Lý luận về tiền công| Đại học Kinh tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công và liên
hệ thực tiễn với Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Lê Thanh Thảo
Mã sinh viên: 11217742
Lớp học phần: LLNL1106(221)_29
Hà Nội, ngày 1 tháng 4 năm 2022
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................2
A. LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................3
B. NỘI DUNG...........................................................................................................5
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công.................................................5
1.1 Bản chất kinh tế của tiền công......................................................................5
1.2 Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản........................5
1.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế...................................................6
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công..........................................................7
2. Liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam.......9
2.1 Thực tế tiền công của lao động ngành dệt may ở Việt Nam..........................9
2.2 Giải pháp tăng tiền công cho lao động ngành dệt may ở Việt Nam...........10
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................12
TRÍCH NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................14
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong các loại hình thái kinh tế - xã hộinhân loại đã trải qua, con người luôn
trung tâm, động lực chính của sự phát triển kinh tế, hội. Con người muốn tồn
tại và phát triển, trước hết cần phải có ăn, mặc, ở, đi lại... . Tuy nhiên, cơm ăn, áo mặc
không phải tự nhiên để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của bản thân thì con
người phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hóa
hiện nay, khiquá trình xã hội hóa sản xuấtlao động ngày càng được đẩy mạnh,
lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất công nông nghiệp
đang dần dịch chuyển sang dịch vụ, lao động được trả công được tính bằng tiền
công. Chính vậy tiền công nghĩa cùng quan trọng đối với cuộc sống con
người. Lý luận về tiền công đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ lâu, bắt đầu
William Petty. Chính W.Petty người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho
thuyết Quy luật sắt về tiền công “. thuyết mức tiền công tối thiểu phản ánh trình
độ phát triển ban dầu của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, vì vậy để
buộc giai cấp công nhân làm việc thì giai cấp tư sản phải dựa vào nhà nước để duy trì
mức lương thấp. ràng người công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của
mình những liệu sinh hoạt tối thiểu, phần còn lại đã bị nhà bản chiếm đoạt. Đây
chính là nguyên nhân sâu xa của những cuộc chiến tranh chống lại ách áp bức bóc lột
của giai cấp tư sản.
Lý luận về tiền công của C. Mác là sự tiếp tục kế thừa và phát triển lý luận của các
nhà kinh tế học cổ điển trước đó. Lý luận về tiền công của C. Mác đã vạch rõ bản chất
của tiền công rằng tiền công giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó bộ phận của
giá trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tạo ra, nhưng
lại thường được hiểu do người mua sức lao động trả cho người lao động làm
thuê.
Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo chế thị trường sự quản của Nhà
nước đã nhiều thay đổi phát triển đi lên. Các hoạt động trong hội đều bị chi
phối bởi các quy luật thị trường đặc biệt quy luật cạnh tranh. Theo đó hội luôn
mong muốn sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất để nâng cao đời sống, các tổ
chức kinh tế thì luôn mong muốn tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận thông qua việc sản
xuất hàng hóa, dịch vụ. Để đáp ứng được mong muốn đó, con người phải tăng thời
gian lao động sản xuất hoặc tăng năng suất lao động. Trong các yếu tố đó thì quỹ thời
gian để lao động sản xuất làhạn vì mỗi người chỉ có tối đa 24 giờ mỗi ngày. Trong
khi đó năng suất lao động có thể tăng lên do các yếu tố khách quanchủ quan. Tiền
công là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng năng suất lao động vì tiền
công mục đích chính của người lao động. Tuy nhiên, tiền công người lao động
được hưởng trong các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp đặc biệt công nhân
trong các doanh nghiệp dệt may. Tiền công chưa đáp ứng được nhu cầu mức sống tối
thiểu của người lao động, vì vậy việc nâng cao tiền công thực tế của người lao động
Việt Nam là một nhiệm vụ cấp bách, cần được thực hiện triệt để. Trên cơ sở lý luận về
tiền công của C. Mác thực trạng tiền công của người lao động trong các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam, chúng ta sẽ phân tích đưa ra giải pháp cụ thể để nâng
cao tiền công của người lao động nói chung và công nhân dệt may nói riêng tạo tiền đề
để xây dựng nền kinh tế vững mạnh, phát triển; xã hội công bằng văn minh qua đó cải
thiện chất lượng cuộc sống của người lao động.
B. NỘI DUNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công
1.1 Bản chất kinh tế của tiền công
Biểu hiện bề ngoài của xã hộibản chủ nghĩacông nhân làm việc cho nhà
bản trong một khoảng thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hoàn
thành một số công việc nào đó thì nhà bản trả cho công nhân một khoản tiền gọi
tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công giá cả của lao
động. Sự thật thì tiền công không phải giá trị hay giá cả của lao động, lao động
không phải hàng hóa. Nếu lao động là hàng hóa thì phải có trước, phải được vật
hóa trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để lao động vật hóa đượcphải có
liệu sản xuất. Nhưng một khi người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hóa
do mình sản xuất ra chứ không phải là bán lao động.
Việc thừa nhận lao động là hàng hóa đã dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận
sau đây: thứ nhất, nếu lao động hàng hóa được trao đổi ngang giá thì nhà
bản sẽ không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư), điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế
của quy luật giá trị thặng trong chủ nghĩa bản. Thứ hai, nếu hàng hóa lao
động và được trao đổi không ngang giá để nhà tư bản thu được lợi nhuận thì phải phủ
nhận quy luật giá trị. Nếu lao động hàng hóa thì hàng hóa đó phải giá trị. Lao
động thực thể thước đo nội tại của giá trị nhưng bản thân lao động thì không
giá trị. Vì vậy, lao động không phải là hàng hóa, cái mà người lao động bán cho nhà tư
bản sức lao động. Do đó tiền công nhà bản trả cho người lao động giá cả
của sức lao động. Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá cả của sức
lao động nhưng lại được biểu hiện ra bề ngoài là giá cả của lao động.
1.2 Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính
theo sản phẩm.
Tiền công tính theo thời gian hình thức tiền công số lượng của ít hay
nhiều phụ thuộc vào thời gian làm việc của người lao động. Cần phân biệt tiền công
giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Tiền công ngày tiền công tuần
chưa thể hiện được mức tiền công đó cao hay thấp còn phụ thuộc theo độ dài
ngắn của ngày lao động. Do đó muốn đánh giá chính xác mức tiền công phải căn cứ
vào độ dài của ngày lao động năng suất lao động. Giá cả của một giờ lao động
thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc
vào số lượng sản phẩm hoặc số lượng bộ phận của sản phẩm người lao động sản
xuất ra hay khối lượng công việc họ đã hoàn thành. Mỗi sản phẩm được trả công
theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng thương giữa tiền
công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình
một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực chất đơn giá tiền công là tiền
công trả cho thời gian cần thiết để sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo
sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời gian. Tính tiền công theo
sản phẩm, một mặt giúp cho nhà bản trong quá trình quản thể giám sát quá
trình lao động của công nhân dễ dàng hơn, mặt khác kích thích công nhân lao động
tích cực, khẩn trương, hăng hái tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
1.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên
tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa, dịch vụ
người lao động mua được bằng chính tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa không thể hiện được đầy đủ mức sống, mức chi tiêu của
người lao động. Tiền công danh nghĩa là giá cả của sức lao động, vì vậy nó có thể tăng
lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao
động trên thị trường,. Trong một khoảng thời gian, nếu tiền công danh nghĩa không
thay đổi, trong khi giá cả củaliệu sinh hoạtdịch vụ tiêu dùng tăng lên hay giảm
xuống thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
C. Mác đã chỉ tính quy luật của sự vận động tiền công trong chủ nghĩa bản
rằng: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa bản, tiền công danh nghĩa xu
hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng của giá
cả liệu tiêu dùng dịch vụ, khi đó tiền công thực tế của lao động xu hướng hạ
thấp.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công
1.4.1 Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung – Cầu
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền công xu hướng giảm
xuống. Ngược lại khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền công xu
hướng tăng lên, còn khi cung cầu bằng nhau thì thị trường lao động đạt tới sự cân
bằng. Tiền công lúc này tiền công cân bằng, mức tiền công này bị phá vỡ khi các
nhân tố ảnh hưởng tới cung và cầu về lao động thay đổi như: giá cả hàng hóa dịch vụ,
năng suất lao động,... Khi chi phí sinh hoạt thay đổi do giá cả hàng hóa, dịch vụ thay
đổi kéo theo tiền công thực tế thay đổi. Vì vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải
điều chỉnh tiền công danh nghĩa của người lao động để bảo đảm cuộc sống của họ.
Trên thị trường vẫn luôn tồn tại sự chênh lệch về mức tiền công giữa các khu vực Nhà
nước, liên doanh, nhân..., giữa các ngành, các vị trí công việc mức độ hấp dẫn
khác nhau, yêu cầu về trình lao động khác nhau.
1.4.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp
Khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng mạnh tới tiền công của
người lao động. Với doanh nghiệp có nguồn vốn lớn, lợi nhuận cao thì khả năng chi trả
tiền công cho người lao động sẽ dễ dàng, ổn định. Còn ngược lại nếu khả năng tài
chính không vững thì tiền công của người lao động sẽ rất bấp bênh, thậm chí hiện nay
vẫn còn xảy ra rất nhiều trường hợp doanh nghiệp nợ lương của công nhân hàng tháng
trời dẫn tới các cuộc đình công hay trường hợp lao động nghỉ việc giữa chừng chế
độ lương thưởng không bảo đảm cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ.
Các chính sách về lương, phụ cấp, giá thành,... được áp dụng triệt để, phù hợp sẽ
thúc đẩy lao động nâng cao năng suất, chất lượng làm việc, trực tiếp làm tăng thu nhập
của chính bản thân người lao động cũng chínhmột trong những nhân tố ảnh hưởng
đến tiền công.
Cơ cấu tổ chức hợphay bất hợp lý cũng có ảnh hưởng đến tiền công của người
lao động. Công tác quản được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra
sao để vừa thuận tiện trong việc giám sát vừa phù hợp với năng lực, trình độ tay nghề
của người lao động. Không những vậy việc đề ra những biện pháp kích thích sự sáng
tạo động lực làm việc của người lao động cũng điều cần thiết để tăng hiệu quả,
năng suất lao động cũng góp phần tăng tiền công.
1.4.3 Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động
Với lao động trình độ cao thì sẽ được thu nhập cao hơn so với lao động
trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản chi
phí tương đối cho việc học tập, đào tạo. Người lao động làm những công việc đòi hỏi
trình độ hàm lượng kiến thức cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp
thì việc được hưởng lương cao là điều tất yếu.
Thâm niên công tác kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một người
qua nhiều năm, lao động công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm làm việc quý
báu, hạn chế được những rủi ro, nâng cao bản lĩnh, trách nhiệm đối với công việc
thế mà thu nhập của họ sẽ ngày càng tăng lên.
Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không
đều ảnh hưởng trực tiếp đến tiền công của người lao động.
1.4.4 Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc
Một trong những nhân tố khác ảnh hưởng đến tiền công chính giá trị của công
việc. Công việc có sức hấp dẫn cao, thu hút được nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp
sẽ không bị sức ép tăng lươngthể tuyển được nguồn lao động lớn với chi phí thấp,
ngược lại với công việc kém hấp dẫn, ít thu hút được lao động buộc doanh nghiệp phải
có biện pháp kích thích, thu hút lao động quan tâm đến công việc và một trong số đó
là tăng lương.
Với công việc có độ phức tạp càng cao thì mức tiền công được trả cho công việc đó
càng nhiều. Độ phức tạp của công việc có thể là những yêu cầu về trình độ kĩ thuật, tay
nghề; khó khăn về điều kiện làm việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó
mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc có tính chất đơn giản, điều kiện làm việc an
toàn, lành mạnh.
Điều kiện thực hiện công việc: để thực hiện công việc cần phải xác định phần việc
phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm việc với máy móc,
môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng, an toàn hay nguy hiểm. Đó cũng chính
những yếu tố quyết định đến mức tiền công.
1.4.5 Các nhân tố khác
Sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, chủng tộc đã gây ra sự chênh lệch
rất lớn về tiền công của người lao động. phản ánh không đúng mức lao động thực
tế của người lao đã bỏ ra. Ngoài ra sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường
cũng ảnh hưởng tới tiền công của lao động.
2. Liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam
2.1 Thực tế tiền công của lao động ngành dệt may ở Việt Nam
Dệt may được coi là một trong những lĩnh vực chủ chốt của nhiều nền kinh tế, quy
thương mại của thị trường dệt may toàn cầu chiếm từ 8 8.8% tổng thương mại
toàn cầu. Ngành dệt may của Việt Nam cũng là một trong những ngành hàng xuất khẩu
chủ lực, giữ vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 12 – 16%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và cũng là ngànhlượng công nhân làm việc
đông đảo nhất nước ta. Những năm gần đây do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 các
doanh nghiệp dệt may gặp rất nhiều khó khăn: chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào bị
gián đoạn; các thị trường nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam phải đóng cửa do giãn
cách hội; nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của người tiêu dùng giảm...Tuy nhiên, những
tháng cuối năm 2020, khi dịch bệnh được kiểm soát các doanh nghiệp dệt may đã
nắm bắt được hội trong khó khăn, chuyển đổi các sản phẩm của mình để phù hợp
với tình hình tại, nhờ đó tăng trưởng của ngành dệt may đã có nhiều khởi sắc.
Mặc dù là ngành giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nhưng
dệt may lại ngành có mức lương bản trung bình thấp. Theo Trung tâm Phát triển
Hội nhập (CDI), lương bản của công nhân dệt may khoảng 5.100.000
đồng/tháng chiếm 64% tổng thu nhập. Các khoản phụ cấp, lương tăng ca chiếm đến
36% tổng thu nhập. Đây khoản thể bị trừ hoặc không nhận được vào những giai
đoạn ít việc. Giật gấu vai là tình trạng chung của đa số công nhân hiện nay khi thu
nhập của họ chỉ đáp ứng khoảng trên 60% nhu cầu tối thiểu. Kết quả nghiên cứu khảo
sát của Oxfam nhóm chuyên gia thuộc Viện Công nhân Công Đoàn về chủ đề
Tiền lương không đủ sống hệ lụy của công nhân dệt may cho thấy, tới 69%
công nhân không có đủ tiền để trang trải nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, 31%
lao động ngành dệt may không tiết kiệm được từ tiền lương, 37% luôn trong tình
trạng vay nợ bạn bè và 96% không bao giờ hoặc hiếm khi đi ăn hàng. Đặc biệt, có 23%
công nhân đang sống trong các điều kiện nhà tạm bợ 44% đang phải sử dụng
nước giếng và nước mưa.
2.2.1 Lương công nhân dệt may theo trình độ, kinh nghiệm
Đối với vị trí công nhân may, dù không yêu cầu bằng cấp nhưng đòi hỏi phải có kỹ
năng, tay nghề kinh nghiệm thì mới thể đạt được hiệu quả công việc. công
việc này gắn liền với các kỹ thuật như cắt, may, sử dụng máy móc, gia công sản
phẩm,... do đó các nhà tuyển dụng cũng sẽ dựa vào tiêu chí này để đưa ra mức tiền
công phù hợp cho người lao động. Thông thường với những người đã kinh nghiệm
(trên 1 năm) thì mức lương sẽ cao hơn, dao động từ 6 9 triệu đồng/ tháng. Đối với
công nhân mới vào nghề chưa kinh nghiệm thì mức lương khởi điểm sẽ từ 4 5
triệu đồng/tháng. Còn những lao động đã tay nghề thâm niên thì thể nhận
được mức lương lên đến hơn 10 triệu đồng/ tháng.
2.2.2 Lương công nhân dệt may theo các khu vực làm việc
Những doanh nhiệp, công ty dệt may ở những nơi tập trung nhiều khu công nghiệp
sở hạ tầng trang thiết bị chất lượng hơn, thuận lợi hơn trong quá trình lưu
thông và tiêu thụ hàng hóa thường sẽ hoạt động với quy mô lớn hơn và phát triển mạnh
mẽ hơn so với những doanh nghiệp những khu vực nông thôn hay xa trung tâm.
Theo đó, mức lương dành cho người lao động ở thành phố sẽ cao hơn những vùng quê
hoạt động với quy mô nhỏ. Mức chênh lệch dao động từ 1 – 2 triệu đồng/ tháng.
2.2.3 Lương công nhân dệt may theo từng lĩnh vực
Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay đang phát triển rất nhiều mảng
khác nhau như: quần áo, giày da, phụ kiện,... Tùy vào từng lĩnh vực này mà mức lương
của công nhân sẽ sự chênh lệch. Thông thường lĩnh vực may quần áo, giày da
nhu cầu nhiều hơn nên lương sẽ cao hơn, còn những lĩnh vực như phụ kiện hay đồ
dùng ít nhu cầu thì mức lương công nhân sẽ thấp hơn. Mức chênh lệch mức lương
theo tiêu chí này dao động từ 1 – 3 triệu đồng/ tháng.
2.2 Giải pháp tăng tiền công cho lao động ngành dệt may ở Việt Nam
Vòng luẩn quẩn Thu nhập thấp biến động nhân sự lớn chất lượng sản phẩm
thấp, chi phí sản xuất cao sức cạnh tranh yếu lợi nhuận thấp thu nhập thấp
thực trạng của nhiều doanh nghiệp hiện nay. Vậy làm thế nào để người lao động trong
nghành dệt may nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống?
góc độ quản lý, cần những chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn nữa cho doanh
nghiệp dệt may chứ không chỉ dừng lại những ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu từ
doanh nghiệp FDI. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động, giảm
những chi phí chìm nổi để doanh nghiệp dệt may sức cạnh tranh trên thị trường
cũng gián tiếp nâng cao đời sống của người lao động. Việc kiểm tra, giám sát công
tác thực hiện Luật lao động các công ty, doanh nghiệp nên diễn ra thường xuyên.
Chế độ lương, thưởng cũng phải được kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm minh, tránh qua
loa hoặc tiêu cực để doanh nghiệp không chèn ép người lao động.
Đối với tổ chức Công đoàn các cấp cần tìm những giải pháp thích hợp để nâng cao
nhận thức về quyền và nghĩa vụ cho người lao động. Tổ chức Công đoàn cần đóng góp
ý kiến mạnh mẽ hơn đối với vấn đề chính sách pháp luật về tiền công từ khâu xây
dựng đến việc thực hiện sâu sát hơn, chuyên nghiệp hơn, đối với việc tiếp cận người
lao động doanh nghiệp từ đó hỗ trợ người lao động doanh nghiệp hướng đến
mục tiêu ổn định và phát triển.
Cần phải nhận thức rằng khi điều kiện sống không được đảm bảo, người lao động
chỉ xem công việc hiện tại như giải pháp tình thế tạm thời, họ sẽ không gắn bó,
không tận tâm, không cống hiến hết mình cho công việc dẫn đến tình trạng nhảy
việc liên tục từ đó chất lượng lao động sẽ không ổn định, dễ xảy ra các xung đột lợi ích
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho doanh nghiệp. vậy về phía doanh nghiệp
rất cần những hội thảo, chuyên đề dành cho nhà quảnđể hướng doanh nghiệp quan
tâm đến sự ổn định trong lực lượng chất lượng nguồn lao động, thấy được giá trị
của việc người lao động gắn bó lâu dài và cống hiến hết mình cho doanh nghiệp. Đồng
thời doanh nghiệp cũng cần được vấn, chia sẻ các giải pháp để hướng đến lợi ích
chính đáng cho người lao động.
Ngoài ra để tăng mức tiền công, người lao động cũng cần tự nhận thức quyền
nghĩa vụ của bản thân đối với doanh nghiệp công việc, từ đó chủ động học hỏi,
nâng cao trình độ tay nghề, tích lũy kinh nghiệm của mình. Đây yếu tố quan trọng
hàng đầu để đánh giá, xem xét về mức lương cho công nhân hiện nay.
C. KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiền công
và liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt mayViệt Nam em rút ra
được:
Bản chất của tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó là bộ phận của giá
trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tự trả cho mình
thông qua sổ sách của người mua hàng hóa sức lao động. Tiền công đã che đậy mọi
dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu thời gian
lao động thặng dư, do đó tiền công đã che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến
đổi của giá trị sức lao động. Những nhân tố làm tăng giá trị sức lao động bao gồm: sự
tăng lên nhu cầu sử dụng lao động; sự phát triển của doanh nghiệp, xã hội; sự nâng cao
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của người lao động; sức hấp dẫn của công việc;...
Những yếu tố tác động làm giảm giá trị sức lao động như: nhu cầu sử dụng lao động
giảm; trình độ chuyên môn, tay nghề yếu kém; sự phân biệt sắc tộc, màu da, giới tính,
độ tuổi,.. Sự tác động qua lại của các yếu tố đó dẫn tới sự biến đổi giá trị sức lao động,
do đó dẫn tới quá trình biến đổi phức tạp của tiền công trong thực tế.
Đối với người lao động, vấn đề tiền công luôn là vấn đề cấp thiết, quan trọng. Một
chính sách lương đúng đắn sẽ góp phần tạo động lực thúc đẩy lao động tích cực nhờ đó
sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng nhanh đạt tới trình độ cao. Nhưng để tiền
công vừa đáp ứng nhu cầu tối thiểu, nâng cao chất cuộc sống của người lao động vừa
tạo động lực làm việc cho họ đồng thời bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp là điều rất
khó, song không nghĩa chúng ta không thể thực hiện được. Hiểu vận dụng
luận của chủ nghĩa Mác Lênin vào việc cải cách chính sách tiền công cho người lao
động nói chung công nhân ngành dệt may nói riêng vấn đề cùng cần thiết.
Doanh nghiệp sử dụng lao động cần phải hiểu rõ vai trò của người lao động đối với sự
tồn tại phát triển của doanh nghiệp từ đó đưa ra những chính sách lương phù hợp,
quan tâm nhiều hơn đến người lao động thông qua các chính sách trợ cấp, thưởng hay
các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức. Còn đối với bản thân người
lao động không những phải chủ động học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề
còn phải tìm hiểu về quyền lợi nghĩa vụ của mình từ đó xác định được trách
nhiệm và thái độ làm việc đối với doanh nghiệp. ràng để tăng tiền công cho người
lao động trong ngành dệt may nói riêng và lao động phổ thông nói chung thì người lao
động cũng như doanh nghiệp mua hàng hóa sức lao động phải đặt địa vị của mỗi bên
trong một quan hệ lợi ích thống nhất. người lao động chính nguồn gốc cho sự
giàu của chủ doanh nghiệp sự phát triển của nền kinh tế nên người sử dụng lao
động phải đối xử với người lao động thật công bằng, bảo đảm cho cuộc sống của bản
thân gia đình người lao động thì họ mới thể toàn tâm toàn ý cho công việc. Về
phía người lao động, khi bán sức lao động của mình cần phải biết bảo vệ lợi ích của
bản thân trong quan hệ lợi ích với người mua hàng hóa sức lao động.
TRÍCH NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiền công: https://bitly.com.vn/14u36z
- Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam: https://bitly.com.vn/h4ir3d
- Triển vọng kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam: https://bitly.com.vn/dij2vo
- Thực trạng tiền công cuộc sống của công nhân ngành dệt may Việt Nam:
https://bitly.com.vn/dz2cdb
- Mức lương trung bình của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam trong những năm
gần đây: https://bitly.com.vn/wu2x66
| 1/15

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công và liên
hệ thực tiễn với Việt Nam

Họ và tên sinh viên: Lê Thanh Thảo
Mã sinh viên: 11217742
Lớp học phần: LLNL1106(221)_29
Hà Nội, ngày 1 tháng 4 năm 2022 MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................2
A. LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................3
B. NỘI DUNG...........................................................................................................5
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công.................................................5
1.1 Bản chất kinh tế của tiền công......................................................................5
1.2 Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản........................5
1.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế...................................................6
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công..........................................................7
2. Liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam.......9
2.1 Thực tế tiền công của lao động ngành dệt may ở Việt Nam..........................9
2.2 Giải pháp tăng tiền công cho lao động ngành dệt may ở Việt Nam...........10
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................12
TRÍCH NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................14 A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong các loại hình thái kinh tế - xã hội mà nhân loại đã trải qua, con người luôn
là trung tâm, là động lực chính của sự phát triển kinh tế, xã hội. Con người muốn tồn
tại và phát triển, trước hết cần phải có ăn, mặc, ở, đi lại... . Tuy nhiên, cơm ăn, áo mặc
không phải tự nhiên mà có để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của bản thân thì con
người phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hóa
hiện nay, khi mà quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động ngày càng được đẩy mạnh,
lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất công – nông nghiệp và
đang dần dịch chuyển sang dịch vụ, lao động được trả công và được tính bằng tiền
công. Chính vì vậy tiền công có ỹ nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con
người. Lý luận về tiền công đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ lâu, bắt đầu là
William Petty. Chính W.Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết “ Quy luật sắt về tiền công “. Lý thuyết mức tiền công tối thiểu phản ánh trình
độ phát triển ban dầu của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, vì vậy để
buộc giai cấp công nhân làm việc thì giai cấp tư sản phải dựa vào nhà nước để duy trì
mức lương thấp. Rõ ràng người công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của
mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu, phần còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đây
chính là nguyên nhân sâu xa của những cuộc chiến tranh chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.
Lý luận về tiền công của C. Mác là sự tiếp tục kế thừa và phát triển lý luận của các
nhà kinh tế học cổ điển trước đó. Lý luận về tiền công của C. Mác đã vạch rõ bản chất
của tiền công rằng tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó là bộ phận của
giá trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tạo ra, nhưng
nó lại thường được hiểu là do người mua sức lao động trả cho người lao động làm thuê.
Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đã có nhiều thay đổi và phát triển đi lên. Các hoạt động trong xã hội đều bị chi
phối bởi các quy luật thị trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh. Theo đó xã hội luôn
mong muốn sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất để nâng cao đời sống, các tổ
chức kinh tế thì luôn mong muốn tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận thông qua việc sản
xuất hàng hóa, dịch vụ. Để đáp ứng được mong muốn đó, con người phải tăng thời
gian lao động sản xuất hoặc tăng năng suất lao động. Trong các yếu tố đó thì quỹ thời
gian để lao động sản xuất là có hạn vì mỗi người chỉ có tối đa 24 giờ mỗi ngày. Trong
khi đó năng suất lao động có thể tăng lên do các yếu tố khách quan và chủ quan. Tiền
công là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng năng suất lao động vì tiền
công là mục đích chính của người lao động. Tuy nhiên, tiền công mà người lao động
được hưởng trong các doanh nghiệp ở Việt Nam còn rất thấp đặc biệt là công nhân
trong các doanh nghiệp dệt may. Tiền công chưa đáp ứng được nhu cầu mức sống tối
thiểu của người lao động, vì vậy việc nâng cao tiền công thực tế của người lao động ở
Việt Nam là một nhiệm vụ cấp bách, cần được thực hiện triệt để. Trên cơ sở lý luận về
tiền công của C. Mác và thực trạng tiền công của người lao động trong các doanh
nghiệp dệt may ở Việt Nam, chúng ta sẽ phân tích và đưa ra giải pháp cụ thể để nâng
cao tiền công của người lao động nói chung và công nhân dệt may nói riêng tạo tiền đề
để xây dựng nền kinh tế vững mạnh, phát triển; xã hội công bằng văn minh qua đó cải
thiện chất lượng cuộc sống của người lao động. B. NỘI DUNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền công
1.1 Bản chất kinh tế của tiền công
Biểu hiện bề ngoài của xã hội tư bản chủ nghĩa là công nhân làm việc cho nhà tư
bản trong một khoảng thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hoàn
thành một số công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân một khoản tiền gọi là
tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao
động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động
không phải là hàng hóa. Nếu lao động là hàng hóa thì nó phải có trước, phải được vật
hóa trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để lao động vật hóa được là phải có tư
liệu sản xuất. Nhưng một khi người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hóa
do mình sản xuất ra chứ không phải là bán lao động.
Việc thừa nhận lao động là hàng hóa đã dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận
sau đây: thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá thì nhà tư
bản sẽ không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư), điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế
của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, nếu nó là hàng hóa lao
động và được trao đổi không ngang giá để nhà tư bản thu được lợi nhuận thì phải phủ
nhận quy luật giá trị. Nếu lao động là hàng hóa thì hàng hóa đó phải có giá trị. Lao
động là thực thể là thước đo nội tại của giá trị nhưng bản thân lao động thì không có
giá trị. Vì vậy, lao động không phải là hàng hóa, cái mà người lao động bán cho nhà tư
bản là sức lao động. Do đó tiền công mà nhà tư bản trả cho người lao động là giá cả
của sức lao động. Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá cả của sức
lao động nhưng lại được biểu hiện ra bề ngoài là giá cả của lao động.
1.2 Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.
Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay
nhiều phụ thuộc vào thời gian làm việc của người lao động. Cần phân biệt tiền công
giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Tiền công ngày và tiền công tuần
chưa thể hiện rõ được mức tiền công đó cao hay thấp vì nó còn phụ thuộc theo độ dài
ngắn của ngày lao động. Do đó muốn đánh giá chính xác mức tiền công phải căn cứ
vào độ dài của ngày lao động và năng suất lao động. Giá cả của một giờ lao động là
thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc
vào số lượng sản phẩm hoặc số lượng bộ phận của sản phẩm mà người lao động sản
xuất ra hay khối lượng công việc mà họ đã hoàn thành. Mỗi sản phẩm được trả công
theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng thương giữa tiền
công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà
một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực chất đơn giá tiền công là tiền
công trả cho thời gian cần thiết để sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo
sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời gian. Tính tiền công theo
sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản trong quá trình quản lý có thể giám sát quá
trình lao động của công nhân dễ dàng hơn, mặt khác kích thích công nhân lao động
tích cực, khẩn trương, hăng hái tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
1.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên
tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa, dịch vụ mà
người lao động mua được bằng chính tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa không thể hiện rõ được đầy đủ mức sống, mức chi tiêu của
người lao động. Tiền công danh nghĩa là giá cả của sức lao động, vì vậy nó có thể tăng
lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao
động trên thị trường,. Trong một khoảng thời gian, nếu tiền công danh nghĩa không
thay đổi, trong khi giá cả của tư liệu sinh hoạt và dịch vụ tiêu dùng tăng lên hay giảm
xuống thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
C. Mác đã chỉ rõ tính quy luật của sự vận động tiền công trong chủ nghĩa tư bản
rằng: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu
hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng của giá
cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền công thực tế của lao động có xu hướng hạ thấp.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công
1.4.1 Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung – Cầu
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền công có xu hướng giảm
xuống. Ngược lại khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền công có xu
hướng tăng lên, còn khi cung và cầu bằng nhau thì thị trường lao động đạt tới sự cân
bằng. Tiền công lúc này là tiền công cân bằng, mức tiền công này bị phá vỡ khi các
nhân tố ảnh hưởng tới cung và cầu về lao động thay đổi như: giá cả hàng hóa dịch vụ,
năng suất lao động,... Khi chi phí sinh hoạt thay đổi do giá cả hàng hóa, dịch vụ thay
đổi kéo theo tiền công thực tế thay đổi. Vì vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải
điều chỉnh tiền công danh nghĩa của người lao động để bảo đảm cuộc sống của họ.
Trên thị trường vẫn luôn tồn tại sự chênh lệch về mức tiền công giữa các khu vực Nhà
nước, liên doanh, tư nhân..., giữa các ngành, các vị trí công việc có mức độ hấp dẫn
khác nhau, yêu cầu về trình lao động khác nhau.
1.4.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp
Khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng mạnh tới tiền công của
người lao động. Với doanh nghiệp có nguồn vốn lớn, lợi nhuận cao thì khả năng chi trả
tiền công cho người lao động sẽ dễ dàng, ổn định. Còn ngược lại nếu khả năng tài
chính không vững thì tiền công của người lao động sẽ rất bấp bênh, thậm chí hiện nay
vẫn còn xảy ra rất nhiều trường hợp doanh nghiệp nợ lương của công nhân hàng tháng
trời dẫn tới các cuộc đình công hay trường hợp lao động nghỉ việc giữa chừng vì chế
độ lương thưởng không bảo đảm cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ.
Các chính sách về lương, phụ cấp, giá thành,... được áp dụng triệt để, phù hợp sẽ
thúc đẩy lao động nâng cao năng suất, chất lượng làm việc, trực tiếp làm tăng thu nhập
của chính bản thân người lao động cũng chính là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tiền công.
Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng có ảnh hưởng đến tiền công của người
lao động. Công tác quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra
sao để vừa thuận tiện trong việc giám sát vừa phù hợp với năng lực, trình độ tay nghề
của người lao động. Không những vậy việc đề ra những biện pháp kích thích sự sáng
tạo và động lực làm việc của người lao động cũng là điều cần thiết để tăng hiệu quả,
năng suất lao động cũng góp phần tăng tiền công.
1.4.3 Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động
Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập cao hơn so với lao động có
trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản chi
phí tương đối cho việc học tập, đào tạo. Người lao động làm những công việc đòi hỏi
trình độ và hàm lượng kiến thức cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp
thì việc được hưởng lương cao là điều tất yếu.
Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một người
qua nhiều năm, lao động công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm làm việc quý
báu, hạn chế được những rủi ro, nâng cao bản lĩnh, trách nhiệm đối với công việc vì
thế mà thu nhập của họ sẽ ngày càng tăng lên.
Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không
đều ảnh hưởng trực tiếp đến tiền công của người lao động.
1.4.4 Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc
Một trong những nhân tố khác ảnh hưởng đến tiền công chính là giá trị của công
việc. Công việc có sức hấp dẫn cao, thu hút được nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp
sẽ không bị sức ép tăng lương có thể tuyển được nguồn lao động lớn với chi phí thấp,
ngược lại với công việc kém hấp dẫn, ít thu hút được lao động buộc doanh nghiệp phải
có biện pháp kích thích, thu hút lao động quan tâm đến công việc và một trong số đó là tăng lương.
Với công việc có độ phức tạp càng cao thì mức tiền công được trả cho công việc đó
càng nhiều. Độ phức tạp của công việc có thể là những yêu cầu về trình độ kĩ thuật, tay
nghề; khó khăn về điều kiện làm việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó
mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc có tính chất đơn giản, điều kiện làm việc an toàn, lành mạnh.
Điều kiện thực hiện công việc: để thực hiện công việc cần phải xác định phần việc
phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm việc với máy móc,
môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng, an toàn hay nguy hiểm. Đó cũng chính là
những yếu tố quyết định đến mức tiền công.
1.4.5 Các nhân tố khác
Sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, chủng tộc đã gây ra sự chênh lệch
rất lớn về tiền công của người lao động. Nó phản ánh không đúng mức lao động thực
tế của người lao đã bỏ ra. Ngoài ra sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường
cũng ảnh hưởng tới tiền công của lao động.
2. Liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam
2.1 Thực tế tiền công của lao động ngành dệt may ở Việt Nam
Dệt may được coi là một trong những lĩnh vực chủ chốt của nhiều nền kinh tế, quy
mô thương mại của thị trường dệt may toàn cầu chiếm từ 8 – 8.8% tổng thương mại
toàn cầu. Ngành dệt may của Việt Nam cũng là một trong những ngành hàng xuất khẩu
chủ lực, giữ vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 12 – 16%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và cũng là ngành có lượng công nhân làm việc
đông đảo nhất nước ta. Những năm gần đây do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 các
doanh nghiệp dệt may gặp rất nhiều khó khăn: chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào bị
gián đoạn; các thị trường nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam phải đóng cửa do giãn
cách xã hội; nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của người tiêu dùng giảm...Tuy nhiên, những
tháng cuối năm 2020, khi dịch bệnh được kiểm soát và các doanh nghiệp dệt may đã
nắm bắt được cơ hội trong khó khăn, chuyển đổi các sản phẩm của mình để phù hợp
với tình hình tại, nhờ đó tăng trưởng của ngành dệt may đã có nhiều khởi sắc.
Mặc dù là ngành giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nhưng
dệt may lại là ngành có mức lương cơ bản trung bình thấp. Theo Trung tâm Phát triển
và Hội nhập (CDI), lương cơ bản của công nhân dệt may khoảng 5.100.000
đồng/tháng chiếm 64% tổng thu nhập. Các khoản phụ cấp, lương tăng ca chiếm đến
36% tổng thu nhập. Đây là khoản có thể bị trừ hoặc không nhận được vào những giai
đoạn ít việc. Giật gấu vá vai là tình trạng chung của đa số công nhân hiện nay khi thu
nhập của họ chỉ đáp ứng khoảng trên 60% nhu cầu tối thiểu. Kết quả nghiên cứu khảo
sát của Oxfam và nhóm chuyên gia thuộc Viện Công nhân và Công Đoàn về chủ đề “
Tiền lương không đủ sống và hệ lụy “ của công nhân dệt may cho thấy, có tới 69%
công nhân không có đủ tiền để trang trải nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, 31%
lao động ngành dệt may không tiết kiệm được gì từ tiền lương, 37% luôn ở trong tình
trạng vay nợ bạn bè và 96% không bao giờ hoặc hiếm khi đi ăn hàng. Đặc biệt, có 23%
công nhân đang sống trong các điều kiện nhà ở tạm bợ và 44% đang phải sử dụng
nước giếng và nước mưa.
2.2.1 Lương công nhân dệt may theo trình độ, kinh nghiệm
Đối với vị trí công nhân may, dù không yêu cầu bằng cấp nhưng đòi hỏi phải có kỹ
năng, tay nghề và kinh nghiệm thì mới có thể đạt được hiệu quả công việc. Vì công
việc này gắn liền với các kỹ thuật như cắt, may, sử dụng máy móc, gia công sản
phẩm,... do đó các nhà tuyển dụng cũng sẽ dựa vào tiêu chí này để đưa ra mức tiền
công phù hợp cho người lao động. Thông thường với những người đã có kinh nghiệm
(trên 1 năm) thì mức lương sẽ cao hơn, dao động từ 6 – 9 triệu đồng/ tháng. Đối với
công nhân mới vào nghề chưa có kinh nghiệm thì mức lương khởi điểm sẽ từ 4 – 5
triệu đồng/tháng. Còn những lao động đã có tay nghề và thâm niên thì có thể nhận
được mức lương lên đến hơn 10 triệu đồng/ tháng.
2.2.2 Lương công nhân dệt may theo các khu vực làm việc
Những doanh nhiệp, công ty dệt may ở những nơi tập trung nhiều khu công nghiệp
có cơ sở hạ tầng và trang thiết bị chất lượng hơn, thuận lợi hơn trong quá trình lưu
thông và tiêu thụ hàng hóa thường sẽ hoạt động với quy mô lớn hơn và phát triển mạnh
mẽ hơn so với những doanh nghiệp ở những khu vực nông thôn hay xa trung tâm.
Theo đó, mức lương dành cho người lao động ở thành phố sẽ cao hơn những vùng quê
hoạt động với quy mô nhỏ. Mức chênh lệch dao động từ 1 – 2 triệu đồng/ tháng.
2.2.3 Lương công nhân dệt may theo từng lĩnh vực
Ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam hiện nay đang phát triển rất nhiều mảng
khác nhau như: quần áo, giày da, phụ kiện,... Tùy vào từng lĩnh vực này mà mức lương
của công nhân sẽ có sự chênh lệch. Thông thường lĩnh vực may quần áo, giày da có
nhu cầu nhiều hơn nên lương sẽ cao hơn, còn những lĩnh vực như phụ kiện hay đồ
dùng ít có nhu cầu thì mức lương công nhân sẽ thấp hơn. Mức chênh lệch mức lương
theo tiêu chí này dao động từ 1 – 3 triệu đồng/ tháng.
2.2 Giải pháp tăng tiền công cho lao động ngành dệt may ở Việt Nam
Vòng luẩn quẩn “ Thu nhập thấp – biến động nhân sự lớn – chất lượng sản phẩm
thấp, chi phí sản xuất cao – sức cạnh tranh yếu – lợi nhuận thấp – thu nhập thấp “ là
thực trạng của nhiều doanh nghiệp hiện nay. Vậy làm thế nào để người lao động trong
nghành dệt may nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống?
Ở góc độ quản lý, cần có những chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn nữa cho doanh
nghiệp dệt may chứ không chỉ dừng lại ở những ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư từ
doanh nghiệp FDI. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động, giảm
những chi phí chìm và nổi để doanh nghiệp dệt may có sức cạnh tranh trên thị trường
cũng là gián tiếp nâng cao đời sống của người lao động. Việc kiểm tra, giám sát công
tác thực hiện Luật lao động ở các công ty, doanh nghiệp nên diễn ra thường xuyên.
Chế độ lương, thưởng cũng phải được kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm minh, tránh qua
loa hoặc tiêu cực để doanh nghiệp không chèn ép người lao động.
Đối với tổ chức Công đoàn các cấp cần tìm những giải pháp thích hợp để nâng cao
nhận thức về quyền và nghĩa vụ cho người lao động. Tổ chức Công đoàn cần đóng góp
ý kiến mạnh mẽ hơn đối với vấn đề chính sách và pháp luật về tiền công từ khâu xây
dựng đến việc thực hiện sâu sát hơn, chuyên nghiệp hơn, đối với việc tiếp cận người
lao động và doanh nghiệp từ đó hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp hướng đến
mục tiêu ổn định và phát triển.
Cần phải nhận thức rằng khi điều kiện sống không được đảm bảo, người lao động
chỉ xem công việc hiện tại như là giải pháp tình thế tạm thời, họ sẽ không gắn bó,
không tận tâm, không cống hiến hết mình cho công việc và dẫn đến tình trạng nhảy
việc liên tục từ đó chất lượng lao động sẽ không ổn định, dễ xảy ra các xung đột lợi ích
và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho doanh nghiệp. Vì vậy về phía doanh nghiệp
rất cần những hội thảo, chuyên đề dành cho nhà quản lý để hướng doanh nghiệp quan
tâm đến sự ổn định trong lực lượng và chất lượng nguồn lao động, thấy được giá trị
của việc người lao động gắn bó lâu dài và cống hiến hết mình cho doanh nghiệp. Đồng
thời doanh nghiệp cũng cần được tư vấn, chia sẻ các giải pháp để hướng đến lợi ích
chính đáng cho người lao động.
Ngoài ra để tăng mức tiền công, người lao động cũng cần tự nhận thức quyền và
nghĩa vụ của bản thân đối với doanh nghiệp và công việc, từ đó chủ động học hỏi,
nâng cao trình độ tay nghề, tích lũy kinh nghiệm của mình. Đây là yếu tố quan trọng
hàng đầu để đánh giá, xem xét về mức lương cho công nhân hiện nay. C. KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiền công
và liên hệ thực tiễn với tiền công của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam em rút ra được:
Bản chất của tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó là bộ phận của giá
trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tự trả cho mình
thông qua sổ sách của người mua hàng hóa sức lao động. Tiền công đã che đậy mọi
dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian
lao động thặng dư, do đó tiền công đã che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến
đổi của giá trị sức lao động. Những nhân tố làm tăng giá trị sức lao động bao gồm: sự
tăng lên nhu cầu sử dụng lao động; sự phát triển của doanh nghiệp, xã hội; sự nâng cao
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của người lao động; sức hấp dẫn của công việc;...
Những yếu tố tác động làm giảm giá trị sức lao động như: nhu cầu sử dụng lao động
giảm; trình độ chuyên môn, tay nghề yếu kém; sự phân biệt sắc tộc, màu da, giới tính,
độ tuổi,.. Sự tác động qua lại của các yếu tố đó dẫn tới sự biến đổi giá trị sức lao động,
do đó dẫn tới quá trình biến đổi phức tạp của tiền công trong thực tế.
Đối với người lao động, vấn đề tiền công luôn là vấn đề cấp thiết, quan trọng. Một
chính sách lương đúng đắn sẽ góp phần tạo động lực thúc đẩy lao động tích cực nhờ đó
sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng nhanh và đạt tới trình độ cao. Nhưng để tiền
công vừa đáp ứng nhu cầu tối thiểu, nâng cao chất cuộc sống của người lao động vừa
tạo động lực làm việc cho họ đồng thời bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp là điều rất
khó, song không có nghĩa là chúng ta không thể thực hiện được. Hiểu và vận dụng lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào việc cải cách chính sách tiền công cho người lao
động nói chung và công nhân ngành dệt may nói riêng là vấn đề vô cùng cần thiết.
Doanh nghiệp sử dụng lao động cần phải hiểu rõ vai trò của người lao động đối với sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp từ đó đưa ra những chính sách lương phù hợp,
quan tâm nhiều hơn đến người lao động thông qua các chính sách trợ cấp, thưởng hay
các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức. Còn đối với bản thân người
lao động không những phải chủ động học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề
mà còn phải tìm hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của mình từ đó xác định được trách
nhiệm và thái độ làm việc đối với doanh nghiệp. Rõ ràng để tăng tiền công cho người
lao động trong ngành dệt may nói riêng và lao động phổ thông nói chung thì người lao
động cũng như doanh nghiệp mua hàng hóa sức lao động phải đặt địa vị của mỗi bên
trong một quan hệ lợi ích thống nhất. Vì người lao động chính là nguồn gốc cho sự
giàu có của chủ doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế nên người sử dụng lao
động phải đối xử với người lao động thật công bằng, bảo đảm cho cuộc sống của bản
thân và gia đình người lao động thì họ mới có thể toàn tâm toàn ý cho công việc. Về
phía người lao động, khi bán sức lao động của mình cần phải biết bảo vệ lợi ích của
bản thân trong quan hệ lợi ích với người mua hàng hóa sức lao động.
TRÍCH NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiền công: https://bitly.com.vn/14u36z
- Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam: https://bitly.com.vn/h4ir3d
- Triển vọng kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam: https://bitly.com.vn/dij2vo
- Thực trạng tiền công và cuộc sống của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam: https://bitly.com.vn/dz2cdb
- Mức lương trung bình của công nhân ngành dệt may ở Việt Nam trong những năm
gần đây: https://bitly.com.vn/wu2x66