiến thức và có thời gian để suy ngẫm, nghiên cứu và so sánh các quan điểm khác nhau,
khả năng tư duy phản biện sẽ phát triển mạnh mẽ. Khi lượng kiến thức của sinh viên đủ lớn và có sự kết
hợp với kinh nghiệm thực tiễn, họ sẽ có khả năng đánh giá, phân tích và đưa ra quan điểm của mình một
cách logic và có cơ sở, đồng thời phát triển khả năng phản biện những thông tin chưa chính xác. Sự chuyển
từ lượng (kiến thức đơn giản) sang chất (tư duy phản biện sâu sắc) giúp sinh viên không chỉ học mà còn có
khả năng thay đổi và cải thiện những quan điểm cũ.
Quy luật lượng - chất cũng có thể áp dụng trong việc rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên.
Ban đầu, sinh viên có thể chỉ làm việc nhóm với các nhiệm vụ đơn giản và ít có sự tương tác sâu sắc với
các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên, khi sinh viên tham gia vào các dự án nghiên cứu hoặc hoạt động
ngoại khóa phức tạp hơn, họ sẽ tích lũy thêm kỹ năng giao tiếp, phối hợp, và giải quyết vấn đề trong môi
trường nhóm. Khi lượng kinh nghiệm và kỹ năng làm việc nhóm được tích lũy, chất lượng của công việc
nhóm sẽ nâng cao, giúp sinh viên phát triển kỹ năng lãnh đạo, làm việc hiệu quả trong môi trường đa dạng,
và cải thiện khả năng xử lý tình huống khó khăn. Sự chuyển đổi từ lượng (kinh nghiệm làm việc nhóm ít
ỏi) sang chất (kỹ năng làm việc nhóm chuyên nghiệp) là minh chứng rõ ràng cho quy luật này.
Quy luật này cũng thể hiện rõ trong việc cải thiện phương pháp học của sinh viên qua từng giai đoạn
học tập. Ban đầu, sinh viên có thể chỉ học theo phương pháp truyền thống như ghi nhớ kiến thức, làm bài
tập. Tuy nhiên, khi họ tích lũy được một lượng lớn kiến thức và kỹ năng học tập, họ sẽ nhận thức được sự
cần thiết của việc thay đổi phương pháp học để có thể tiếp thu và ứng dụng kiến thức một cách hiệu quả
hơn. Sự chuyển biến này là quá trình từ lượng (các phương pháp học đơn giản, truyền thống) sang chất (các
phương pháp học chủ động, sáng tạo và hiệu quả hơn). Việc tham gia các lớp học trực tuyến, tham gia
nghiên cứu khoa học, và thảo luận nhóm giúp sinh viên phát triển phương pháp học tập toàn diện, từ đó
nâng cao hiệu quả học tập.
Quy luật lượng - chất cũng có thể được áp dụng trong sự chuyển biến của sinh viên qua các năm học.
Khi mới nhập học, sinh viên chỉ có lượng kiến thức cơ bản về các môn học đại cương. Tuy nhiên, khi họ
dần dần hoàn thành các môn học và tích lũy thêm kiến thức, họ sẽ bắt đầu chuyển sang các môn học chuyên
ngành, nơi yêu cầu khả năng ứng dụng cao hơn và đòi hỏi sinh viên phải sử dụng những kiến thức đã học
một cách sáng tạo và thực tiễn. Sự thay đổi này là quá trình từ lượng (kiến thức cơ bản, môn học đại cương)
sang chất (kiến thức chuyên sâu, khả năng ứng dụng thực tế). Quy luật lượng - chất trong trường hợp này
cho thấy rằng sự phát triển của sinh viên không chỉ là quá trình tích lũy kiến thức mà còn là sự chuyển hóa
từ việc học lý thuyết sang khả năng ứng dụng và sáng tạo trong thực tế. lOMoAR cPSD| 61601299
Quy luật lượng - chất trong triết học Mác - Lênin có thể được áp dụng vào đời sống học tập của sinh
viên để giải thích quá trình phát triển tư duy, kỹ năng, phương pháp học tập và khả năng ứng dụng kiến
thức. Mỗi bước tiến trong học tập đều được xây dựng trên nền tảng tích lũy lượng kiến thức và kỹ năng, từ
đó tạo ra sự chuyển biến về chất, giúp sinh viên phát triển toàn diện và chuẩn bị tốt hơn cho những thử
thách trong nghề nghiệp và cuộc sống.
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng
nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguồn gốc, nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các
mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất
cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ: Trong nguyên tử
có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và
cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa
đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. VD: Nhân vật phản diện
và chính diện tồn tại thống nhất và đấu tranh lẫn nhau trong tác phẩm nghệ thuật, mối quan hệ qua lại giữa
sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế xã hội,…
Tính khách quan: Mâu thuẫn là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phải đem từ bên ngoài
vào. Tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người
Tính phổ biến: Mâu thuẫn diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này mất đi sẽ có mâu thuẫn khác thay thế.Tính phong phú, đa dạng:
Sự vật, hiện tượng khác nhau sẽ có mâu thuẫn khác nhau.Trong một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều
mâu thuẫn khác nhau và có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật đó.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhautạo nên trạng
thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở việc:
Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại. lOMoAR cPSD| 61601299
Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang
hình thành với cái cũ chưa mất hẳn.
Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ,
phủ định lẫn nhau giữa chúng.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất
đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng. Sự đấu tranh có tính tuyệt đối,
nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập phát triển làm mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc và khi đến một
mức độ nhất định, trong điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết, sự vật, hiện tượng chuyển hóa.
Sự vật, hiện tượng mới ra đời tự nó lại có mặt đối lập mới, có mâu thuẫn mới, có quá trình thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành
những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguyên nhân, động lực
bên trong của sự vận động và phát triển,làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển nên cần phải thừa nhận tính khách
quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện
khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát
sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều
kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,không điều hòa
mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa
[VẬN DỤNG SINH VIÊN]
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là một trong những quy luật cơ bản trong triết
học Mác - Lênin, chỉ ra rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng luôn gắn liền với sự đối kháng và hòa hợp
giữa các yếu tố đối lập. Trong đời sống học tập của sinh viên, quy luật này có thể được vận dụng trong quá lOMoAR cPSD| 61601299
trình phát triển tư duy. Sinh viên thường xuyên phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, giữa
kiến thức đã học và những kiến thức mới được tiếp thu. Quá trình đấu tranh giữa các yếu tố đối lập này thúc
đẩy sinh viên tự tư duy, phân tích, đánh giá và phát triển những quan điểm, cách tiếp cận mới để giải quyết
các vấn đề học tập. Ví dụ, khi đối diện với những lý thuyết hoặc quan điểm khác nhau trong cùng một môn
học, sinh viên sẽ có sự phân tích, so sánh để lựa chọn, tiếp thu cái hợp lý và từ đó hoàn thiện tư duy của mình.
Một ứng dụng rõ rệt của quy luật này trong đời sống học tập của sinh viên là sự đấu tranh giữa lý
thuyết và thực tiễn. Trong quá trình học tập, sinh viên tiếp xúc với nhiều lý thuyết và khái niệm, nhưng để
thực sự hiểu rõ và ứng dụng được chúng, họ phải đưa lý thuyết vào thực tế. Sự đối lập giữa lý thuyết và
thực tiễn tạo ra động lực để sinh viên tìm cách kết hợp, điều chỉnh lý thuyết sao cho phù hợp với thực tế.
Chẳng hạn, sinh viên ngành kỹ thuật có thể học các lý thuyết về máy móc và công nghệ trong sách vở,
nhưng để hiểu rõ hơn, họ cần tham gia vào các dự án thực tế hoặc thực tập tại các công ty để áp dụng lý
thuyết vào thực hành. Quá trình này giúp sinh viên không chỉ hiểu biết sâu hơn mà còn hình thành kỹ năng
giải quyết vấn đề, vì họ phải đối mặt với những tình huống thực tế đầy thách thức, khác biệt với lý thuyết.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập cũng có thể áp dụng vào sự lựa chọn và kết
hợp giữa các phương pháp học tập khác nhau. Sinh viên ngày nay có thể lựa chọn giữa việc học truyền
thống (đọc sách, ghi chép bài giảng) và các phương pháp học hiện đại như học trực tuyến, học qua dự án,
học qua thảo luận nhóm. Các phương pháp này có sự khác biệt rõ rệt và đôi khi mâu thuẫn với nhau về cách
tiếp cận, mục tiêu và phương tiện học tập. Tuy nhiên, sự đấu tranh và thống nhất giữa các phương pháp này
có thể giúp sinh viên phát triển phương pháp học hiệu quả và toàn diện hơn. Sinh viên không chỉ học thuộc
mà còn phải biết phân tích, sáng tạo và thực hành để kết hợp những ưu điểm của các phương pháp học khác
nhau, từ đó phát triển khả năng tự học và cải thiện kết quả học tập.
Trong đời sống học tập, một sự đấu tranh giữa các yếu tố đối lập khác là sự kết hợp giữa việc học lý
thuyết và phát triển các kỹ năng mềm. Sinh viên thường bị áp lực phải học và đạt kết quả cao trong các kỳ
thi lý thuyết, nhưng đồng thời cũng cần phải phát triển các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, và
lãnh đạo để đáp ứng yêu cầu của xã hội và thị trường lao động. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
yếu tố đối lập này thúc đẩy sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn tham gia các hoạt động ngoại khóa,
các chương trình thực tập và các dự án nhóm để phát triển các kỹ năng mềm. Sự đối kháng giữa học lý
thuyết và thực hành kỹ năng mềm không phải là xung đột mà là động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của sinh viên.
Một biểu hiện khác của quy luật này trong học tập là sự đấu tranh giữa việc tự học và sự hướng dẫn
của giảng viên. Ban đầu, sinh viên phụ thuộc vào sự giảng dạy và hướng dẫn của giảng viên để tiếp thu kiến lOMoAR cPSD| 61601299
thức. Tuy nhiên, khi học tập dần trở nên chuyên sâu, sinh viên cần phải tự chủ hơn trong việc học và tìm
tòi kiến thức. Quá trình đấu tranh giữa sự phụ thuộc vào giảng viên và khả năng tự học giúp sinh viên phát
triển khả năng tự nghiên cứu, tư duy độc lập và sáng tạo. Tuy nhiên, sự đối lập này không phải là sự mâu
thuẫn, mà là sự thống nhất giữa việc học chủ động và sự hỗ trợ từ giảng viên, giúp sinh viên trở thành những
người học suốt đời và có thể tự phát triển trong nghề nghiệp.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa lý tưởng và thực tế cũng là một yếu tố quan trọng trong đời sống
học tập của sinh viên. Sinh viên luôn có những lý tưởng cao đẹp về việc học và thành công trong học tập,
nhưng thực tế lại không phải lúc nào cũng dễ dàng. Việc gặp phải các khó khăn, thất bại hay thử thách trong
quá trình học tập là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, chính sự đối lập giữa lý tưởng và thực tế này tạo
ra động lực để sinh viên kiên trì hơn, học hỏi từ những sai lầm, và tìm cách khắc phục chúng. Sự đấu tranh
này giúp sinh viên trưởng thành, phát triển khả năng giải quyết vấn đề và tạo ra những bước tiến vững chắc
trong con đường học vấn của mình.
Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong triết học Mác - Lênin vào đời
sống học tập của sinh viên giúp họ phát triển tư duy, kỹ năng và phương pháp học tập hiệu quả. Sự đối
kháng giữa các yếu tố như lý thuyết và thực tiễn, phương pháp học truyền thống và hiện đại, hay việc tự
học và sự hướng dẫn của giảng viên không phải là sự mâu thuẫn mà là động lực thúc đẩy sự phát triển và
hoàn thiện bản thân của sinh viên. Thực hiện được sự thống nhất và đấu tranh giữa các yếu tố này sẽ giúp
sinh viên có thể học tập một cách chủ động, sáng tạo và toàn diện.
Câu 6: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn với nhận thức
Thực tiễn, có nghĩa đen là hoạt động tích cực. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là
toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Từ quan niệm trên về thực tiễn có thể thấy thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất
- cảm tính, như lời của C.Mác, đó là những hoạt động vật chất của con người cảm giác được. Nghĩa là con
người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này. Hoạt động vật chất - cảm tính là những
hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật
chất để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan phục vụ cho mình.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người. Nghĩa là,
thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt