Lý luận về kinh tế hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Mục lục
I. Lý luận về kinh tế hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa:...................................1
1. Kinh tế hàng hóa:.....................................................................................................1
1.1 Khái niệm:............................................................................................................1
1.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:................................................1
1.3 Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa:........................................................1
1.4 Đặc trưng cơ bản và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa.........................................1
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa:..........................................2
2.1 Các nhân tố của kinh tế hàng hóa:........................................................................2
2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh:
…………………………………………………………………………………………..3
II. Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay................................4
1. Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay................................5
2. Đánh giá thực trạng:.................................................................................................7
III. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam..............9
i
Danh mục tài liệu tham khảo
GS.TS Nguyễn Quang Thuấn. (2022). Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tuyên giáo - Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung Ương.
PGS. TS Bùi Quang Tuấn; TS Hà Huy Ngọc. (2022). Kinh tế Việt Nam 2021 và triển
vọng năm 2022. .Tạp chí Cộng sản
PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa; PGS.TS. Đoàn Xuân Thủy; PGS.TS. Phạm Văn Dũng;
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn; PGS.TS. Nguyễn Minh Khải; PGS.TS. Nguyễn
Khắc Thanh; GS.TS Phạm Quang Phan; PGS.TS. Vũ Thanh Sơn; PGS.TS.
Đức Hạnh; PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn; ... . (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị
Mác-Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
TS. Trần Văn Thiện. (2020). Tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong
phát triển kinh tế. .Công thương
ii
I. Lý luận về kinh tế hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa:
1. Kinh tế hàng hóa:
I.1 Khái niệm:
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do con
người sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất định, thành thử
muốn thỏa mãn các nhu cầu của hội thì cần mua bán sản phẩm. vậy sản
phẩm trở thành hàng hóa trên thị trường Như vậy, ta (Lênin toàn phần, tập 1).
thể thấy rằng kinh tế hàng hóa một nền kinh tế mở các quan hệ của hầu
hết được thể hiện dưới hình thái giá trị.
I.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Kinh tế hàng hóa ra đời tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế hội khi chỉ
khi xuất hiện hai điều kiện tiên quyết. Thứ nhất là sự phân công lao động
hội, phân công lao động xã hội là sự phân công chuyên môn hóa những người sản
xuất thành những ngành nghề sản xuất khác nhau. Khi đó, mỗi người sẽ chỉ sản
xuất được một hoặc một vài thứ sản phẩm, tuy nhiên nhu cầu của họ lại là tiêu thụ
nhiều sản phẩm. Như vậy, muốn đáp ứng nhu cầu của mình, con người cần trao
đổi, mua bán sản phẩm với nhau. Đây điều kiện cần. Thứ hai sự tách biệt
về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Điều kiện này dựa trên chế độ tư
hữu hoặc những hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất và nó làm cho tư liệu sản
xuất thuộc về từng người hoặc từng nhóm người trong hội. Do đó, nếu người/
nhóm người này muốn sử dụng sản phẩm do người/ nhóm người khác sản xuất thì
cần phải trao đổi, mua bán sản phẩm với nhau. Đây là điều kiện đủ.
I.3 Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa:
Kinh tế hàng hóa xuất hiện khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm
hữu lệ phong kiến ra đời dưới dạng sản xuất giản đơn phát triển mạnh
nhất trong chủ nghĩa bản (CNTB) chủ nghĩa hội (CNXH - giai đoạn thấp
của hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa cộng sản) dưới dạng. Đến giai đoạn cao của
hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa thì sản xuất hàng hóa tự tiêu vong.
I.4 Đặc trưng cơ bản và tính ưu việt của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự
cấp tự túc
Sản xuất tự cấp tự túc khác sản xuất hàng hóa ở một số đặc trưng cơ bản. Nếu mục
đích của sản xuất tự cấp tự túc là vì giá trị thì của sản xuất hàng hóa là vì giá trị, vì
lợi nhuận. Trong khi, quá trình tái sản xuất của sản xuất tự cấp tự túc chỉ gồm 2
khâu là sản xuất và tiêu dùng thì quá trình tái sản xuất của sản xuất hàng hóa gồm
4 khâu là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Ngoài ra, trong khi sản xuất tự
cấp tự túc thiếu động lực thúc đẩy sản xuất phát triển nền kinh tế phát triển
chậm chạp thì người sản xuất hàng hóa có động lực sản xuất hàng hóa và nền kinh
1
tế hàng hóa phát triển nhanh. Như vậy, sản xuất hàng hóa đối lập những ưu
việt so với sản xuất tự cấp tự túc. Tính ưu việt này được thể hiện qua các biểu
hiện: kinh tế hàng hóa tạo động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh
tế đồng thời phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể kinh tế, các vùng miền,
lợi thế quốc gia tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con
người nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nền kinh tế hàng hóa mục đích lợi nhuận
nên khả năng kích thích cải tiến thuật, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
sản xuất phát triển nhanh chóng, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa đa dạng, dồi
dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội,
và thúc đẩy sản xuất xã hội nhanh.
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa:
2.1 Các nhân tố của kinh tế hàng hóa:
a, Hàng hóa:
Hàng hóa sản phẩm của lao động, dùng để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc phi
vật thể.
Hàng hóa có . của hànghai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị Giá trị sử dụng
hóa công dụng của sản phẩm, dùng để thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người, nhu cầu ấy thể nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần; thể nhu
cầu cho tiêu dùng cho cá nhân hoặc cho sản xuất. Giá trị sử dụng của hàng hóa do
thuộc tính tự nhiên của vật quyết định, sản xuất càng phát triển, sản phẩm càng đa
dạng thì hàng hóa càng có nhiều giá trị sử dụng. Như thế, giá trị sử dụng phạm
trù vĩnh viễn, một hàng hóa có nhiều giá trị sử dụng và giá trị sử dụng chỉ được thể
hiện thông qua quá trình tiêu dùng sản phẩm. Giá trị trao đổi quan hệ tỉ lệ trao
đổi giữa những giá trị sử dụng khác loại nhau. Sở các hàng hóa trao đổi được
với nhau là vì giữa chúng có điểm chung nhau: đều là sản phẩm của lao động; hao
phí lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa được gọi giá
trị hàng hóa. Như vậy, thực chất trao đổi hàng hóa với nhau chínhtrao đổi lao
động hao phí của những người sản xuất hàng hóa với nhau. Do đó bản chất của giá
trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất hội, quan hệ giữa người sản xuất
hàng hóa với nhau. Qua đó, khẳng định rằng giá trị là nội dung, sở quyết định
giá trị trao đổi; giá trị trao đổi biểu hiện của giá trị hàng hóa trong trao đổi
giá trị hàng hóa chỉ được thể hiện thông qua trao đổi hàng hóa với nhau. Như vậy,
giá trị sử dụng giá trị (giá trị hàng hóa) mối quan hệ biện chứng với nhau,
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Lao động sản xuất hàng hóa có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu
tượng. lao động ích, biểu hiễn giữa một hình thức chuyênLao động cụ thể
2
môn cụ thể nhất định; mỗi lao động cụ thể mục đích riêng, đối tượng riêng,
công cụ riêng, phương phápkết quả riêng. Phân công lao động càng phát triển,
lao động cụ thể càng nhiều, giá trị sử dụng càng phát triển. Mặc lao động sản
xuất hàng hóa có những hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau nhưng chúng đều
điểm chung nhau là đều có sự hao phí thể lực, trí lực của người sản xuất hàng hóa.
Hao phí sức lao động chính lao động trừu tượng. tạo raLao động trừu tượng
giá trị hàng hóa. Lao động cụ thể lao động trừu tượng ko phải 2 loại lao
động khác nhau mà đây chỉ 2 mặt của quá trình lao động sản xuất hàng
hóa. Lao động cụ thể lao động trừu tượng phản ánh tính chất nhân tính
chất hội của lao động sản xuất hàng hóa. Lao động cụ thể lao động độc lập
của từng người, thể hiện tính chất tư nhân nhưng sản phẩm của họ sản xuất ra phải
bán được trên thị trường, được hội chấp nhận, thể hiện tính chất hội. Lao
động tư nhân và lao động xã hội luôn có mâu thuẫn với nhau. Đây là mâu thuẫn cơ
bản của sản xuất hàng hóa.
b, Tiền tệ:
Tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lao động sản xuất hàng
hóa, cũng sự phát triển của các hình thái giá trị từ thấp đến cao gồm: hình thái
giản đơn (ngẫu nhiên) => hình thái mở rộng của giá trị => hình thái chung của giá
trị => hình thái tiền tệ của hội. Tiền tệ hàng hóa đặc biệt, dùng là vật mang
giá chung cho các hàng hóa khác. Sự xuất hiện của tiền tệ làm xuất hiện quan hệ
kinh tế mới: hàng tiền - trao đổi lao động kết tinh trong hàng a tiền tệ với
nhau. Như vậy, bản chất hội của tiền t biểu hiện quan hệ sản xuất hội
giữa người sản xuất hàng hóa với nhau.
Tiền tệ chức năng thước đo giá trị: Tiền dùng để đo lường giá trị hàng hóa
trong trao đổi được thể hiện thông quan giá cả. Giá cả hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hóa trong trao đổi; giá trị nội dung sở quyết
định giá cả, giá trị càng cao thì giá cả càng cao, giá cả chỉ hình thức. Giá cả
được thực hiện thông qua trao đổi, trao đổi lại diễn ra trên thị trường, thị trường lại
có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá cả như: cạnh tranh, quan hệ cung cầu, sức mua
của đồng tiền. Không chỉ thế, tiền cònphương tiện lưu thông (là môi giới trung
gian trong trao đổi), phương tiện cất trữ (tiền rút khỏi lưu thông), phương tiện
thanh toán (tiền dùng để chi trả sau khi công việc đã hoàn thành) phương tiện
tiền tệ thế giới (tiền thực hiện các chức năng ở phạm vi thế giới).
2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa quy luật giá trị quy luật
cạnh tranh:
a, Quy luật giá trị:
3
Quy luật giá trị quy luật kinh tế bản của sản xuất hàng hóa. Nội dung quy
luật là: Sản xuất và trao đổi hàng hóa được hình thành trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết.Yêu cầu: Đối với sản xuất, hao phí lao động cá biệt phù hợp (bằng
hoặc thấp hơn) với hao phí lao động hội cần thiết. Đối vơi lưu thông, trao đổi
theo nguyên tắc ngang giá Quy luật giá trị hoạt động phát huy tác dụng thông:
qua sự vận động của giá cả trên thị trường. Quy luật có một số tác động. Thứ nhất,
điều tiết sx và lưu thông hàng hóa: Đối với sx, tập trung sx hàng hóa có giá cả cao
(cung < cầu); loại bỏ sx hàng hóa giá cả thấp (cung > cầu). Đối với lưu thông,
điều tiết hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Thứ hai, kích thích
cải tiễn kĩ thuật, tăng năng suất lao động và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngoài ra quy luật còn dẫn đến phân hóa người sản xuất thành những người giàu
nghèo trong xã hội.
b, Quy luật cạnh tranh:
Quy luật vận động thứ hai của kinh tế hàng hóa là quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh
là sự ganh đua, đấu tranh quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành dật những
ưu thế về sản xuất, tiêu thụ hh nhằm thu lợi ích tối đa. Căn cứ vào ngành sản xuất
kinh doanh, cạnh tranh chia thành cạnh tranh nội bộ ngành (là cạnh tranh giữa các
chủ thể kinh doanh trong cùng 1 ngành và dẫn đến kết quả là hình thành giá trị thị
trường) cạnh tranh giữa các ngành (là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
giữa các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu cho lợi ích tối đa, dẫn đến kết quả
hình thành giá cả sản xuất. Ngoài những tác động tích cực như: kích thích cải
tiến kĩ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lựcđáp ứng nhu cầu của
xã hội, quy luật có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, biểu hiện là cạnh tranh
không lành mạnh.
II. Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa Việt Nam nền kinh tế hàng hóa vận hành đầy đủ theo các quy luật của
kinh tế thị trường sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo nhằm xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa tất yếu, phù hợp
với quy luật khách quan: quy luật phát triển từ kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh
tế hàng hóa phát triển (kinh tế thị trường); tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa không thể giải quyết được những mâu thuẫn vốn của đặc biệt
không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa lực
4
lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao dựa trên chế độ chiếm hữu
nhân về tư liệu sản xuất. Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm phát huy tính ưu việt của nó: kinh tế thị trường là phương tiện
thực hiện mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Hơn thế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là môi trường kinh tế phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đó xây dựng một đất nước dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1. Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay:
Tăng trưởng GDP: Phản ánh ảnh hưởng đại dịch – Ngành công nghiệp tiếp tục
là điểm sáng.
Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58%, thấp hơn mức 2,91% của năm 2020. Mức tăng
trưởng này phản ánh những khó khăn do dịch Covid-19 tới mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 khi nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải
thực hiện giãn cách hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Trong mức tăng
chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệpthủy sản tăng 2,9%, đóng
góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; khu vực công
nghiệp xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%,
đóng góp 22,23%. Khu vực công nghiệp xây dựng, ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo tiếp tục động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%,
đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền
kinh tế.
Nỗ lực trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại
dịch COVID-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo
điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế
phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định; thị trường chứng khoán phát
triển mạnh mẽ với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với
cuối năm 2020. Tính đến ngày 24-12-2021, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,93%
so với cuối năm 2020; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 8,44%; tăng
trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%.
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12-2021 giảm 0,18% so
với tháng 11-2021 tăng 1,81% so với tháng 12-2020. Bình quân năm 2021, CPI
tăng 1,84% so với năm 2020, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản
12 tháng tăng 0,81%.
Giá vàng trong nước biến động trái chiều với giá vàng thế giới. Bình quân giá vàng
thế giới đến ngày 25-12-2021 giảm 1,8% so với tháng 11-2021 do đồng USD và lợi
suất trái phiếu Mỹ tăng theo kỳ vọng lãi suất Mỹ năm sau tăng lên. Trong nước, chỉ
5
số giá vàng tháng 12-2021 tăng 0,25% so với tháng 11-2020; tăng 1% so với tháng
12-2020 bình quân năm 2021 tăng 8,67% so với năm trước. Còn đồng, do nhu
cầu mua ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng làm chỉ số giá USD tháng
12-2021 tăng 0,84% so với tháng 11-2021; giảm 0,58% so với tháng 12-2020
bình quân năm 2021 giảm 0,97% so với năm trước.
Đại dịch tác động tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp
Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 lần thứ khiến hoạt động sản xuất, kinh
doanh và tinh thần khởi nghiệp của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo báo
cáo của Cục Đăng ký kinh doanh, trong năm 2021 có 116.839 doanh nghiệp đăng ký
mới, giảm 13,4% so với năm 2020, mức thấp nhất kể từ năm 2017 đến nay. Số
vốn đăngthành lập trong năm 2021 cũng chỉ đạt 1.611.109 tỷ đồng, giảm 27,9%
so với năm 2020. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm
2021 43.116 doanh nghiệp, giảm 2,2% so với năm 2020. Mặt khác, việc dịch
bệnh kéo dài “bào mòn” sức lực của nhiều doanh nghiệp trong nước, trong đó phần
lớn các doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy vốn nhỏ. 119.828 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động, giải thể trong năm 2021, tăng 17,8% so với năm 2020.
Trong 1 năm vất vả đối phó dịch bệnh, tăng trưởng xuất nhập khẩu là điểm sáng
Năm 2021 một năm đầy biến động đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng,
nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của các bộ, ngành,
chính quyền địa phương, sự nỗ lực chủ động vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp,
các tổ chức xúc tiến thương mại đã giúp duy trì sản xuất và xuất khẩu, với tổng kim
ngạch kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Riêng khu vực
kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khu vực vốn đầu nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng
21,1%, chiếm 73,6%. cấu hàng hóa xuất khẩu 35 mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng
xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%).
Đối với nhập khẩu, năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ
USD, tăng 26,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,07
tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực vốn đầu nước ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng
29,1%. 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1%
tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại hàng hóa năm 2021 ước tính xuất siêu 4 tỷ USD (năm 2020
xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,36 tỷ
USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 29,36 tỷ USD.
6
được những kết quả trên chính nhờ chúng ta đã khai thác tốt các thị trường
nước ngoài. Cùng với việc giữ được các thị trường xuất khẩu truyền thống, doanh
nghiệp Việt Nam đã tận dụng khá tốt hội từ các hiệp định thương mại tự do
(FTA), nhất là các hiệp định FTA thế hệ mới (EU FTA, VJEPA, …)
Bất chấp dịch bệnh, Việt Nam vẫn thành công trong thu hút vốn đầu nước
ngoài (FDI)
Thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng mới vốn
đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào
môi trường đầu Việt Nam. Ước tínhm 2021, vốn đầu thực hiện toàn hội
theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, bao gồm:
Vốn khu vực nhà nước đạt 713,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,7% tổng vốn giảm
2,9% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.720,2 nghìn tỷ đồng, bằng
59,5% tăng 7,2%; khu vực FDI đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% giảm
1,1%. Theo báo cáo của Cục Đầu nước ngoài, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam
năm 2021 ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm 2020. Trong đó, công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 14,30 tỷ USD, chiếm 72,5% tổng vốn đầu trực tiếp
nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,63 tỷ USD, chiếm
13,3%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước điều hòa không
khí đạt 1,54 tỷ USD, chiếm 7,8%.
2. Đánh giá thực trạng:
a, Những kết quả đạt được:
- Trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực
và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
- Các đạo luật, thể chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện. Tư duy xây dựng
pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi
mang tính đột phá, giúp mở rộng không gian hoạt động kinh doanh đầu tư của
người dân.
- Cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh giúp nâng cao nhận thức cho các bộ, ngành
nhằm dỡ bỏ rào cản tham gia thị trường.
- Kinh tế nhân ngày càng động lực quan trọng, kinh tế tập thể đổi mới gắn
với cơ chế thị trường, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh.
- Năm 2020 - 2021, tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khắc
phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu kinh
doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.
- Cố gắng cải thiện đời sống người dân bất chấp dịch bệnh
- Tiếp tục giữ vững tình hình chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
7
b, Những hạn chế và nguyên nhân:
- Thể chế vẫn còn nhiều thiếu sót, thiếu liên kết:
Khi thể chế phát triển, việc điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm
được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo. Ngoài ra, chất lượng
luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Nhiều quy định đang rất cần
được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành
và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các
yếu tố sản xuất…
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường còn chưa cao:
Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn
ra chậm. Vì vậy, dẫn đến thiếu sự đồng bộ, tính nhất quán nhưng còn tồn tại những
bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn cần được phát triển hơn nữa:
Cơ sở hạ tầng luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình, kết cấu kỹ thuật ở đây rất đa dạng, đó là:
các công trình giao thông vận tải (hạ tầng giao thông) , công trình của ngành Bưu
chính - Viễn thông (hạ tầng kỹ thuật số), công trình điện, công trình thủy lợi (hạ
tầng năng lượng), công trình bệnh viện, trường học và các công trình công cộng
phục vụ cộng đồng,… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong cơ sở hạ tầng.
Thực tế cho thấy, hạ tầng giao thông trục chưa có tính kết nối và liên thông thuận lợi
giữa các địa phương trong nội vùng và liên vùng. Còn nhiều hạn chế trong đầu tư
phát triển hạ tầng giao thông. Đầu tư kết nối giữa các phương thức vận tải chưa phát
huy hiệu quả của toàn hệ thống, thiếu đồng bộ. Trong thời gian qua phát triển vận tải
bằng đường bộ và hàng không là chủ yếu, các phương thức vận tải khác như đường
sắt và đường thủy còn nhiều hạn chế chưa phát huy được hiệu quả khai thác.
Việc khai thác, sử dụng chưa hiệu quả công trình sau khi đầu tư gây lãng phí nguồn
lực. Các trung tâm logistics quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ một số doanh nghiệp
trong khu vực khu công nghiệp hay một địa phương, chưa phát triển đến quy mô
phục vụ một ngành hoặc một vùng kinh tế.
Đối với hạ tầng năng lượng, khi nền kinh tế phát triển và nhu cầu sử dụng năng
lượng ngày càng lớn, việc bổ sung nguồn năng lượng xanh, sạch, ngày càng trở nên
cần thiết hơn. Tuy nhiên, nguồn năng lượng này không liên tục. Việt Nam cần chú
trọng giải quyết các vấn đề quan trọng như tích hợp năng lượng tái tạo, phát triển
mạng lưới, tự động hóa lưới điện,… Đồng thời, cung cấp đầy đủ công nghệ trong
chuỗi giá trị điện năng, đảm bảo độ an toàn và tin cậy của dòng điện.
8
- Thách thức về cải thiện môi trường kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn
lực phát triển:
Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch; việc bảo v
thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất
cập.
Tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng
cạnh tranh quốc tế chưa cao. Trong khi đó, chúng ta chưa tạo được đột phá trong
huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Mà các nguồn
lực cho phát triển phân bổ còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu
quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng.
III. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam:
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong những
năm tới:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người ước đạt 4.700-5.000
USD/năm).
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: nước đang phát triển,
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt
khoảng 7.500 USD/năm).
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao (đến năm đó, tiêu chí sẽ thay đổi, theo tiêu chí hiện nay, GDP bình quân
đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm).
Chính vậy, dựa vào thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa căn cứ vào nhu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới, thể xác
định đưa ra những phương hướng, giải pháp, các nội dung bản cần được tập
trung quan tâm nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện thể chế về phát triển và xây dựng, giữ vững, định hướng,
thống nhất, đồng thời nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa:
Về , cần hoàn thiện thể chế hoàn thiện đồng bộ thể chế nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa bằng cách tập trung rà soát, tháo gỡ những điểm nghẽn tức
quy định chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp. Hơn thế, còn cần sửa đổi, hoàn thiện
9
các thủ tục hành chính chồng chéo cản trở sự phát triển kinh tế tăng cường kỷ
cương, trách nhiệm giữa các cấp, các ngành. Ngoài ra, cần tập trung hơn vào công tác
bổ sung các cơ chế và chính sách để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: thúc đẩy
phát triển, khởi nghiệp; khuyến khích sự ra đời của các loại hình hình kinh
doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi hình tăng
trưởng, cơ cấu nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất sức cạnh tranh. Đặc biệt, cần
chú trọng hoàn thiện thể chế về việc phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Bởi việc thể chế hoá là nhằm đa dạng các hình thức
sở hữu và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản theo hình thức sở
hữu hoàn thiện luật pháp về quyềntrách nhiệm sở hữu đối với các loại tài sản
mới như: sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, …. Các loại tài nguyên đất, nước, vốn
các loại tài sản công khác cũng phải được thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế
để đảm bảo các tài sản luôn được sử dụng hiệu quả, không thất thoát hay lãng phí.
Thể chế về tiếp tục cấu lại ngành nghề kinh doanh, tập trung vào một số lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế cũng nên được chú trọng bằng thực hiện khuyến khích
phát triển mạnh nền kinh tế hợp tác giữa các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa với
nhiều hình thức đa dạng, đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhânhầu hết các
ngành theo pháp luật, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của
nền kinh tế nước nhà, phát triển doanh nghiệp nhân bằng việc nâng cao trình độ
nhân lực, nới rộng thị trường, bảo vệ môi trường. Không chỉ thế, cần hoàn thiện thể
chế về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường với việc
hoàn thiện, bổ sungrà soát các quy định về việc kinh doanh phù hợp với điều kiện
Việt Nam nhằm bảo vệ thị trường nội địa phải tuân thủ quy tắc của các tổ chức
quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia, và phát triển đa dạng, hiện đại các loại thị
trường hàng hoá, dịch vụ đồng thời chú trọng mở rộng thị trường trong nước, đảm bảo
thị trường cạnh tranh lành mạnh nhằm bảo vệ lợi ích về giá cả, chất lượng sự an
toàn của người sản xuất người tiêu dùng. Quan trọng từng bước mở cửa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng; hoàn thiện và đồng bộ thể chế về tiền tệ, tín dụng
ngoại hối nhưng phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển trong nước cam
kết quốc tế. Ngoài ra phải đẩy mạnh, phát triển mở rộng thị trường công nghệ -
khoa học; thị trường bất động sản, thị trường lao động cũng việc làm cần thiết để
đảm bảo sự vận hành thông suốt và kết nối được với các thị trường trên thế giới.
Về nâng cao nhận thức về việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa: Trong phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng, báo cáo của Tổng thư
Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh phải thống nhất, hoàn thiện nâng cao nhận thức
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam và đồng thời đảm bảo định hướng
đó phù hợp với các giai đoạn phát triển của quốc gia. Cụ thể như sau: Dưới sự quản lý
10
của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nền kinh tế vừa dựa trên những quy
luật kinh tế thị trường, vừa tuân theo nguyên tắc cũng như bản chất của chủ nghĩa
hội. Không chỉ thế, còn cần chú trọng phát triển nền kinh tế bền vững với các chính
sách như: xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, cạnh tranh lành
mạnh, phát huy quyền tự do kinh doanh cho mọi công dân. Đồng thời vận dụng linh
hoạt đầy đủ cơ chế thị trường, coi trọng hợp tác lâu dài với mọi thành phần
chủ thể tham gia thị trường nhằm phát huy bền vững nền kinh tế. Chủ động tích
cực hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ vững tính độc lập, tăng cường tính tự chủ của nền
kinh tế nước nhà, luôn đảm bảo phát triển kinh tế luôn đi đôi với phát triển văn hoá -
xã hội.
Giải pháp thứ hai . phát triển sở hạ tầng Kết cấu hạ tầng tổng hợp các công
trình vật chất kỹ thuật chức năng phục vụ trực tiếp cho nền kinh tế đời sống,
được bố trí trên một phạm vi nhất định. Như vậy, các công trình, kết cấu kỹ thuật
đây rất đa dạng, đó là: các công trình giao thông vận tải (hạ tầng giao thông) , công
trình của ngành Bưu chính - Viễn thông (hạ tầng kỹ thuật số), công trình điện, công
trình thủy lợi (hạ tầng năng lượng), công trình bệnh viện, trường học và các công trình
công cộng phục vụ cộng đồng, Những công trình này vị trí hết sức quan trọng,
phục vụ trực tiếp và gián tiếp các hoạt động của xã hội. Như vậy, sở hạ tầng luôn
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự nghiệp phát triển kinh tế -
hội. Để đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, tạo động lực thúc đẩy liên kết vùng
trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp như: rà soát lại quy hoạch
hạ tầng giao thông của vùng của các địa phương, kể cả quy hoạch của ngành Giao
thông các lĩnh vực kinh tế hội khác, xác định chiến lược phát triển kinh tế
vùng liên vùng; quy hoạch phải mang tính đồng bộ cao, tránh manh mún, chồng
chéo trong các lĩnh vực, các ngành; đồng thời phải gắn chặt với đà phát triển kinh tế -
hội để giao thông thật sự đi trước, động lực phát triển kinh tế - hội của địa
phương, của vùng; trong chiến lược phát triển, cần cân đối lại các tỷ lệ phương
thức đầu tư, bảo đảm sdụng hiệu quả các nguồn vốn đầu phải đồng bộ giữa các
loại hình giao thông; … Với hạ tầng năng lượng, cần tập trung phát triển năng lượng
xanh, năng lượng sạch nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng lớn của
công cuộc phát triển kinh tế bởi đây một cách phát triển hướng tới sự bền vững
cũng tuân theo xu thế phát triển của thế giới. Ngoài ra, cũng cần phát triển hạ tầng
kỹ thuật số bằng việc tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng mạng lưới
viễn thông ngày càng ổn định, đặc biệt tập trung phát triển mạng 5G. kinh tế
càng phát triển thì yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng lại càng cao, như vậy, Nhà nước
cần chính sách khuyến khích đa dạng các nguồn vốn, tạo điều kiện cho các thành
11
phần kinh tế người dân tham gia xây dựng sở hạ tầng thiết yếu nhằm phục vụ
phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, cần chú tâm . mở rộng hội nhập, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế Ngoại
giao kinh tế đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu đưa nước ta phát triển nhanh và bền
vững, xác lập vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong kinh tế thế giới cộng
đồng quốc tế. Đầu tiên, cần mở rộng đưa quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước đi vào chiều sâu; tham gia các liên kết kinh tế, diễn đàn đa phương sẽ giúp tranh
thủ tối đa các nguồn lực cho phát triển nâng cao vị thế đất nước. Hơn thế, cần
không chỉ mở rộng thị trường xuất nhập khẩu còn cần chú trọng đến chiều sâu
trong phát triển xuất nhập khẩu. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp cận được
các khu vực thị trường được coi là “khó tính” nhất trên thế giới như Mỹ; châu Âu; …,
nơi đặt ra những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc
biệt là với nhóm hàng nông sản và thủy sản. Kết quả này đã thể hiện sự đúng đắn của
chính sách Việt Nam trong phát triển xuất khẩu. Không chỉ vậy, cần tích cực nghiên
cứu, theo dõi, dự báo về kinh tế thế giới, khu vực nhằm xây dựng, hoàn thiện chiến
lược, chính sách, điều hành kinh tế - hội. Bối cảnh quốc tế khu vực hiện đang
tiếp tục chuyển biến nhanh, phức tạp và khó lường với những biến động mạnh mẽ
chưa tiền lệ như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19, xu hướng
chuyển dịch đầu chuỗi sản xuất, cung ứng…; đất nước ta cũng đang bước vào
giai đoạn phát triển mới thời kỳ mới của hội nhập quốc tế. Điều này đặt ra cả
những thách thức hội mới. Do vậy, nghiên cứu, theo dõi, dự báo về kinh tế thế
giới một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần quan tâm. Như thế, mở rộng hội
nhập, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế là một trong những mối lưu tâm hàng đầu
của Đảng và Chính phủ Việt Nam một trong những giải pháp quan trọng trong
xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, nghiên cứu phát triển đổi mới sáng tạo trong bối cảnh thời đại công
nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ là động lực phát triển lâu dài cho nền kinh tế. Chuyển đổi
số trong kinh tế đang một trong những mối quan tâm hàng đầu xu hướng phát
triển của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Việc khuyến khích chuyển đổi số
trong mọi mặt của đời sống hội, đặc biệt kinh tế mang lại một số lợi ích điển
hình như: giảm thiểu thời gian làm các thủ tục hành chính, giúp các doanh nghiệp cắt
giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn,
lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông
suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... Qua đó, không chỉ
giúp tăng hiệu quả hoạt động còn nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế. Như vậy, kinh tế số đã và đang thể hiện những lợi ích cũng như vị
thế đối với sự tăng trưởng trong kinh tế cũng như cải thiện đời sống của người dân
12
nhiều quốc gia. Chính vì lẽ đó, Việt Nam cần thiết phải nghiên cứu, phát triểntạo
ra môi trường phù hợp để phát triển kinh tế số làm động lực phát triển cho nền kinh tế
một cách dài hạn.
Thứ năm và cũng quan trọng nhất, cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong công cuộc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN một quá trình mở, đòi hỏi
bản lĩnh và sự sáng tạo của Đảng, đồng thời dựa trênsở nhận thức đúng đắn, tôn
trọng và vận dụng chính xác các quy luật của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế cũng
như để phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. cần giải quyết hài hòa Như thế,
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường hội trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các hành động thiết thực: Tiếp tục nâng
cao, đổi mới duy năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; tăng cường
hiệu quả trong việc sử dụng hợp các cán bộ tham mưu cho Đảng trong việc lãnh
đạo, xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời phát huy và nâng cao vai trò quản kinh tế của Nhà nước sao cho phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa của đất nước. Bên
cạnh nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, cần nâng cao vai trò của các cơ quan dân
cử, tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong và ngoài nước.
Như vậy, cần áp dụng hài hòa các giải pháp để không những khắc phục các hạn chế
của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa còn phát triển nền kinh tế
thị trường để thực hiện mục đích xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
13
| 1/15

Preview text:

Mục lục I.
Lý luận về kinh tế hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa:...................................1
1. Kinh tế hàng hóa:.....................................................................................................1 1.1
Khái niệm:............................................................................................................ 1 1.2
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:................................................1 1.3
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa:........................................................1 1.4
Đặc trưng cơ bản và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa.........................................1
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa:..........................................2 2.1
Các nhân tố của kinh tế hàng hóa:........................................................................2 2.2
Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh:
…………………………………………………………………………………………..3 II.
Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay................................4
1. Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay................................5
2. Đánh giá thực trạng:.................................................................................................7 III.
Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam..............9 i
Danh mục tài liệu tham khảo
GS.TS Nguyễn Quang Thuấn. (2022). Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tuyên giáo - Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung Ương.
PGS. TS Bùi Quang Tuấn; TS Hà Huy Ngọc. (2022). Kinh tế Việt Nam 2021 và triển
vọng năm 2022. Tạp chí Cộng sản.
PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa; PGS.TS. Đoàn Xuân Thủy; PGS.TS. Phạm Văn Dũng;
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn; PGS.TS. Nguyễn Minh Khải; PGS.TS. Nguyễn
Khắc Thanh; GS.TS Phạm Quang Phan; PGS.TS. Vũ Thanh Sơn; PGS.TS. Tô
Đức Hạnh; PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn; ... . (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị
Mác-Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị).
Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
TS. Trần Văn Thiện. (2020). Tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong
phát triển kinh tế. Công thương. ii I.
Lý luận về kinh tế hàng hóa và sự phát triển kinh tế hàng hóa: 1. Kinh tế hàng hóa: I.1 Khái niệm:
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do con
người sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất định, thành thử
muốn thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán sản phẩm. Vì vậy sản
phẩm trở thành hàng hóa trên thị trường (Lênin toàn phần, tập 1). Như vậy, ta có
thể thấy rằng kinh tế hàng hóa là một nền kinh tế mở và các quan hệ của nó hầu
hết được thể hiện dưới hình thái giá trị.
I.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội khi và chỉ
khi xuất hiện hai điều kiện tiên quyết. Thứ nhất là có sự phân công lao động xã
hội, phân công lao động xã hội là sự phân công chuyên môn hóa những người sản
xuất thành những ngành nghề sản xuất khác nhau. Khi đó, mỗi người sẽ chỉ sản
xuất được một hoặc một vài thứ sản phẩm, tuy nhiên nhu cầu của họ lại là tiêu thụ
nhiều sản phẩm. Như vậy, muốn đáp ứng nhu cầu của mình, con người cần trao
đổi, mua bán sản phẩm với nhau. Đây là điều kiện cần. Thứ hai là có sự tách biệt
về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Điều kiện này dựa trên chế độ tư
hữu hoặc những hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất và nó làm cho tư liệu sản
xuất thuộc về từng người hoặc từng nhóm người trong xã hội. Do đó, nếu người/
nhóm người này muốn sử dụng sản phẩm do người/ nhóm người khác sản xuất thì
cần phải trao đổi, mua bán sản phẩm với nhau. Đây là điều kiện đủ.
I.3 Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa:
Kinh tế hàng hóa xuất hiện khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm
hữu nô lệ và phong kiến ra đời dưới dạng sản xuất giản đơn và phát triển mạnh
nhất trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH - giai đoạn thấp
của hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa cộng sản) dưới dạng. Đến giai đoạn cao của
hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa thì sản xuất hàng hóa tự tiêu vong.
I.4 Đặc trưng cơ bản và tính ưu việt của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp tự túc
Sản xuất tự cấp tự túc khác sản xuất hàng hóa ở một số đặc trưng cơ bản. Nếu mục
đích của sản xuất tự cấp tự túc là vì giá trị thì của sản xuất hàng hóa là vì giá trị, vì
lợi nhuận. Trong khi, quá trình tái sản xuất của sản xuất tự cấp tự túc chỉ gồm 2
khâu là sản xuất và tiêu dùng thì quá trình tái sản xuất của sản xuất hàng hóa gồm
4 khâu là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Ngoài ra, trong khi sản xuất tự
cấp tự túc thiếu động lực thúc đẩy sản xuất phát triển và nền kinh tế phát triển
chậm chạp thì người sản xuất hàng hóa có động lực sản xuất hàng hóa và nền kinh 1
tế hàng hóa phát triển nhanh. Như vậy, sản xuất hàng hóa đối lập và có những ưu
việt so với sản xuất tự cấp tự túc. Tính ưu việt này được thể hiện qua các biểu
hiện: kinh tế hàng hóa tạo động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh
tế đồng thời phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể kinh tế, các vùng miền,
lợi thế quốc gia và tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con
người nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nền kinh tế hàng hóa vì mục đích lợi nhuận
nên nó có khả năng kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
sản xuất phát triển nhanh chóng, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa đa dạng, dồi
dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội,
và thúc đẩy sản xuất xã hội nhanh.
2. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa:
2.1 Các nhân tố của kinh tế hàng hóa: a, Hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, dùng để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng
hóa là công dụng của sản phẩm, dùng để thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người, nhu cầu ấy có thể là nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần; có thể là nhu
cầu cho tiêu dùng cho cá nhân hoặc cho sản xuất. Giá trị sử dụng của hàng hóa do
thuộc tính tự nhiên của vật quyết định, sản xuất càng phát triển, sản phẩm càng đa
dạng thì hàng hóa càng có nhiều giá trị sử dụng. Như thế, giá trị sử dụng là phạm
trù vĩnh viễn, một hàng hóa có nhiều giá trị sử dụng và giá trị sử dụng chỉ được thể
hiện thông qua quá trình tiêu dùng sản phẩm. Giá trị trao đổi là quan hệ tỉ lệ trao
đổi giữa những giá trị sử dụng khác loại nhau. Sở dĩ các hàng hóa trao đổi được
với nhau là vì giữa chúng có điểm chung nhau: đều là sản phẩm của lao động; hao
phí lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa được gọi là giá
trị hàng hóa. Như vậy, thực chất trao đổi hàng hóa với nhau chính là trao đổi lao
động hao phí của những người sản xuất hàng hóa với nhau. Do đó bản chất của giá
trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, quan hệ giữa người sản xuất
hàng hóa với nhau. Qua đó, khẳng định rằng giá trị là nội dung, cơ sở quyết định
giá trị trao đổi; giá trị trao đổi là biểu hiện của giá trị hàng hóa trong trao đổi và
giá trị hàng hóa chỉ được thể hiện thông qua trao đổi hàng hóa với nhau. Như vậy,
giá trị sử dụng và giá trị (giá trị hàng hóa) có mối quan hệ biện chứng với nhau,
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Lao động sản xuất hàng hóa có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu
tượng. Lao động cụ thể là lao động có ích, biểu hiễn giữa một hình thức chuyên 2
môn cụ thể nhất định; mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng,
công cụ riêng, phương pháp và kết quả riêng. Phân công lao động càng phát triển,
lao động cụ thể càng nhiều, giá trị sử dụng càng phát triển. Mặc dù lao động sản
xuất hàng hóa có những hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau nhưng chúng đều có
điểm chung nhau là đều có sự hao phí thể lực, trí lực của người sản xuất hàng hóa.
Hao phí sức lao động chính là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra
giá trị hàng hóa. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng ko phải là 2 loại lao
động khác nhau mà đây chỉ là 2 mặt của quá trình lao động và sản xuất hàng
hóa. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng phản ánh tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Lao động cụ thể là lao động độc lập
của từng người, thể hiện tính chất tư nhân nhưng sản phẩm của họ sản xuất ra phải
bán được trên thị trường, được xã hội chấp nhận, thể hiện tính chất xã hội. Lao
động tư nhân và lao động xã hội luôn có mâu thuẫn với nhau. Đây là mâu thuẫn cơ
bản của sản xuất hàng hóa. b, Tiền tệ:
Tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lao động sản xuất hàng
hóa, cũng là sự phát triển của các hình thái giá trị từ thấp đến cao gồm: hình thái
giản đơn (ngẫu nhiên) => hình thái mở rộng của giá trị => hình thái chung của giá
trị => hình thái tiền tệ của xã hội. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt, dùng là vật mang
giá chung cho các hàng hóa khác. Sự xuất hiện của tiền tệ làm xuất hiện quan hệ
kinh tế mới: hàng tiền - trao đổi lao động kết tinh trong hàng hóa và tiền tệ với
nhau. Như vậy, bản chất xã hội của tiền tệ là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội
giữa người sản xuất hàng hóa với nhau.
Tiền tệ có chức năng là thước đo giá trị: Tiền dùng để đo lường giá trị hàng hóa
trong trao đổi và được thể hiện thông quan giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hóa trong trao đổi; giá trị là nội dung cơ sở quyết
định giá cả, giá trị càng cao thì giá cả càng cao, giá cả chỉ là hình thức. Giá cả
được thực hiện thông qua trao đổi, trao đổi lại diễn ra trên thị trường, thị trường lại
có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá cả như: cạnh tranh, quan hệ cung cầu, sức mua
của đồng tiền. Không chỉ thế, tiền còn là phương tiện lưu thông (là môi giới trung
gian trong trao đổi), là phương tiện cất trữ (tiền rút khỏi lưu thông), phương tiện
thanh toán (tiền dùng để chi trả sau khi công việc đã hoàn thành) và phương tiện
tiền tệ thế giới (tiền thực hiện các chức năng ở phạm vi thế giới).
2.2 Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh:
a, Quy luật giá trị: 3
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Nội dung quy
luật là: Sản xuất và trao đổi hàng hóa được hình thành trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết.Yêu cầu: Đối với sản xuất, hao phí lao động cá biệt phù hợp (bằng
hoặc thấp hơn) với hao phí lao động xã hội cần thiết. Đối vơi lưu thông, trao đổi
theo nguyên tắc ngang giá: Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông
qua sự vận động của giá cả trên thị trường. Quy luật có một số tác động. Thứ nhất,
điều tiết sx và lưu thông hàng hóa: Đối với sx, tập trung sx hàng hóa có giá cả cao
(cung < cầu); loại bỏ sx hàng hóa có giá cả thấp (cung > cầu). Đối với lưu thông,
điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Thứ hai, kích thích
cải tiễn kĩ thuật, tăng năng suất lao động và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngoài ra quy luật còn dẫn đến phân hóa người sản xuất thành những người giàu nghèo trong xã hội. b, Quy luật cạnh tranh:
Quy luật vận động thứ hai của kinh tế hàng hóa là quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh
là sự ganh đua, đấu tranh quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành dật những
ưu thế về sản xuất, tiêu thụ hh nhằm thu lợi ích tối đa. Căn cứ vào ngành sản xuất
kinh doanh, cạnh tranh chia thành cạnh tranh nội bộ ngành (là cạnh tranh giữa các
chủ thể kinh doanh trong cùng 1 ngành và dẫn đến kết quả là hình thành giá trị thị
trường) và cạnh tranh giữa các ngành (là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh
giữa các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư cho lợi ích tối đa, dẫn đến kết quả
là hình thành giá cả sản xuất. Ngoài những tác động tích cực như: kích thích cải
tiến kĩ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực và đáp ứng nhu cầu của
xã hội, quy luật có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, biểu hiện là cạnh tranh không lành mạnh. II.
Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa vận hành đầy đủ theo các quy luật của
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo nhằm xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu, phù hợp
với quy luật khách quan: quy luật phát triển từ kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh
tế hàng hóa phát triển (kinh tế thị trường); tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa không thể giải quyết được những mâu thuẫn vốn có của nó và đặc biệt là
không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa lực 4
lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm phát huy tính ưu việt của nó: kinh tế thị trường là phương tiện
thực hiện mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Hơn thế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là môi trường kinh tế phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đó là xây dựng một đất nước dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 1.
Thực trạng phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay:
Tăng trưởng GDP: Phản ánh ảnh hưởng đại dịch – Ngành công nghiệp tiếp tục là điểm sáng.
Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58%, thấp hơn mức 2,91% của năm 2020. Mức tăng
trưởng này phản ánh những khó khăn do dịch Covid-19 tới mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 khi nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải
thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Trong mức tăng
chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng
góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%,
đóng góp 22,23%. Khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%,
đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Nỗ lực trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại
dịch COVID-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo
điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế
phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định; thị trường chứng khoán phát
triển mạnh mẽ với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với
cuối năm 2020. Tính đến ngày 24-12-2021, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,93%
so với cuối năm 2020; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 8,44%; tăng
trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%.
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12-2021 giảm 0,18% so
với tháng 11-2021 và tăng 1,81% so với tháng 12-2020. Bình quân năm 2021, CPI
tăng 1,84% so với năm 2020, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản 12 tháng tăng 0,81%.
Giá vàng trong nước biến động trái chiều với giá vàng thế giới. Bình quân giá vàng
thế giới đến ngày 25-12-2021 giảm 1,8% so với tháng 11-2021 do đồng USD và lợi
suất trái phiếu Mỹ tăng theo kỳ vọng lãi suất Mỹ năm sau tăng lên. Trong nước, chỉ 5
số giá vàng tháng 12-2021 tăng 0,25% so với tháng 11-2020; tăng 1% so với tháng
12-2020 và bình quân năm 2021 tăng 8,67% so với năm trước. Còn đồng, do nhu
cầu mua ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng làm chỉ số giá USD tháng
12-2021 tăng 0,84% so với tháng 11-2021; giảm 0,58% so với tháng 12-2020 và
bình quân năm 2021 giảm 0,97% so với năm trước.
Đại dịch tác động tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp
Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 lần thứ tư khiến hoạt động sản xuất, kinh
doanh và tinh thần khởi nghiệp của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo báo
cáo của Cục Đăng ký kinh doanh, trong năm 2021 có 116.839 doanh nghiệp đăng ký
mới, giảm 13,4% so với năm 2020, là mức thấp nhất kể từ năm 2017 đến nay. Số
vốn đăng ký thành lập trong năm 2021 cũng chỉ đạt 1.611.109 tỷ đồng, giảm 27,9%
so với năm 2020. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm
2021 là 43.116 doanh nghiệp, giảm 2,2% so với năm 2020. Mặt khác, việc dịch
bệnh kéo dài “bào mòn” sức lực của nhiều doanh nghiệp trong nước, trong đó phần
lớn là các doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy mô vốn nhỏ. Có 119.828 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động, giải thể trong năm 2021, tăng 17,8% so với năm 2020.
Trong 1 năm vất vả đối phó dịch bệnh, tăng trưởng xuất nhập khẩu là điểm sáng
Năm 2021 là một năm đầy biến động đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng,
nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của các bộ, ngành,
chính quyền địa phương, sự nỗ lực chủ động vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp,
các tổ chức xúc tiến thương mại đã giúp duy trì sản xuất và xuất khẩu, với tổng kim
ngạch kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Trong đó, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Riêng khu vực
kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng
21,1%, chiếm 73,6%. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có 35 mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng
xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%).
Đối với nhập khẩu, năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ
USD, tăng 26,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,07
tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng
29,1%. Có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1%
tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại hàng hóa năm 2021 ước tính xuất siêu 4 tỷ USD (năm 2020
xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,36 tỷ
USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 29,36 tỷ USD. 6
Có được những kết quả trên chính là nhờ chúng ta đã khai thác tốt các thị trường
nước ngoài. Cùng với việc giữ được các thị trường xuất khẩu truyền thống, doanh
nghiệp Việt Nam đã tận dụng khá tốt cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do
(FTA), nhất là các hiệp định FTA thế hệ mới (EU FTA, VJEPA, …)
Bất chấp dịch bệnh, Việt Nam vẫn thành công trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn
đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào
môi trường đầu tư Việt Nam. Ước tính năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, bao gồm:
Vốn khu vực nhà nước đạt 713,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,7% tổng vốn và giảm
2,9% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.720,2 nghìn tỷ đồng, bằng
59,5% và tăng 7,2%; khu vực FDI đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm
1,1%. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam
năm 2021 ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm 2020. Trong đó, công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 14,30 tỷ USD, chiếm 72,5% tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,63 tỷ USD, chiếm
13,3%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không
khí đạt 1,54 tỷ USD, chiếm 7,8%. 2.
Đánh giá thực trạng:
a, Những kết quả đạt được:
- Trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực
và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
- Các đạo luật, thể chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện. Tư duy xây dựng
pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi
mang tính đột phá, giúp mở rộng không gian hoạt động kinh doanh đầu tư của người dân.
- Cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh giúp nâng cao nhận thức cho các bộ, ngành
nhằm dỡ bỏ rào cản tham gia thị trường.
- Kinh tế tư nhân ngày càng là động lực quan trọng, kinh tế tập thể đổi mới gắn
với cơ chế thị trường, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh.
- Năm 2020 - 2021, tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khắc
phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.
- Cố gắng cải thiện đời sống người dân bất chấp dịch bệnh
- Tiếp tục giữ vững tình hình chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. 7
b, Những hạn chế và nguyên nhân: -
Thể chế vẫn còn nhiều thiếu sót, thiếu liên kết:
Khi thể chế phát triển, việc điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm
được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo. Ngoài ra, chất lượng
luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Nhiều quy định đang rất cần
được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành
và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất… -
Nhận thức về nền kinh tế thị trường còn chưa cao:
Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn
ra chậm. Vì vậy, dẫn đến thiếu sự đồng bộ, tính nhất quán nhưng còn tồn tại những
bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. -
Cơ sở hạ tầng còn cần được phát triển hơn nữa:
Cơ sở hạ tầng luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình, kết cấu kỹ thuật ở đây rất đa dạng, đó là:
các công trình giao thông vận tải (hạ tầng giao thông) , công trình của ngành Bưu
chính - Viễn thông (hạ tầng kỹ thuật số), công trình điện, công trình thủy lợi (hạ
tầng năng lượng), công trình bệnh viện, trường học và các công trình công cộng
phục vụ cộng đồng,… T
uy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong cơ sở hạ tầng.
Thực tế cho thấy, hạ tầng giao thông trục chưa có tính kết nối và liên thông thuận lợi
giữa các địa phương trong nội vùng và liên vùng. Còn nhiều hạn chế trong đầu tư
phát triển hạ tầng giao thông. Đầu tư kết nối giữa các phương thức vận tải chưa phát
huy hiệu quả của toàn hệ thống, thiếu đồng bộ. Trong thời gian qua phát triển vận tải
bằng đường bộ và hàng không là chủ yếu, các phương thức vận tải khác như đường
sắt và đường thủy còn nhiều hạn chế chưa phát huy được hiệu quả khai thác.
Việc khai thác, sử dụng chưa hiệu quả công trình sau khi đầu tư gây lãng phí nguồn
lực. Các trung tâm logistics quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ một số doanh nghiệp
trong khu vực khu công nghiệp hay một địa phương, chưa phát triển đến quy mô
phục vụ một ngành hoặc một vùng kinh tế.
Đối với hạ tầng năng lượng, khi nền kinh tế phát triển và nhu cầu sử dụng năng
lượng ngày càng lớn, việc bổ sung nguồn năng lượng xanh, sạch, ngày càng trở nên
cần thiết hơn. Tuy nhiên, nguồn năng lượng này không liên tục. Việt Nam cần chú
trọng giải quyết các vấn đề quan trọng như tích hợp năng lượng tái tạo, phát triển
mạng lưới, tự động hóa lưới điện,… Đồng thời, cung cấp đầy đủ công nghệ trong
chuỗi giá trị điện năng, đảm bảo độ an toàn và tin cậy của dòng điện. 8 -
Thách thức về cải thiện môi trường kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển:
Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch; việc bảo vệ
thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất cập.
Tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng
cạnh tranh quốc tế chưa cao. Trong khi đó, chúng ta chưa tạo được đột phá trong
huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Mà các nguồn
lực cho phát triển phân bổ còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu
quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. III.
Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam:
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong những năm tới:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người ước đạt 4.700-5.000 USD/năm).
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 7.500 USD/năm).
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao (đến năm đó, tiêu chí sẽ thay đổi, theo tiêu chí hiện nay, GDP bình quân
đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm).
Chính vì vậy, dựa vào thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và căn cứ vào nhu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới, có thể xác
định và đưa ra những phương hướng, giải pháp, các nội dung cơ bản cần được tập
trung quan tâm nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện thể chế về phát triển và xây dựng, giữ vững, định hướng,
thống nhất, đồng thời nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Về hoàn thiện thể chế, cần hoàn thiện đồng bộ thể chế nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bằng cách tập trung rà soát, tháo gỡ những điểm nghẽn tức
quy định chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp. Hơn thế, còn cần sửa đổi, hoàn thiện 9
các thủ tục hành chính chồng chéo cản trở sự phát triển kinh tế và tăng cường kỷ
cương, trách nhiệm giữa các cấp, các ngành. Ngoài ra, cần tập trung hơn vào công tác
bổ sung các cơ chế và chính sách để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: thúc đẩy
phát triển, khởi nghiệp; khuyến khích sự ra đời của các loại hình và mô hình kinh
doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, cơ cấu nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất và sức cạnh tranh. Đặc biệt, cần
chú trọng hoàn thiện thể chế về việc phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế và loại hình doanh nghiệp
. Bởi việc thể chế hoá là nhằm đa dạng các hình thức
sở hữu và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản theo hình thức sở
hữu và hoàn thiện luật pháp về quyền và trách nhiệm sở hữu đối với các loại tài sản
mới như: sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, …. Các loại tài nguyên đất, nước, vốn và
các loại tài sản công khác cũng phải được thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế
để đảm bảo các tài sản luôn được sử dụng hiệu quả, không thất thoát hay lãng phí.
Thể chế về tiếp tục cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, tập trung vào một số lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế cũng nên được chú trọng bằng thực hiện khuyến khích
phát triển mạnh nền kinh tế hợp tác giữa các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa với
nhiều hình thức đa dạng, đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân ở hầu hết các
ngành theo pháp luật, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của
nền kinh tế nước nhà, phát triển doanh nghiệp tư nhân bằng việc nâng cao trình độ
nhân lực, nới rộng thị trường, bảo vệ môi trường. Không chỉ thế, cần hoàn thiện thể
chế về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường với việc
hoàn thiện, bổ sung và rà soát các quy định về việc kinh doanh phù hợp với điều kiện
ở Việt Nam nhằm bảo vệ thị trường nội địa và phải tuân thủ quy tắc của các tổ chức
quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia, và phát triển đa dạng, hiện đại các loại thị
trường hàng hoá, dịch vụ đồng thời chú trọng mở rộng thị trường trong nước, đảm bảo
thị trường cạnh tranh lành mạnh nhằm bảo vệ lợi ích về giá cả, chất lượng và sự an
toàn của người sản xuất và người tiêu dùng. Quan trọng là từng bước mở cửa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng; hoàn thiện và đồng bộ thể chế về tiền tệ, tín dụng
và ngoại hối nhưng phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển trong nước và cam
kết quốc tế. Ngoài ra phải đẩy mạnh, phát triển và mở rộng thị trường công nghệ -
khoa học; thị trường bất động sản, thị trường lao động cũng là việc làm cần thiết để
đảm bảo sự vận hành thông suốt và kết nối được với các thị trường trên thế giới.
Về nâng cao nhận thức về việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa: Trong phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng, báo cáo của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh phải thống nhất, hoàn thiện và nâng cao nhận thức
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam và đồng thời đảm bảo định hướng
đó phù hợp với các giai đoạn phát triển của quốc gia. Cụ thể như sau: Dưới sự quản lý 10
của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nền kinh tế vừa dựa trên những quy
luật kinh tế thị trường, vừa tuân theo nguyên tắc cũng như bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Không chỉ thế, còn cần chú trọng phát triển nền kinh tế bền vững với các chính
sách như: xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, cạnh tranh lành
mạnh, phát huy quyền tự do kinh doanh cho mọi công dân. Đồng thời vận dụng linh
hoạt và đầy đủ cơ chế thị trường, coi trọng và hợp tác lâu dài với mọi thành phần và
chủ thể tham gia thị trường nhằm phát huy bền vững nền kinh tế. Chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ vững tính độc lập, tăng cường tính tự chủ của nền
kinh tế nước nhà, luôn đảm bảo phát triển kinh tế luôn đi đôi với phát triển văn hoá - xã hội.
Giải pháp thứ hai là phát triển cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng là tổng hợp các công
trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho nền kinh tế và đời sống,
được bố trí trên một phạm vi nhất định. Như vậy, các công trình, kết cấu kỹ thuật ở
đây rất đa dạng, đó là: các công trình giao thông vận tải (hạ tầng giao thông) , công
trình của ngành Bưu chính - Viễn thông (hạ tầng kỹ thuật số), công trình điện, công
trình thủy lợi (hạ tầng năng lượng), công trình bệnh viện, trường học và các công trình
công cộng phục vụ cộng đồng, … Những công trình này có vị trí hết sức quan trọng,
phục vụ trực tiếp và gián tiếp các hoạt động của xã hội. Như vậy, cơ sở hạ tầng luôn
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội. Để đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, tạo động lực thúc đẩy liên kết vùng
trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp như: rà soát lại quy hoạch
hạ tầng giao thông của vùng và của các địa phương, kể cả quy hoạch của ngành Giao
thông và các lĩnh vực kinh tế xã hội khác, xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế
vùng và liên vùng; quy hoạch phải mang tính đồng bộ cao, tránh manh mún, chồng
chéo trong các lĩnh vực, các ngành; đồng thời phải gắn chặt với đà phát triển kinh tế -
xã hội để giao thông thật sự đi trước, là động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, của vùng; trong chiến lược phát triển, cần cân đối lại các tỷ lệ và phương
thức đầu tư, bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phải đồng bộ giữa các
loại hình giao thông; … Với hạ tầng năng lượng, cần tập trung phát triển năng lượng
xanh, năng lượng sạch nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng lớn của
công cuộc phát triển kinh tế bởi đây là một cách phát triển hướng tới sự bền vững và
cũng là tuân theo xu thế phát triển của thế giới. Ngoài ra, cũng cần phát triển hạ tầng
kỹ thuật số bằng việc tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng mạng lưới
viễn thông ngày càng ổn định, đặc biệt là tập trung phát triển mạng 5G. Vì kinh tế
càng phát triển thì yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng lại càng cao, như vậy, Nhà nước
cần có chính sách khuyến khích đa dạng các nguồn vốn, tạo điều kiện cho các thành 11
phần kinh tế và người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu nhằm phục vụ
phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, cần chú tâm mở rộng hội nhập, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Ngoại
giao kinh tế đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu đưa nước ta phát triển nhanh và bền
vững, xác lập vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong kinh tế thế giới và cộng
đồng quốc tế. Đầu tiên, cần mở rộng và đưa quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước đi vào chiều sâu; tham gia các liên kết kinh tế, diễn đàn đa phương sẽ giúp tranh
thủ tối đa các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế đất nước. Hơn thế, cần
không chỉ mở rộng thị trường xuất nhập khẩu mà còn cần chú trọng đến chiều sâu
trong phát triển xuất nhập khẩu. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp cận được
các khu vực thị trường được coi là “khó tính” nhất trên thế giới như Mỹ; châu Âu; …,
nơi đặt ra những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc
biệt là với nhóm hàng nông sản và thủy sản. Kết quả này đã thể hiện sự đúng đắn của
chính sách Việt Nam trong phát triển xuất khẩu. Không chỉ vậy, cần tích cực nghiên
cứu, theo dõi, dự báo về kinh tế thế giới, khu vực nhằm xây dựng, hoàn thiện chiến
lược, chính sách, điều hành kinh tế - xã hội. Bối cảnh quốc tế và khu vực hiện đang
tiếp tục chuyển biến nhanh, phức tạp và khó lường với những biến động mạnh mẽ và
chưa có tiền lệ như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19, xu hướng
chuyển dịch đầu tư và chuỗi sản xuất, cung ứng…; đất nước ta cũng đang bước vào
giai đoạn phát triển mới và thời kỳ mới của hội nhập quốc tế. Điều này đặt ra cả
những thách thức và cơ hội mới. Do vậy, nghiên cứu, theo dõi, dự báo về kinh tế thế
giới là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần quan tâm. Như thế, mở rộng hội
nhập, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế là một trong những mối lưu tâm hàng đầu
của Đảng và Chính phủ Việt Nam và là một trong những giải pháp quan trọng trong
xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh thời đại công
nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ là động lực phát triển lâu dài cho nền kinh tế. Chuyển đổi
số trong kinh tế đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu và xu hướng phát
triển của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Việc khuyến khích chuyển đổi số
trong mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế mang lại một số lợi ích điển
hình như: giảm thiểu thời gian làm các thủ tục hành chính, giúp các doanh nghiệp cắt
giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn,
lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông
suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... Qua đó, không chỉ
giúp tăng hiệu quả hoạt động mà còn nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế. Như vậy, kinh tế số đã và đang thể hiện những lợi ích cũng như vị
thế đối với sự tăng trưởng trong kinh tế cũng như cải thiện đời sống của người dân ở 12
nhiều quốc gia. Chính vì lẽ đó, Việt Nam cần thiết phải nghiên cứu, phát triển và tạo
ra môi trường phù hợp để phát triển kinh tế số làm động lực phát triển cho nền kinh tế một cách dài hạn.
Thứ năm và cũng là quan trọng nhất, cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong công cuộc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình mở, nó đòi hỏi
bản lĩnh và sự sáng tạo của Đảng, đồng thời dựa trên cơ sở nhận thức đúng đắn, tôn
trọng và vận dụng chính xác các quy luật của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế cũng
như để phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Như thế cần giải quyết hài hòa ,
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các hành động thiết thực: Tiếp tục nâng
cao, đổi mới tư duy và năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; tăng cường
hiệu quả trong việc sử dụng hợp lý các cán bộ tham mưu cho Đảng trong việc lãnh
đạo, xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời phát huy và nâng cao vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước sao cho phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Bên
cạnh nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, cần nâng cao vai trò của các cơ quan dân
cử, tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong và ngoài nước.
Như vậy, cần áp dụng hài hòa các giải pháp để không những khắc phục các hạn chế
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn phát triển nền kinh tế
thị trường để thực hiện mục đích xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. 13