Lý thuyết pháp luật về quản lý hành chính nhà nước | Đại học Nội Vụ Hà Nội
I. QUẢN LÝ TÀI SẢN NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN1.Khái niệmQuản lí nhà nước về hải quan trong tiếng Anh là State administration ofcustoms.Quản lí nhà nước về hải quan (State administration of customs) là sự quản línhà nước đối với tổ chức, hoạt động của cơ quan hải quan và các hoạt động xuất khẩu,nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của các tổ chức và cá nhân nhằm hướngcác hoạt động đó phát triển theo những mục tiêu định hướng nhất định.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45148588
LÝ THUYẾT PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. QUẢN LÝ TÀI SẢN NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN 1.Khái niệm
Quản lí nhà nước về hải quan trong tiếng Anh là State administration of customs.
Quản lí nhà nước về hải quan (State administration of customs) là sự quản lí nhà
nước đối với tổ chức, hoạt động của cơ quan hải quan và các hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của các tổ chức và cá nhân nhằm hướng các hoạt
động đó phát triển theo những mục tiêu định hướng nhất định.
Quản lí nhà nước về hải quan được thể hiện ở hai phương diện cơ bản
- Quản lí của nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan hải quan
- Quản lí nhà nước đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh,
nhậpcảnh, quá cảnh của các tổ chức và cá nhân
2. Nội dung quản lí nhà nước về hải quan
Nội dung quản lí nhà nước về hải quan bao gồm: -
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển Hảiquan Việt Nam; -
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản qui phạm pháp luật về hải quan; -
Hướng dẫn, thực hiện và tuyên truyền pháp luật về hải quan; -
Qui định về tổ chức và hoạt động của Hải quan; -
Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ công chức hải quan; -
Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phương
pháp quản líhải quan hiện đại; -
Thống kê nhà nước về hải quan; -
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật vềhải quan; -
Hợp tác quốc tế về hải quan.
(Tài liệu tham khảo: Điều 99 Luật Hải quan 2014)
3. Cơ quan quản lí nhà nước về hải quan -
Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về hải quan -
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản
línhà nước về hải quan -
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
tráchnhiệm phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lí nhà nước về hải quan lOMoAR cPSD| 45148588 -
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
cótrách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về hải quan tại địa phương. (Tài liệu tham
khảo: Điều 100 Luật Hải quan 2014)
4. Hình thức quản lí chuyên ngành về hải quan
Hình thức quản lí chuyên ngành về hải quan là các cách thức được các cơ quản lí
chuyên ngành sử dụng để thực hiện quản lí hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể bảo gồm các hình thức sau: -
Ban hành danh mục các hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu, danh
mục hànghóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép) -
Cấp giấy phép: Gồm giấy phép tự động, giấy phép hạn ngạch, giấy phép khảonghiệm -
Qui định hạn ngạch xuất, nhập khẩu -
Và một số qui định khác có liên quan như hàng hóa thuộc diện phải
thực hiệnkiểm dịch động vật, kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn chất lượng và
một số mặt hàng nhập khẩu theo qui định riêng
Ngoài ra, tùy vào tính chất, đặc điểm hàng hóa thuộc phạm vi quản lí của mình, cơ quan
quản lí chuyên ngành còn sử dụng một số hình thức quản lí khác như; -
Công bố điều kiện và hướng dẫn thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu -
Qui định hồ sơ nguồn gốc, phê duyệt nội dung - Đăng kí lưu hành -
Chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu 5. Thực tiễn -
Liên quan đến công tác quản lý nhà nước về hải quan, có thể nói năm 2021 đánh
dấumột giai đoạn hết sức khó khăn trong bối cảnh đại dịch Covid-19 lan nhanh. Tại TP.
Hồ Chí Minh, đợt bùng phát dịch lần thứ 4 với diễn biến nhanh và nguy hiểm đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến kinh tế xã hội toàn địa bàn. -
Trước tình hình đó, Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng
cácchương trình, kế hoạch hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ kép “vừa đảm bảo các
yêu cầu công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 vừa duy trì ổn định công tác quản
lý nhà nước về hải quan, thúc đẩy, tạo thuận lợi thương mại, phát triển kinh tế - xã hội”. -
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, an sinh xã
hội,với tinh thần trách nhiệm cao, Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh đã bố trí cán bộ công
chức thường xuyên túc trực 24/7 tại cơ quan, thực hiện “3 tại chỗ”, sẵn sàng đối mặt với lOMoAR cPSD| 45148588
những rủi ro và nguy hiểm, vừa đảm bảo chống dịch, vừa đảm bảo hoàn thành công việc.
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA 1. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa là một bộ phận trong quản lý nhà nước đối với các
lĩnh vực đời sống, xã hội. Nó là sự định hướng, tạo điều kiện và tổ chức điều hành của
nhà nước để làm cho văn hóa phát triển theo hướng vì sự phát triển bền vững của con
người và xã hội. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của nhà
nước với toàn bộ hoạt động văn hóa của một quốc gia bằng quyền lực nhà nước thông
qua hiến pháp, pháp luật về thể chế chính sách để đảm bảo sự phát triển của văn hóa dân tộc.
Hoạt động văn hóa là một hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu có sự quản lý của nhà nước
2. Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa -
Ở trung ương, cơ quan có chức năng quản lí nhà nước về văn hoá là
Chínhphủ và Bộ văn hoá, thể thao và du lịch. Chính phủ thống nhất và quản lý phát triển
sự nghiệp văn hoá trên phạm vi cả nước, thi hành các biện pháp để bảo tồn, phát triển
nền văn hoá dân tộc Việt Nam, chống việc truyền bá các tư tưởng phản động, đồi truỵ,
bài trừ mê tín, hủ tục. Trong quản lý văn hoá, Chính phủ có 1 số quyền hạn cụ thể như:
Trình dự án luật, pháp lệnh về hoạt động văn hoá, quyết định quy hoạch, kế hoạch phát
triển sự nghiệp văn hoá, quyết định chính sách đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước ngoài,
ban hành quyết định quản lý nhà nước và chế độ chính sách khác về văn hoá. Với cương
vị là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng chính phủ kí các nghị quyết nghị định của
Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị về quản lý văn hoá và hướng dẫn, kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó đối với tất cả các nghành, địa phương và cơ sở, có quyền đình chỉ
việc thi hành hoặc bãi bỏ các quyết định về quản lý văn hoá của Bộ trưởng Bộ văn hoá,
thể thao và du lịch của UBND, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW trái với
hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan cấp trên. -
Bộ văn hoá, thể thao và du lịch là cơ quan của Chính phủ, trực tiếp thực
hiệnchức năng quản lý nhà nước về văn hoá trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng Bộ
VH,TT và DL trình Chính phủ kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm của
nghành văn hoá, tổ chức chỉ đạo thực hiện các kế hoạch đó, trình dự án luật pháp lệnh
và các văn bản pháp luật khác về văn hoá theo sự phân công của Chính phủ, ban hành lOMoAR cPSD| 45148588
quyết định, chỉ thị, thông tư về các hoạt động văn hoá, chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu lí luận, tổ chức sưu tầm, khai thác, giữ gìn và phổ biến những giá trị
văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế
hoạch hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hoá theo quy định của Chính phủ, thanh tra, việc
thực hiện pháp luật, các chế độ, chính sách, quy chế về văn hoá, quản lí các đơn vị sự
nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh trực thuộc Bộ văn hoá, thể thao và du lịch theo
quy định của Chính phủ. -
UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng
củaquản lí nhà nước về văn hoá trong địa phương mình theo quy định của pháp luật.
Thiết chế trực tiếp thực hiện các hoạt động văn hoá gồm rất nhiều cơ quan, tổ chức như
các cơ quan nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh, nhà hát, nhà văn hoá, triển lãm...
3. Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý văn hóa là quản lý toàn bộ nền văn hóa từ vĩ mô tới vi mô và được thực
hiện theo quy trình từ Trung ương đến cơ sở. Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa: lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn
hóa trong từng giai đoạn để thực hiện đường lối và định hướng phát triển của Đảng với
văn hóa. Thể chế văn hóa gồm 2 hệ thống là chuẩn mực luật pháp và chuẩn mực phong tục tập quán.
Nhà nước và xã hội chăm lo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại: Trong đó, nhà nước và xã hội phát
triển văn học, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, phát triển các phương
tiện thông tin đại chúng và tạo môi trường xây dựng gia đình Việt no ấm, tiến bộ, hạnh
phục, con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước,… Nhà nước ban
hành các đạo luật riêng với các hoạt động văn hóa và có 12 lĩnh vực hoạt động văn hóa
cần được quản lý. Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các hoạt động
văn hóa, nhất là khi nước ta đang tiến hành chủ trương xã hội hóa các hoạt động động
văn hóa trong nền kinh tế thị trường.
Hướng dẫn việc triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hóa, tổ chức kiểm tra,
giám sát: cùng với việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước là những nhiệm vụ quản trọng
của quản lý nhà nước với văn hóa. Đổi mới cơ chế kiểm tra và giám sát theo 3 hướng lOMoAR cPSD| 45148588
như sau: hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp quy, kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh
tra giám sát và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quản quản lý nhà nước,…
Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phí cho các hoạt động văn hóa: Đây là
nhiệm vụ cụ thể nhưng có vị trí vô cùng quan trọng. Tăng cường ngân sách cho phát
triển văn hóa là khuynh hướng chung của các nước trên toàn thế giới.
Kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về văn hóa: Trên thế giới có nhiều các cấu tạo
bộ máy quản lý nhà nước khác nhau và phân cấp quản lý khác nhau, có nhiều mô hình
về bộ máy quản lý văn hóa không giống nhau.
Đối với ngành văn hóa thông tin ở nước ta, hoạt động quản lý được tiến hành
căn cứ theo các mảng sau: lĩnh vực thuộc tổ chức bộ máy quản lý văn hóa, quản lý nhà
nước về văn hóa nghệ thuật, văn hóa thông tin, văn hóa xã hội, xuất nhập khẩu văn hóa,
công tác thanh tra, kiểm tra,…
4. Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa bao gồm các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ: Tức là, các
hoạt động nhà nước trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước quản lý và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng nhất, nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện quyền dân chủ. Nhà nước
nắm quyền thống nhất quản lý, giao quyền và trách nhiệm cho địa phương. Tập trung và
dân chủ là một thể thống nhất không đối lập hay hạn chế lẫn nhau.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ: tức là
nhà nước là một thể thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động theo các cấp hành chính
nhà nước và thực hiện theo quy định cấp dưới phục tùng cấp trên. Hệ thống hành chính
được chia làm 4 cấp gồm: Trung ương, tỉnh, thành phố, cấp huyện và cấp xã.
Nguyên tắc phân biệt rõ chức năng QLNN về văn hóa và chức năng quản lý kinh
doanh của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực văn hóa: Các doanh nghiệp hoạt
động văn hóa theo cơ chế thị trường và theo nguyên tắc quản lý kinh tế nhưng phải chú
ý tới đặc thù kinh tế và các lĩnh vực văn hóa để điều tiết, tránh đồng nhất quản lý kinh
tế với quản lý văn hóa. lOMoAR cPSD| 45148588
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức, cơ
quan quản lý và mọi cá nhân hoạt động về lĩnh vực văn hóa phải dựa trên cơ sở pháp
luật của nhà nước để thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của mình.
Nguyên tắc công khai: Nguyên tắc công khai đòi hỏi các tổ chức hoạt động quản
lý nhà nước phải công khai cho dân biết trên các phương tiện thông tin đại chúng, các
cơ quan giám sát phải chú ý đến dư luận xã hội để kịp thời điểm chỉnh các quyết định quản lý cho phù hợp.
5. Phương thức quản lý nhà nước về văn hóa
Phương thức quản lý văn hóa là các cách thức, phương pháp tác động có chủ đích
nhằm điều hành các hoạt động văn hóa hướng tới thực hiện những mục tiêu nhất định.
Quản lý văn hóa gồm 3 phương pháp sau:
Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là tác động trực tiếp bằng các quy định dứt khoát mang
tính quyền lực bắt buộc của nhà nước lên khách thể. Đặc điểm của phương pháp này là
tính nguyên tắc và nguyên tắc. Nó đòi hỏi đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm các
quy định hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ
quan quản lý sử dụng đúng và đầy đủ quyền lực của mình trong các tác động hành chính
gắn với thẩm quyền của mình. Phương pháp kinh tế
Phương pháp này tác động vào đối tượng quản lý để đối tượng quản lý lựa chọn phương
pháp hiệu quả nhất trong phạm vi của họ. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh
vực văn hóa đều phải tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,…
Để thực hiện mở rộng, áp dụng các phương pháp kinh tế vào quản lý văn hóa,nhà
nước phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế nâng cao năng lực vận dụng các quan
hệ thị trường, thực hiện phân cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho cấp dưới.
Sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải có năng lực trình độ nhiều
mặt, kiến thực văn hóa, kinh tế, pháp luật,…và đạo đức nghề nghiệp.
Phương pháp giáo dục
Đây là cách thức tác động tình cảm, nhận thức của con người để năng cao năng
lực tự giác và tính tích cực công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chung. Phương pháp
giáo dục cần dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc trưng của phương pháp
này là tính thuyết phục, làm cho con người phân biệt được phải, trái, đúng sai,… từ đó lOMoAR cPSD| 45148588
nâng cao tính tích cực của công dân. Để thực hiện chức năng này, các chủ thể quản lý
phải vận dụng tổng hợp các phương pháp và căn cứ vào điều kiện cụ thể để sử dụng phương pháp phù hợp.
6. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
văn hóa. Thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về văn hóa đã đạt được nhiều kết quả.
Trước hết, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, như Luật
Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện...; kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung một
số văn bản luật đã ban hành để phù hợp với tình hình mới, như Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Điện ảnh, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa... Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản dưới luật đã được xây dựng, ban hành.
Chính phủ ban hành nhiều chế độ, chính sách đặc thù, như chính sách về hoạt
động và hưởng thụ văn hóa, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa; chính sách về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; những chính sách khuyến
khích và tôn vinh hoạt động sáng tạo (Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước,
danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú); chế
độ ưu đãi đặc thù đối với nghệ sĩ, học sinh các trường văn hóa - nghệ thuật...; các quy
định về thành lập bảo tàng, xây dựng tượng đài...; xây dựng và hoàn thiện các quy định,
hướng dẫn tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội; việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt
vàng mã, việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng...; khuyến khích nhân dân các xã,
phường, thôn ấp, cụm dân cư, khu tập thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các quy ước về
nếp sống vǎn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, cảnh quan sạch đẹp.
Các chiến lược, quy hoạch phát triển các lĩnh vực cũng được xây dựng và trình
Thủ tướng Chính phủ ban hành, gồm Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm
2020; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm
2030; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030,..
Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành văn hóa ngày càng được kiện
toàn và củng cố, từng bước nâng cao năng lực quản lý, đổi mới phương thức quản lý, lOMoAR cPSD| 45148588
thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, văn nghệ. Các
hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình gắn với chủ đề “Xây
dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình” được đẩy
mạnh, đặc biệt là vào các dịp Ngày Gia đình Việt Nam, Ngày Quốc tế hạnh phúc, Ngày
Thế giới phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, Tháng Hành động quốc gia
về phòng, chống bạo lực gia đình.
Thứ ba, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan
và các địa phương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiểm kê, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng,
ghi danh di sản văn hóa ở trong nước và quốc tế.
Thứ tư, Nhiều bảo tàng trên cả nước bước đầu được đổi mới trưng bày theo định
hướng tăng cường các hiện vật gốc, áp dụng các phương tiện khoa học - kỹ thuật để làm
phong phú và hấp dẫn nội dung trưng sinh đến tham quan học tập, tổ chức các hoạt động
văn hóa, thể thao cho các đối tượng học sinh trong dịp kỷ niệm hằng năm, như Ngày
Quốc tế bảo tàng (18-5), Ngày Quốc tế thiếu nhi (1-6), Ngày Hội khai trường (5-9),
Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23-11) nhằm tạo cho thế hệ trẻ niềm tự hào, lòng say
mê tìm hiểu văn hóa, lịch sử dân tộc để nâng cao tri thức.
Thứ năm, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn cả nước đã có sự chuyển
biến tích cực, dần đi vào nền nếp. Các hoạt động lễ hội diễn ra trang trọng, an toàn, tiết
kiệm, cùng nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và các trò chơi dân gian sôi nổi thu hút
đông đảo nhân dân và du khách tham gia. Các lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực,
không phù hợp với xu thế thời đại đã chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ.
Thứ sáu, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, vượt bậc so với những giai đoạn trước.
Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo - một kết quả quan trọng, nỗ lực nhằm
mục đích thể chế hóa một cách đầy đủ nhất quan điểm, chính sách của Đảng về tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
SThứ bảy, hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng
cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, hoạt động giao
lưu các đoàn biểu diễn nghệ thuật và trao đổi sách, báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu,
đào tạo... giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy
mạnh. Nhiều hiệp định văn hóa với các nước và nhiều tổ chức quốc tế, các điều ước
quốc tế song phương và đa phương về di sản văn hóa, về quyền tác giả và quyền liên
quan đã được ký kết; nhiều dự án về hợp tác văn hóa được thực hiện có hiệu quả. Nhiều lOMoAR cPSD| 45148588
hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế trên quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt
Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo được ấn tượng tốt đẹp trong lòng bè bạn
về truyền thống văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Sự hiện diện, tham gia và ảnh hưởng
của Việt Nam được tăng cường tại các sự kiện có quy mô, chất lượng, uy tín nhất trên
thế giới về văn hóa, như Triển lãm EXPO (EXPO Thượng Hải 2010, EXPO Hàn Quốc
2012, EXPO Milan 2015, EXPO Astana 2017).
III. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỐI NGOẠI 1. Khái niệm hoạt động đối ngoại
Nói ngắn gọn thì hoạt động đối ngoại là tổng thể các hoạt động và quan hệ của
một nước vối bên ngoài.
Công tác đối ngoại là lĩnh vực hoạt động phong phú và phức tạp. Các hoạt động
đối ngoại có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, có thể xảy ra trên lãnh thổ của một quốc
gia khác, cũng có thể đồng thời diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Các hoạt động đó được
tiến hành nhằm đạt những mục đích chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh…
hoặc kết hợp các mục đích khác nhau.
Các hoạt động đối ngoại có thể do cơ quan Đảng, Nhà nước, có thể do tổ chức xã
hội tiến hành hoặc cơ quan nhà nước và tổ chức xã hôi phối hợp cùng thực hiện.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về đối ngoại
Chính phủ thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP quản lý và trực tiếp tiến hành các
hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
3. Nội dung quản lý nhà nước về đối ngoại
Nội dung Quản lý nhà nước về đối ngoại rất đa dạng, phụ thuộc vào chức năng,
nhiệm vụ của mỗi bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Trong lĩnh vực đối
ngoại, Bộ ngoại giao là cơ quan thực hiện Quản lý nhà nước một cách toàn diện mà hoạt
động chính trị đối ngoại là nội dung quan trọng nhất; hoạt động Quản lý nhà nước về
đối ngoại do Bộ ngoại giao thực hiện là mảng quan trọng nhất trong Quản lý các hoạt
động đối ngoại bởi hoạt đông này giữ vai trò quyết định trong việc tạo môi trường quốc
tế thuận lợi và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mở thêm các cánh cửa cho nước ta
hội nhập với thế giới.
Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong quá trình
hội nhập kinh tế vói khu vực và thế giới nhằm tranh thủ những điều kiện thuận lợi và
nguồn lực về vốn, viện trợ phát triển, công nghê và kinh nghiệm Quản lý phục vụ công lOMoAR cPSD| 45148588
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại chù yếu do
Bộ công thương và Bộ kế hoạch và đầu tư tiến hành. Vì vậy, nội dung Quản lý nhà nước
về đối ngoại được thể hiện tập trung nhất thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ ngoại
giao, Bộ công thương, Bộ kế hoạch và đầu tư.
4. Thực tiễn
Tối ngày 14/4/2022, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã điện đàm với
Bộ trưởng Ngoại giao Belarus Vladimir Makei để trao đổi về tình hình quan hệ song
phương trong bối cảnh năm nay Việt Nam và Belarus kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1992-2022).
Ngày 26/4/2022, tại Thủ đô Wellington, New Zealand, Đại sứ Việt Nam tại New
Zealand Nguyễn Văn Trung, thay mặt Chính phủ Việt Nam, và Cao ủy Quần đảo Cook
tại New Zealand Elizabeth Wright-Koteka, thay mặt Chính phủ Quần đảo Cook, đã ký
Thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Quần đảo Cook.
Với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Quần đảo Cook, Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao với 190 quốc gia trên thế giới. Việt Nam là quốc gia thứ 57 trên thế giới và là quốc
gia thứ 6 trong ASEAN mà Quần đảo này có quan hệ ngoại giao chính thức.
IV. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO 1. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo
Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp, Hành pháp,
Tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động, điều chỉnh,
hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo
diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước, chức năng
nhiệm vụ của nhà nước, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi
hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo qui định của pháp luật.
2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo
2.1. Mục tiêu quản lý *
Mục tiêu tổng quát:
Nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng có đạo, đồng thời
chống lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, làm cho lOMoAR cPSD| 45148588
những hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, việc thực hiện đúng chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.
* Mục tiêu cụ thể:
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, cần hướng tới và đạt được những mục tiêu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về tôn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra
bình thường theo đúng qui định của pháp luật Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người
đã được Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp quốc nghi
nhận. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước,
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi
đó là một trong những quyền cơ bản của công dân. Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc
“Tuyên ngôn độc lập” ở Quảng trường Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ lâm thời, Hồ Chủ Tịch đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín
ngưỡng tự do Lương Giáo đoàn kết” [37, tr 53]. Ngày nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật…” [30, tr 128].
Cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải bảo đảm
cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động tôn giáo và hành đạo
một cách thuận lợi, nhằm đảm bảo quyền này, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã qui
định: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức
thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn
giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [60, tr.3].
Đồng thời trong quản lý nhà nước về tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động
tôn giáo thuần túy với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để đề ra những biện pháp
quản lý phù hợp, tránh những hành động can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo mà
vẫn quản lý được các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường trong khuôn khổ pháp luật.
Bên cạnh đó, trong hoạt động tôn giáo, cần yêu cầu các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức
sắc, nhà tu hành chấp hành tốt các qui định của pháp luật.
Thứ hai, quản lý nhà nước về tôn giáo phải phát huy được những mặt tích cực,
khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội.
Tính hai mặt của tôn giáo ở nước ta hiện nay là rất rõ, do đó quản lý nhà nước đối với
với hoạt động tôn giáo, phải phát huy và khơi dậy được những yếu tố tích cực của tôn
giáo, như tính hướng thiện, từ bi, bác ái “thương người như thể thương thân” của tôn
giáo trong các mối quan hệ của xã hội. Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham
gia cùng nhà nước giải quyết những vấn đề của xã hội như: Hoạt động từ thiện, cứu trợ
nhân đạo, xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế… Thông qua quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo phải giúp cho quần chúng tăng cường tri thức khoa học và
xã hội để từng bước xóa bỏ những nhận thức lệch lạc về thế giới quan và nhân sinh quan,
những điều khắt khe, phi khoa học trong tôn giáo. Bên cạnh đó, chúng ta phải tăng cường
cảnh giác đề phòng những âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống lại chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. lOMoAR cPSD| 45148588
Thứ ba, quản lý nhà nước về tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu đoàn kết đồng
bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo, tạo ra sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo luôn là truyền thống quí
báu và bài học quan trọng, là tiền đề của mọi thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc trước kia và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đúng như lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết - thành công, thành công đại thành công”.
Trong công tác tôn giáo, mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa những người
có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không có tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề quan
trọng khi tôn giáo luôn là công cụ, phương tiện để các thế lực phản động trong và ngoài
nước lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu thâm độc chia rẽ dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng với Nhà nước.
Thứ tư, quản lý nhà nước về tôn giáo phải đảm bảo sự tăng cường vai trò của nhà
nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo.
Trong thực tế, tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà
nước thừa nhận, do vậy phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải
tuân thủ những qui định của nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến các tổ chức tôn giáo
thành lực lượng đối trọng với nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước đều là
bất hợp pháp. Hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của nhà nước đều phải
bị xử lý theo qui định của pháp luật. Thực hiện tốt được những điều trên, một mặt vai
trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được tăng cường, mặt khác đưa các
hoạt động tôn giáo theo đúng qui định của pháp luật, định hướng cho tín đồ, chức sắc
tôn giáo đồng hành cùng nhân dân cả nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích bảo đảm cho
hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật vì lợi ích chung,
trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội.
Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau:
Một là, nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật
Đây là nguyên tắc của thể chế dân chủ, có tính phổ quát ở nhiều quốc gia. Nhà
nước ta là nhà nước dân chủ, đến nay Hiến pháp Việt Nam đã được bổ sung nhiều lần
với những qui định rõ ràng về các quyền con người được Hiến pháp bảo vệ trên tất cả
các mặt dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; các quyền riêng trong xã hội, đặc biệt
là quyền trẻ em, phụ nữ, các dân tộc thiểu số, quyền bình đẳng trước pháp luật của các tôn giáo.
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước [60, tr.70].
Chỉ thị 37- CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ chính trị ngày
02/7/1998 cũng đã khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và người không theo
đạo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau” [9, tr.118]. lOMoAR cPSD| 45148588
Vì vậy, không phân biệt nghĩa vụ và quyền lợi của công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo, công dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
được hưởng mọi quyền lợi công dân, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công
dân. Đây là nguyên tắc đồng thời cũng là nội dung quan trọng của quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, nguyên tắc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong
lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Tín ngưỡng là hoạt động thể hiện
sự tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng,
thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân
gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Tuy
nhiên mức độ của niềm tin, sự tôn thờ ấy ở mỗi con người, mỗi cộng đồng người, mỗi
giai đoạn lịch sử là khác nhau. Niềm tin tôn giáo khó áp đặt cũng không dễ tước đoạt,
nó tồn tại như nhu cầu khách quan của đời sống hiện thực. Vì vậy tự do tín ngưỡng cũng
có nghĩa là con người được tự nguyện hướng tới một lực lượng siêu nhiên, đồng thời
cũng có quyền khước từ hoặc loại bỏ niềm tin đã có. Tự do tín ngưỡng cũng có nghĩa là
không chấp nhận sự độc tôn hoặc tham vọng thôn tính của tôn giáo này đối với tôn giáo
khác, càng không thể áp đặt hoặc gạt bỏ thông qua quyền lực chính trị.
Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là vô giới hạn, vì quyền
của người này, cộng đồng này khi vượt qua giới hạn nào đó có thể vi phạm vào quyền
chính đáng của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính của nó là tự do của
người này, cộng đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng khác.
Điều 8 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định:
Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc
lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền
trái pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ
tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động
mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác [60, tr.3].
Chính vì những lý do trên nhà nước có trách nhiệm quản lý và điều chỉnh các
hoạt động của cá nhân và tổ chức tôn giáo sao cho những hoạt động ấy diễn ra trong
khuôn khổ của pháp luật, không ảnh hưởng đến xã hội.
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hóa
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bao giờ cũng thể hiện qua sinh hoạt vật chất của
con người. Tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo được vật chất hóa trong đời sống xã hội thể
hiện qua kinh sách, luật lệ, lễ nghi… Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi thờ
phụng của tín đồ các tôn giáo, đồng thời cũng là nơi giữ gìn văn hóa vật thể và phi vật
thể. Những công trình kiến trúc, những tác phẩm hội họa, điêu khắc, những bản nhạc,
bài ca, y phục đến trang trí, bày biện… thực hiện các nghi thức tôn giáo đều thể hiện nét
văn hóa đặc trưng của từng tôn giáo cụ thể. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo cũng có nghĩa
là sự bảo lưu văn hóa. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể không
quan tâm đến sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống mà nhân dân ta
lưu giữ qua nhiều đời nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa đích thực không thiếu những hiện
tượng phản văn hóa có trong tôn giáo, những hủ tục cũ trỗi dậy, mê tín dị đoan gia tăng, lOMoAR cPSD| 45148588
thương mại hóa trong tôn giáo phát triển… những hiện tượng ấy trà trộn, thẩm thấu vào
sinh hoạt tôn giáo làm vẩn đục bầu không khí sinh hoạt tôn giáo lành mạnh. Nhà nước
quản lý hoạt động tôn giáo làm sao vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời
loại bỏ dần những hiện tượng phản văn hóa trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và
lợi ích quốc gia, xã hội
Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo thường có
nhiều nhu cầu xuất hiện trong đời sống xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tâm
linh của họ được nhà nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ đáp ứng nhu cầu ấy.
Nhưng ở vào một thời điểm nào đó đứng trước nhiều nhu cầu thì ở đây đòi hỏi tín đồ
phải giải quyết hài hòa, thỏa đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung
của xã hội. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt các xung đột, mâu thuẫn
xuất hiện giữa các chủ thể nói trên.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ
phải được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân dân
được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản
tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm phương hại
đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử
lý vi phạm theo luật định.
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo
* Đặc điểm đối tượng quản lý:
Đối tượng quản lý về hoạt động tôn giáo gồm tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các
tổ chức tôn giáo. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang
những đặc điểm chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc
trưng riêng của người có đạo.
- Đặc điểm của tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành:
+ Đặc điểm của tín đồ:
Tín đồ là những người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Việt
Nam là quốc gia đa tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo, chiếm khoảng 20% dân số cả
nước, từ đặc điểm này cho thấy tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Quản lý nhà nước phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực hiện nhu cầu đó.
Trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt công
dân và mặt tín đồ. Là công dân, tín đồ có mọi quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác.
Là người có tín ngưỡng tôn giáo họ có niềm tin ở Chúa, tình cảm đời sống tâm linh ở
nhiều mức độ khác nhau và họ có quyền lợi do giáo hội qui định, họ phải hành đạo theo
giáo luật. Đây chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần nắm vững.
Ở nước ta đại đa số tín đồ các tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Dù là
tín đồ của tôn giáo nào, bản chất của người nông dân vốn là những con người cần cù lao
động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc ngoại xâm và bọn bóc lột. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tín đồ các tôn giáo đã đóng góp
đáng kể cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng bào có đạo luôn gắn bó với
cách mạng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, họ có nguyện vọng tha thiết là sống “tốt lOMoAR cPSD| 45148588
đời, đẹp đạo”, cùng toàn dân đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Đây là đặc điểm rất tích cực trong đồng bào tín đồ. Trong lĩnh vực quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo, phải phát huy được những điểm tích cực, khơi dậy
những truyền thống quí báu trong đồng bào, phải coi đây là một yếu tố quan trọng góp
phần phát huy nội lực để xây dựng đất nước.
Bên cạnh đại đa số đồng bào có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc, một
số tín đồ do nhiều nguyên nhân khác nhau trong hoạt động tôn giáo còn chưa tuân thủ
pháp luật, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ gây rối trật tự công cộng.
Từ đặc điểm này, trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cần quan tâm những vấn đề sau:
Một là, ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta thì các tín đồ tôn giáo phải luôn
đặt lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước không phân biệt, đối xử về nghĩa
vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, giải quyết hài hòa giữa mặt công dân và mặt tín đồ.
Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các
tôn giáo để đảm bảo ổn định chính trị-xã hội. Đồng thời chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào có đạo, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào tín đồ tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác
chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
+ Đặc điểm của nhà tu hành, chức sắc:
Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo
lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Nhà tu hành, chức sắc trước hết là tín đồ thuộc một tổ chức tôn giáo nhất định
bởi vậy họ cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ. Song khác với tín đồ, đội ngũ
chức sắc là những người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, do đó năng
lực, trình độ của họ khá cao và được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm, bầu cử
và suy cử. Họ đại diện ở những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo, họ vừa chăn
dắt tín đồ vừa quản lý hành chính đạo theo thẩm quyền.
Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi với tín đồ, nắm bắt kịp thời tâm
tư, nguyện vọng của tín đồ, do đó họ có vị trí, vai trò ảnh hưởng rất sâu sắc trong tín đồ.
+ Đặc điểm của tổ chức tôn giáo:
Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công nhận.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Có tôn giáo được tổ
chức thành một hệ thống từ Trung ương xuống đến cơ sở như Giáo hội Công giáo Việt
Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam… nhưng có những tôn giáo trong quá trình phát triển
do nhiều nguyên nhân bị tách ra thành nhiều hệ phái khác nhau, mỗi hệ phái tạo thành
một tổ chức hoạt động độc lập như đạo Tin lành, đạo Cao đài.
Tổ chức tôn giáo có chức năng điều hành hoạt động của tôn giáo. Trong mỗi tôn
giáo, tổ chức bộ máy được sắp xếp khác nhau, hệ thống tổ chức của tôn giáo được qui lOMoAR cPSD| 45148588
định theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và được Nhà nước công nhận. Trong
mối quan hệ nội bộ của tổ chức tôn giáo, có tổ chức có mối quan hệ hành chính đạo rất
chặt chẽ, cấp dưới phục tùng cấp trên. Ngược lại, có tổ chức mối quan hệ hành chính
đạo lại rất lỏng lẻo như trong đạo Phật, mặc dù là một tổ chức Phật giáo thống nhất
nhưng trong mỗi hệ phái có tính chất độc lập tương đối, ít lệ thuộc vào Trung ương Giáo
hội Phật giáo Việt Nam.
Trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội, giáo hội là tổ chức đại diện cho tôn
giáo để giải quyết các công việc có liên quan đến tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được
nhà nước công nhận đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng với
dân tộc, hoạt động tôn giáo cơ bản tuân thủ các qui định của pháp luật.
* Những nội dung chủ yếu về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo:
- Những nội dung cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo:
Quản lý nhà nước về tôn giáo gồm nhiều công việc như sau:
+ Xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm thuộc lĩnh vực tôn giáo;
+ Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
+ Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo; +
Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
+ Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
+ Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo;
+ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo.
Tất cả những công việc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần chú trọng thực hiện tốt tất cả các công việc này.
- Những nội dung cụ thể của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo:
Nội dung cụ thể về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo gồm nhiều lĩnh vực như sau:
+ Quản lý tổ chức tôn giáo;
+ Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo;
+ Quản lý các chương trình mục vụ thường xuyên, đột xuất của tôn giáo;
+ Quản lý về đại hội, hội nghị và một số việc thuộc hành chính đạo của tổ chức tôn giáo
+ Quản lý việc xây dựng cơ sở vật chất của tôn giáo, kinh doanh, xuất nhập khẩu
kinh sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo;
+ Quản lý các hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo. lOMoAR cPSD| 45148588
V. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC 1.Khái niệm
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng
pháp luật đến các đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và chức năng
đối ngoại của nhà nước.
Quản lý nhà nước về giáo dục hiểu là sự quản lý của các cơ quan quyền lực nhà
nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ thống giáo dục
quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách cho nhân dân.
2. Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục
Căn cứ theo Điều 104 Luật Giáo dục 2019 quy định nội dung quản lý nhà
nước về giáo dục như sau: 1.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sáchphát triển giáo dục.
Chiến lược có thể hiểu là cách thức thực hiện chương trình giáo dục, đề ra mục
tiêu dài hạn và các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Quy hoạch là việc phân bố, sắp
xếp các hoạt động giáo dục trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh, huyện) cho
một mục đích nhất định trong một thời kì trung hạn, dài hạn (có chia các giai đoạn) để
cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh thổ theo thời gian và là cơ sở
để lập các kế hoạch phát triển.
Đây là nội dung quan trọng, trọng điểm trong quá trình quản lý giáo dục của các
cơ quan có thẩm quyền. Nội dung này đảm bảo cụ thể hóa công việc trong công tác quản
lý để hướng tới sự phát triển bền vững của giáo dục. 2.
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục;
banhành điều lệ nhà trường, chuẩn cơ sở giáo dục, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ
sở giáo dục, điều lệ ban đại diện cha mẹ học sinh; quy định hoạt động dạy học và giáo
dục trong nhà trường và ngoài nhà trường; quy định về đánh giá kết quả học tập và rèn
luyện; khen thưởng và kỷ luật đối với người học.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. Quy phạm pháp luật
là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều
lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính
nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định. lOMoAR cPSD| 45148588
Điều lệ là văn bản xác lập điều chỉnh các vấn đề về hoạt động giáo dục như của
nhà trường, ban đại diện cha mẹ học sinh theo một thể thực thống nhất. 3.
Quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ
quảnlý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc
trong các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các
cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan chuyên môn về giáo dục thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; chuẩn nghề
nghiệp nhà giáo; ban hành quy tắc ứng xử của nhà giáo, của cơ sở giáo dục; quy định
về điều kiện, tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giáo viên.
Chức danh là một vị trí của một cá nhân mà được xã hội các tổ chức thừa nhận
như tổ chức nghề nghiệp, tổ chức chính trị, có thể ví dụ như Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến
sĩ, Bác sĩ, cử nhân,.....Tiêu chuẩn chức danh có thể hiểu là những điều kiện cần có để cá
nhân có thể đảm nhận được chức danh đó. 4.
Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; khung trình độ
quốcgia; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn, định mức sử dụng cơ sở vật chất, thư viện và
thiết bị trường học; việc biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, giáo trình; việc thi, kiểm
tra, tuyển sinh, liên kết đào tạo và quản lý văn bằng, chứng chỉ; việc công nhận văn bằng
do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được sử dụng tại Việt Nam. 5.
Quy định về đánh giá chất lượng giáo dục; tổ chức, quản lý việc bảo
đảmchất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục.
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu của cơ sở giáo dục hoặc chương trình
giáo dục, đáp ứng các yêu cầu của Luật giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
Kiểm định chất lượng giáo dục là hoạt động đánh giá, công nhận cơ sở giáo dục hoặc
chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành. 6.
Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục.
Để quản lý nhà nước có hiệu quả, việc thực hiện công tác thống kê, thông tin sẽ
có cái nhìn tổng quát về tổ chức và hoạt động giáo dục. Từ đó, theo dõi quản lý giáo dục
được tốt hơn, đồng thời có thể đưa ra những giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm nâng cao
chất lương giáo dục trong tương lai. lOMoAR cPSD| 45148588 7.
Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục.
Bộ máy quản lý giáo dục hiểu là xây dựng hệ thống cơ quan nhà nước thực hiện
việc quản lý giáo dục. Theo đó, các cơ quan này có trách nhiệm quản lý, thực hiện các
chính sách, kế hoạch về giáo dục theo quy định của pháp luật. Nội dung này nhằm xây
dựng hệ thống quản lý giáo dục được chặt chẽ, thống nhất. 8.
Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lýgiáo dục.
Nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong cơ sở giáo dục, trừ cơ sở giáo
dục là Viện Hàn lâm. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng
dạy từ trình độ cao đẳng trở lên gọi là giảng viên. Nhà giáo có vai trò quyết định trong
việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế quan trọng trong xã hội, được xã hội tôn vinh.
Cán bộ quản lý giáo dục là những người có trách nhiệm thực hiện thành công
các chương trình giáo dục; chịu trách nhiệm trong lập kế hoạch, tổ chức và đưa ra các
chiến lược giáo dục cũng như phát triển nguồn lực của một tổ chức. 9.
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo
dục.Nguồn lực là một yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Nguồn lực
được xây dựng bởi nhiều nguồn khác nhau như ngân sách nhà nước, các nhà đầu tư,
nguồn vốn vay,.....Theo đó, trong quản lý nhà nước về giáo dục, các cơ quan có thẩm
quyền thực hiện việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục. 10.
Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ tronglĩnh vực giáo dục.
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo đó là sự thành công của các công trình
nghiên cứu khoa học, nâng cao tri thức của nhận loại. Để phát triển giáo dục đạt được
những thành tựu cũng như đóng góp vào hiệu quả giáo dục thì nội dung tổ chức, quản
lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục không thể thiếu. 11.
Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế, đầu tư của nước ngoài về giáodục. lOMoAR cPSD| 45148588
Hợp tác quốc tế là hoạt động của các chủ thể có quan hệ quốc tế cùng giúp đỡ
nhau vì một lợi ích chung, không chống phá và chiến tranh với nhau. Hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động liên kết, phối hợp đào tạo, giáo dục giữa nhiều nước
hoặc vùng lãnh thổ trên thế giới để thúc đẩy sự phát triển về chất lượng của giáo dục.
Hợp tác, đầu tư của nước ngoài về giáo dục tại Việt Nam như :Liên kết giáo dục, đào
tạo; thành lập văn phòng đại diện; thành lập cơ sở giáo dục;...... 12.
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết
khiếunại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật trong giáo dục.
Nội dung quản lý cuối cùng là việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật
giáo dục nhằm đưa pháp luật giáo dục thực thi trên thực tế. Đồng thời xử lý, giải quyết
những khiếu nại, tố cáo, vi phạm pháp luật trong giáo dục và có những chính sách khen
thưởng đối với những hoạt động giáo dục đạt thành tích tốt.
3. Thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục
Thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục đã đạt được những thành tựu và bên cạnh
đó cũng tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể như sau:
– Về những kết quả đạt được:
Sự ra đời của Luật Giáo dục 2019 đã làm căn cứ pháp lý để các cấp, các ngành
lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và thống nhất trong hoạt động giáo dục, là công cụ quan
trọng giúp Nhà nước quản lý hệ thống giáo dục quốc dân; CSGD, nhà giáo, người học;
QLNN về giáo dục; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến
hoạt động giáo dục; quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức, hoạt động của
CSGD nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo
dục nghề nghiệp nói riêng.
Cơ sở vật chất, thiết bị GDĐT được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số
lượng học sinh, sinh viên (HSSV) tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục
nghề nghiệp. Chất lượng GDĐT được nâng cao. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý.
Giáo dục đại học đã tập trung nâng dần các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo:
kịp thời điều chỉnh phương án tuyển sinh bảo đảm chất lượng, hiệu quả; phát triển đa
dạng các hình thức đào tạo chất lượng cao; ổn định quy mô, phát triển đội ngũ giảng
viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; triển khai khảo sát việc làm của sinh viên tốt
nghiệp; xây dựng, trình ban hành cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ