Lý thuyết ôn lịch sử đảng./ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam là cuộc chiến đấu quyết liệt, vô cùng anh dung, không ngơi nghỉ trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận, trên phạm vi cả nước. Sự hi sinh của Đảng, của quân đội và nhân dân ta là vô bờ bến. Thắng lợi của cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46351761
Slide
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sang tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc
kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ
bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng
chiến phù hợp với đặc thì của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích một các thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu cảu
nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.
Phần thuyết trình:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam là cuộc chiến đấu
quyết liệt, vô cùng anh dung, không ngơi nghỉ trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận, trên phạm
vi cả nước. Sự hi sinh của Đảng, của quân đội và nhân dân ta là vô bờ bến. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh giải phóng dân tộc của Đảng và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sang tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của
cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
Ngay từ sau khi giành được chính quyền, nhận thức đúng sự biến đổi của tình hình thế
giới và trong nước, Đảng đã sớm hoạch định đúng đường lối cơ bản là “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”, kiên định quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, kiên trì bảo vệ sự
thống nhất, toàn vẹn của Tổ quốc, tuyệt đối không lúc nào nao núng, run sợ trước sức
mạnh và mọi sự uy hiếp của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Khi phải cùng lúc đương đầu với
nhiều kẻ thù nguy hiểm, Đảng và Hồ Chí Minh bình tĩnh, sáng suốt nhận định, đánh giá
đúng tình hình, chỉ rõ đối tượng, đối tác và đề ra chủ trương, sách lược, biện pháp giải
quyết đúng đắn. Vận dụng sáng tạo sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hang ngũ kẻ thù,
thực hiện hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc với từng kẻ thù, để phân hóa và từng
bước loại bỏ chúng.
Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng
tạo của nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, xây dựng, củng cố
và bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được; phát động cuộc chiến tranh nhân dân
lOMoARcPSD| 46351761
toàn dân, toàn diện kiên định thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời
kỳ kháng chiến; kết hợp sức mạnh đoàn kết và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam với
việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát huy sự ủng hộ, giúp
đỡ của bạn bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực nhằm thúc đẩy xây
dựng, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân, đồng thời đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến mau thắng lợi. Kết hợp nhuần
nhuyễn cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân là chỗ dựa với xây dựng, phát triển nền tảng, cơ sở hạ tầng chính trị - xã
hội vững chắc để phát huy hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và tổ chức Đảng và Chính phủ đối
với cuộc kháng chiến trên thực tế. Kháng chiến, kiến quốc, chống đế quốc, chống phong
kiến, xây dựng hậu phương – căn cứ địa vững chắc luôn là những nhiệm vụ cơ bản, cùng
đồng hành trong mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến và là nội dung chủ yếu, xuyên suốt
trong đường lối và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của Đảng Lao động Việt
Nam.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
kháng chiến phù hợp với đặc thì của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc
kháng chiến và so sánh lực lượng ta – địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính qui với chiến tranh du kịch cả ở mặt trận chính
diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường, cách đánh địch sáng
tạp, linh hoạt trong điều kiện so sánh lực lượng không cân sức, hạn chế tối đa sở trường
tác chiến và công nghệ, phương tiện chiến tranh tiên tiến, hiện đại của địch; xây dựng và
hình thành chiến dịch thuật tác chiến linh hoạt, cơ động và nghệ thuật quân sự độc đáo
“đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng” , thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết
định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích một các thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu
cầu cảu nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân một cách đúng đắn, thích hợp với điều hiện của Việt Nam và
đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích, làm chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh
lOMoARcPSD| 46351761
giặc. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng nhất là về chính trị,
trở thành công cụ sắc bén, tin cậy làm mũi nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa
cho toàn dân đánh giặc. Đảng và quân đội đã thành công trong xây dựng hình ảnh tốt đẹp
mang danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ”; xây dựng lực lượng Công an nhân dân, mang bản chất
giai cấp và tính nhân dân sâu sắc - công an là “Bạn dân” theo tư tưởng thân dân của Hồ
Chí Minh.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt
trận.
Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng các
hành động thực tế, bằng sự nêu gương mẫu mực, vai trò tiên phong của các tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộm đảng viên của Đảng trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả
căn cứ địa - hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục, động viên mọi tầng lớp nahan dân tham gia tích cực công cuộc kháng chiến, đề
ra và thực hiện các chủ trương chính sách nhằm động viên cao nhất, nhiều nhất sức dân,
mọi nguồn lực trong dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân, củng cố vững
chắc long tin của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Cần chú ý khắc phục một số khuynh hướng tư tưởng giáo điều, chủ quan, duy ý chí
trong chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng và một số tổ chức đảng. Trong
đó, đáng chú ý là: tư tưởng chủ quan, nóng vội, coi thường sức mạnh của địch; tập
trung cao độ vào nhiệm vụ quân sự, nhưng chưa chú ý đúng mức đến nhiệm vụ
xây dựng, kiến quốc, giải quyết hài hòa, thỏa đáng mối quan hệ giữa huy động sức
dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân trong kháng chiến; học hỏi, tiếp thu, vận
dụng kinh nghiệm của nước ngoài có biểu hiện giáo điều, dập khuôn, không tính
đầy đủ đến hoàn cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể, đặc điểm của Việt Nam và từng địa
phương, vùng miền, dân tộc, tôn giáo; trong công tác chỉnh đảng, chỉnh quân mắc
vào chủ nghĩa thành phần trong công tác cán bộ, gây thiệt hại cho đội ngũ cán bộ,
giảm long tin nhân dân.
| 1/3

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46351761 Slide
• Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sang tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc
kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
• Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ
bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
• Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng
chiến phù hợp với đặc thì của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
• Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích một các thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu cảu
nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
• Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Phần thuyết trình:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam là cuộc chiến đấu
quyết liệt, vô cùng anh dung, không ngơi nghỉ trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận, trên phạm
vi cả nước. Sự hi sinh của Đảng, của quân đội và nhân dân ta là vô bờ bến. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh giải phóng dân tộc của Đảng và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sang tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của
cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu.
Ngay từ sau khi giành được chính quyền, nhận thức đúng sự biến đổi của tình hình thế
giới và trong nước, Đảng đã sớm hoạch định đúng đường lối cơ bản là “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”
, kiên định quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, kiên trì bảo vệ sự
thống nhất, toàn vẹn của Tổ quốc, tuyệt đối không lúc nào nao núng, run sợ trước sức
mạnh và mọi sự uy hiếp của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Khi phải cùng lúc đương đầu với
nhiều kẻ thù nguy hiểm, Đảng và Hồ Chí Minh bình tĩnh, sáng suốt nhận định, đánh giá
đúng tình hình, chỉ rõ đối tượng, đối tác và đề ra chủ trương, sách lược, biện pháp giải
quyết đúng đắn. Vận dụng sáng tạo sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hang ngũ kẻ thù,
thực hiện hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc với từng kẻ thù, để phân hóa và từng bước loại bỏ chúng.
Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng
tạo của nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, xây dựng, củng cố
và bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được; phát động cuộc chiến tranh nhân dân lOMoAR cPSD| 46351761
toàn dân, toàn diện kiên định thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời
kỳ kháng chiến; kết hợp sức mạnh đoàn kết và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam với
việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát huy sự ủng hộ, giúp
đỡ của bạn bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực nhằm thúc đẩy xây
dựng, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân, đồng thời đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến mau thắng lợi. Kết hợp nhuần
nhuyễn cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân là chỗ dựa với xây dựng, phát triển nền tảng, cơ sở hạ tầng chính trị - xã
hội vững chắc để phát huy hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và tổ chức Đảng và Chính phủ đối
với cuộc kháng chiến trên thực tế. Kháng chiến, kiến quốc, chống đế quốc, chống phong
kiến, xây dựng hậu phương – căn cứ địa vững chắc luôn là những nhiệm vụ cơ bản, cùng
đồng hành trong mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến và là nội dung chủ yếu, xuyên suốt
trong đường lối và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của Đảng Lao động Việt Nam.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
kháng chiến phù hợp với đặc thì của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc
kháng chiến và so sánh lực lượng ta – địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính qui với chiến tranh du kịch cả ở mặt trận chính
diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường, cách đánh địch sáng
tạp, linh hoạt trong điều kiện so sánh lực lượng không cân sức, hạn chế tối đa sở trường
tác chiến và công nghệ, phương tiện chiến tranh tiên tiến, hiện đại của địch; xây dựng và
hình thành chiến dịch thuật tác chiến linh hoạt, cơ động và nghệ thuật quân sự độc đáo
“đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng” , thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích một các thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu
cầu cảu nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến.
Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân một cách đúng đắn, thích hợp với điều hiện của Việt Nam và
đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích, làm chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh lOMoAR cPSD| 46351761
giặc. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng nhất là về chính trị,
trở thành công cụ sắc bén, tin cậy làm mũi nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa
cho toàn dân đánh giặc. Đảng và quân đội đã thành công trong xây dựng hình ảnh tốt đẹp
mang danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”; xây dựng lực lượng Công an nhân dân, mang bản chất
giai cấp và tính nhân dân sâu sắc - công an là “Bạn dân” theo tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.
Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng các
hành động thực tế, bằng sự nêu gương mẫu mực, vai trò tiên phong của các tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộm đảng viên của Đảng trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả
căn cứ địa - hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục, động viên mọi tầng lớp nahan dân tham gia tích cực công cuộc kháng chiến, đề
ra và thực hiện các chủ trương chính sách nhằm động viên cao nhất, nhiều nhất sức dân,
mọi nguồn lực trong dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân, củng cố vững
chắc long tin của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Cần chú ý khắc phục một số khuynh hướng tư tưởng giáo điều, chủ quan, duy ý chí
trong chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng và một số tổ chức đảng. Trong
đó, đáng chú ý là: tư tưởng chủ quan, nóng vội, coi thường sức mạnh của địch; tập
trung cao độ vào nhiệm vụ quân sự, nhưng chưa chú ý đúng mức đến nhiệm vụ
xây dựng, kiến quốc, giải quyết hài hòa, thỏa đáng mối quan hệ giữa huy động sức
dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân trong kháng chiến; học hỏi, tiếp thu, vận
dụng kinh nghiệm của nước ngoài có biểu hiện giáo điều, dập khuôn, không tính
đầy đủ đến hoàn cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể, đặc điểm của Việt Nam và từng địa
phương, vùng miền, dân tộc, tôn giáo; trong công tác chỉnh đảng, chỉnh quân mắc
vào chủ nghĩa thành phần trong công tác cán bộ, gây thiệt hại cho đội ngũ cán bộ, giảm long tin nhân dân.