



Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622079 Câu 1
Lý thuyết về quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện là một phần quan trọng trong phương pháp luận triết học, đặc biệt là trong các
trường phái triết học duy vật biện chứng và duy tâm biện chứng.
Trong triết học, quan điểm toàn diện được hiểu như một cách nhìn nhận sự vật, hiện tượng không tách
rời khỏi các mối quan hệ và sự tác động qua lại của chúng với những yếu tố khác. Nó phản ánh tư tưởng
rằng mỗi sự vật, hiện tượng không tồn tại độc lập mà luôn bị chi phối bởi các yếu tố xung quanh và có sự
phát triển, biến đổi liên tục.
Trong triết học Mác-Lênin (duy vật biện chứng):
Quan điểm toàn diện được sử dụng như một nguyên tắc cốt lõi trong phương pháp biện chứng. Các nhà
triết học Mác-Lênin cho rằng để hiểu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét nó trong tổng
thể các mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác, cũng như xem xét trong sự vận động, phát triển không ngừng của chúng.
Mác-Lênin phản đối cách nhìn phiến diện, tách rời sự vật khỏi bối cảnh của nó, cho rằng điều này sẽ dẫn
đến những sai lầm trong nhận thức và hành động.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện bắt nguồn từ một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bao gồm:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế
giới đều có mối liên hệ với nhau, không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào là cô lập. Những mối liên hệ
này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, qua lại hoặc một chiều, và sự biến đổi của một sự vật có thể ảnh
hưởng đến những sự vật khác. Do đó, để hiểu đúng bản chất của sự vật, cần xem xét nó trong sự liên hệ
với các sự vật, hiện tượng khác và không nên tách rời khỏi bối cảnh của nó.
Nguyên lý về sự phát triển: Sự vật và hiện tượng không ngừng biến đổi, phát triển theo thời gian dưới tác
động của các mâu thuẫn nội tại và yếu tố bên ngoài. Phát triển là một quá trình biến đổi không ngừng, từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cũ đến mới. Vì vậy, khi phân tích sự vật, không chỉ xem xét
trạng thái tĩnh tại mà còn phải nhìn nhận quá trình phát triển của nó trong toàn bộ mối quan hệ lịch sử và xã hội.
Nguyên tắc toàn diện: Là việc nghiên cứu sự vật không chỉ giới hạn ở một khía cạnh cụ thể mà phải nhìn
nhận nó từ nhiều mặt, nhiều yếu tố và mối quan hệ phức tạp. Nguyên tắc này yêu cầu phải tránh cái nhìn
phiến diện, đơn phương, mà phải xem xét sự vật trong tổng thể các mối quan hệ qua lại giữa các thành tố.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cung cấp phương pháp luận khoa học giúp chúng ta tiếp cận và nghiên cứu
sự vật hiện tượng theo hướng toàn diện, thông qua các nguyên tắc:
Quan điểm lịch sử - cụ thể: Quan điểm toàn diện không chỉ xem xét sự vật trong mối quan hệ hiện tại mà
còn phải nhìn nhận nó trong bối cảnh lịch sử, quá trình phát triển của nó. Điều này có nghĩa là để hiểu rõ
một sự vật, không thể tách rời quá trình hình thành, phát triển và các yếu tố lịch sử tác động lên nó. lOMoAR cPSD| 61622079
Quan điểm mâu thuẫn: Quan điểm toàn diện không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sự vật một cách tĩnh
lặng mà còn phải nhận thức được các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của nó, bởi mâu thuẫn là động
lực của sự phát triển. Nhìn nhận sự vật trong mối quan hệ giữa các mặt đối lập sẽ giúp ta hiểu được cơ
chế vận động và phát triển của sự vật.
Phương pháp biện chứng: Phương pháp này yêu cầu xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển không
ngừng. Mọi sự vật và hiện tượng đều có tính chất lịch sử và biến đổi theo thời gian. Vì vậy, việc phân tích
sự vật phải có sự xem xét kỹ lưỡng cả quá trình phát triển và sự tác động của các yếu tố khác. Vận dụng
Trong công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay, quan điểm toàn diện được thể hiện qua việc Đảng và Nhà
nước chú trọng không chỉ đến các yếu tố bên trong của đất nước mà còn xem xét mối quan hệ với các yếu
tố bên ngoài, quốc tế. Đổi mới không chỉ đơn thuần là cải cách ở chỉ một vài khía cạnh nào đó mà còn phải
nhìn nhận nhiều vấn đề hơn như chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao, quốc phòng, thay đổi dần hòa nhập với quốc tế
Lý thuyết về quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc chúng
ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan có liên quan đến sự vật.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ
thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể khác nhau. Điều kiện không gian và thời gian này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính
chất, đặc điểm của sự vật đó.
Cùng một sự vật nhưng nếu xem xét về tồn tại trong những điều kiện khác nhau thì sẽ đem lại tính chất,
đặc điểm khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất ban đầu của sự vật.
Theo triết học Mác Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới khách quan trong quá
trình lịch sử cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử
cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều bắt đầu từ quá trình hình thành, phát triển và suy vong của mình và quá trình
đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau.
Cơ sở lý luận về quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử cụ thể bắt nguồn từ nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho rằng mọi
sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau và với hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Cụ thể: -
Vật chất quyết định ý thức: Các sự kiện, hiện tượng xã hội, lịch sử đều phải được xem xét dựa trên
những điều kiện vật chất cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định. Điều này có nghĩa là mọi sự
phát triển đều bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội của thời kỳ đó. -
Sự phát triển là quá trình biện chứng: Sự phát triển của xã hội, lịch sử hay bất kỳ sự vật nào đều
tuân theo quy luật biện chứng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật trong quá trình vận động, lOMoAR cPSD| 61622079
thay đổi, chứ không thể đánh giá nó một cách tĩnh tại, cố định. Do đó, mỗi sự kiện, hiện tượng đều chỉ có
thể được hiểu đúng đắn khi đặt trong bối cảnh cụ thể và quá trình phát triển của nó.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, tính khách quan và tính toàn diện là hai nguyên tắc cơ bản để hiểu rõ
một sự vật hay hiện tượng. Quan điểm lịch sử cụ thể phản ánh sự tuân thủ các nguyên tắc này:
Tính khách quan: Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong một hệ thống khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người. Việc phân tích sự kiện, hiện tượng phải dựa trên những điều kiện
khách quan của thời đại, lịch sử, và hoàn cảnh thực tế, thay vì nhìn nhận theo quan điểm phiến diện, chủ quan.
Tính toàn diện: Một sự kiện lịch sử hay hiện tượng xã hội không thể được hiểu một cách đầy đủ nếu chỉ
nhìn nhận từ một khía cạnh cụ thể. Chúng phải được phân tích trong mối quan hệ biện chứng với các yếu
tố khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý con người, v.v. Điều này giúp chúng ta thấy
rằng mỗi quyết định hay sự kiện đều là kết quả của sự tổng hợp của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vận dụng
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dựa vào quan điểm lịch sử cụ thể, Nhà nước nhìn nhận bối cảnh kinh
tế, chính trị của Việt Nam hiện nay để đưa ra các đường lối, chính sách đổi mới cho phù hợp để hoàn
thành mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tiến tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Câu 2
Lý thuyết về phủ định biện chứng
Ta có bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong.
Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó gọi là phủ định
Theo triết học Mac - Lênin, phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động
và phát triển. Trong lịch sử triết học, tùy theo thế giới quan và phương pháp luận thì các nhà triết học và
các trường phái triết học có quan điểm khác nhau về phủ định.
+ Quan điểm thì coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn cái cũ, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật.
+ Quan điểm thì cho rằng sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho rằng sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó
dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời
là kết quả của phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ ( đó là phủ định biện chứng)
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mất khâu trong quá trình
dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. lOMoAR cPSD| 61622079
Phân tích đặc điểm phủ định biện chứng
1. Tính khách quan của phủ định biện chứng
Tính khách quan được thể hiện do nguyên nhân sự phủ định nằm ở ngay trong bản thân sự vật. Đó chính
là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật
luôn phát triển , vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Và đương nhiên mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy thuộc và sự giải quyết
mâu thuẫn của chúng. Đồng nghĩa với việc phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của
con người ( con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ
sở nắm vũng quy luật phát triển của sự vật)
2. Tính kế thừa của phủ định biện chứng
Tính kế thừa của phủ định biện chứng được thể hiện thông qua việc phủ định biện chứng là kết quả của
sự phát triển tự thân của sự vật, cho việc nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái
mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự phát triển tiếp tục cái cũ trên cơ sở bỏ đi những mặt tiêu
cực, thừa thãi, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, tích cực,
bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai
đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra trong giai đoạn trước và bổ sung thêm những
mặt mới phù hợp với hiện thực.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định
những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Từ đó có thể thấy phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Như vậy phủ
định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới
tiếp nối những cái tốt của sự vật cũ với sự vật mới, giữa khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện
thực. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
3. Khẳng định phủ định là vô tận
Phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, nó tạo nên khuynh hướng phát triển của tất cả các sự vật,
hiện tượng đi từ thấp lên cao, nó diễn ra có tính chất chu kì Vận dụng
Trong cuộc sống học tập của bản thân hiện nay sự phủ định biện chứng thể hiện qua việc khi ta còn nhỏ
những kiến thức mà em được học sẽ là những kiến thức đơn giản, cơ bản, sau đó khi lớn dần em sẽ được
học các kiến thức nâng cao hơn và cứ thế các kiến thức mới cao hơn sẽ thay thế dần các kiến thức cũ