



















Preview text:
LÝ THUYẾT THAM VẤN – TRỊ LIỆU TÂM LÝ
I. Phân tâm học cổ điển của Sigmund Freud
A. 2 bộ 3 I. Các cấp độ ý thức
Sigmund Freud tin rằng hành vi và tính cánh được tạo thành từ sự tương tác liên tục và độc
nhất giữa những nguồn sức mạnh tâm lý vận hành ở 3 cấp độ nhận thức khác nhau: ý thức, tiền ý
thức và vô thức. Tâm trí ý thức chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thể. Ông tin rằng mỗi cấp độ
này đều đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng lên hành vi. Mặc dù nó hoàn toàn không nhận biết
được những suy nghĩ ở trong tâm trí vô thức, tâm trí vô thức vẫn tác động đến hành vi. Ý thức
Bao gồm tất cả những suy nghĩ, ký ức, cảm giác và mong muốn mà ta nhận thức được một
cách rõ ràng vào bất kỳ thời điểm nào. Ta có thể nghĩ đến và trò chuyện về những thứ kể trên theo
lý trí. Ý thức còn bao gồm cả ký ức, không phải lúc nào ký ức cũng nằm ngay trong vùng ý thức
nhưng nó có thể được triệu hồi dễ dàng vào bất kỳ thời điểm nào và giúp ta nhận thức nó rõ ràng.
Phần này chứa đựng những tư tưởng và cảm xúc mà con người nhận biết được. Nội dung
chứa đựng trong ý thức bao gồm tất cả những thứ mà bạn chủ động nhận thức được tại bất kỳ thời điểm nào.
Ví dụ, vào lúc này, bạn nhận thức được thông tin bạn đang đọc, âm nhạc bạn đang nghe,
hoặc một cuộc trò chuyện với người khác. Tất cả các suy nghĩ đi qua tâm trí bạn, cảm giác và cảm
nhận của bạn về thế giới xung quanh, và cả những ký ức bạn gom lại trong nhận thức chính là trải
nghiệm của ý thức trong bạn. •
Ý thức kiểm duyệt và kiềm chế hành vi thúc đẩy bởi vô thức:
Ví dụ: khi đi mua sắm thì hàng hóa ở đó rất mắc tiền, rất đẹp. Lúc mắt thấy một món hàng
quý giá thì vô thức luôn thôi thúc, xúi dục ta đánh cắp món hàng đó bỏ vào túi bất chấp có bị bắt,
vào tù ra khám. Ngược lại, nếu có ý thức tức là quay về sống với lương tâm chúng ta từ bỏ ngay
ý định bất chánh đó. •
Ý thức có thể hóa giải thông qua vô thức:
Trong cuộc sống hằng ngày, cánh cửa tâm hồn được thông qua bởi ánh mắt, lời nói, cử chỉ
hay những lời nói bộc phát tưởng như vô tình ở người đối thoại có thể giúp chúng ta hiểu phần nào
những ẩn chứa trong tâm hồn của họ.
Ví dụ: anh A thầm yêu chị B từ lâu, nhưng vì điều kiện gia đình hai bên không phù hợp cho
nên anh A chỉ còn cách dấu trong tim tình yêu thầm lặng của mình. Một hôm, vì uống rượu nhiều,
không kiểm soát được suy nghĩ nên anh A đã nói hết nỗi lòng của mình cho mọi người nghe. Ở
đây, ý thức thể hiện việc anh A thầm yêu chị B bằng cách giấu, nhưng ý thức đó được biểu hiện
qua lời nói vô thức khi uống nhiều rượu nghĩa là rượu vô thì lời ra, không kiềm chế được. Tiền ý thức
Chứa đựng trí nhớ và kiến thức, bao gồm tất cả những thứ tiềm ẩn có thể được đưa đến
vùng ý thức. Phần này chứa các thông tin như ký ức tuổi thơ và có thể tiếp cận được thông qua
liệu pháp phân tâm. Tiền ý thức cũng có mối liên hệ gần gũi, nó bao hàm tất cả những thứ bạn có
khả năng kéo lại về với ý thức. Tiền ý thức cũng hoạt động như một người bảo hộ, kiểm soát thông
tin nào được cho phép đưa vào vùng ý thức.
Ví dụ: Bạn có thể không phải lúc nào cũng chủ động nghĩ về những ký ức từ hồi tốt nghiệp
phổ thông, nhưng bạn vẫn có thể triệu hồi lại thông tin này về với ý thức nếu bạn cần hoặc muốn
làm như vậy. Vô thức
Là một ‘kho tàng” các cảm xúc, suy nghĩ, ham muốn và ký ức nằm bên ngoài vùng kiểm soát của
ý thức. Hầu hết các nội dung của vùng vô thức đều khá khó chịu và không được chủ thể chấp nhận,
như cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột. Theo Freud, tâm trí vô thức không ngừng ảnh hưởng
lên hành vi và trải nghiệm của ta, thậm chí ta còn không biết đến sự tồn tại của nguồn sức mạnh
này. Vô thức có thể bao gồm cả những cảm xúc bị đè nén, những ký ức, thói quen, suy nghĩ, khao
khát và phản ứng ẩn giấu kỹ càng. Phần này che giấu phần lớn những thôi thúc, khao khát và suy
tư của một người. Vô thức có thể lộ ra trong giấc mơ của bạn và khi nói lỡ miệng cũng có thể là
những gì trong vô thức bạn đang lộ ra ngoài.
Ví dụ: đang ngủ bên cạnh vợ thì lỡ gọi mớ tên của tình nhân nhỏ bé.
Freud đã kết luận rằng “Vô thức và ý thức liên quan mật thiết với nhau, thiếu một trong
hai đều dẫn tới tư duy què quặt. Nhưng quan trọng nhất là vô thức đóng vai trò thiết yếu trong
quá trình sáng tạo của con người, góp phần tạo nên các thiên tài, vĩ nhân, thần đồng trong mọi
lãnh vực từ âm nhạc, hội họa, kiến trúc, khoa học cho đến tâm linh…” II. Mô hình cấu trúc nhân cách:
Theo Sigmund Freud, tính cách con người vô cùng phức tạp và chắc chắn có nhiều hơn
một thành tố. Trong học thuyết phân tâm nổi tiếng của mình về tính cách, ông cho rằng tính cách
được cấu tạo từ 3 yếu tố. Ba yếu tố này– bao gồm Bản năng (cái ‘nó’), Bản ngã (cái tôi), và Siêu
ngã (siêu tôi) – kết hợp với nhau hình thành nên sự phức tạp trong tính cách con người. Mỗi thành
tố đều không chỉ góp mình vào sự hình thành tính cách mà sự tương tác của bộ ba này cũng tạo
ảnh hưởng mạnh mẽ lên từng cá nhân. Mỗi thành tố này của tính cách sẽ xuất hiện vào những thời
điểm khác nhau trong đời.
Bản năng (Cái “nó” - The Id)
Bản năng là thành tố duy nhất của tính cách xuất hiện từ lúc mới sinh ra và hoàn toàn là vô
thức. Theo Freud thì bản năng là gốc rễ của mọi nguồn năng lượng tinh thần, khiến nó trở thành
thành tố cơ bản của tính cách. Bản năng bao gồm tất cả những ham muốn nguyên thủy bẩm sinh
(nhu cầu sinh lý, nhu cầu tình dục,...) và điều khiển con người theo nguyên tắc khoái lạc.
Bản năng bị điều khiến bởi nguyên lý thỏa mãn, tức luôn đi tìm kiếm sự dễ chịu, thoải mái
ngay tức khắc, đáp ứng lại mọi khao khát, ham muốn và nhu cầu. Nếu những nhu cầu này không
được ngay lập tức đáp ứng, chủ thể sẽ rơi vào trạng thái lo âu hoặc căng thẳng.
Ví dụ, cơn đói hay cơn khát tăng lên sẽ làm xuất hiện nỗ lực tìm kiếm cái ăn hay đồ uống ngay lập tức.
Bản năng rất quan trọng trong những năm tháng đầu đời vì nó đảm bảo những nhu cầu của
trẻ sơ sinh được đáp ứng. Nếu trẻ đói và không thoải mái, trẻ sẽ khóc cho đến khi nhu cầu này của
bản năng được thỏa mãn. Vì trẻ nhỏ thường bị thống trị hoàn toàn bởi bản năng nên sẽ không có
gì phải bàn cãi khi những nhu cầu này phải được đáp ứng ngay.
Thử tưởng tượng khi bạn cố dỗ bé nhà bạn chờ đến giờ cơm trưa mới ăn thì sẽ như thế
nào. Lúc này bản năng của trẻ cần được thỏa mãn ngay lập tức và vì những thành tố khác của
tính cách chưa xuất hiện nên trẻ sẽ khóc cho đến khi bạn đáp ứng nhu cầu này của trẻ.
Tuy nhiên, ngay lập tức đáp ứng những nhu cầu này không phải lúc nào cũng mang tính
thực tế và có khi còn bất khả thi. Nếu con người chúng ta bị thống trị hoàn toàn bởi nguyên lý thỏa
mãn này thì bản thân ta có lẽ sẽ cứ giựt ngay thứ ta cần khỏi tay người khác để thỏa mãn cơn thèm
khát của mình. Dạng hành vi này có thể vừa mang tính phá hoại, vừa không được xã hội chấp
nhận. Theo Freud, bản năng cố giải quyết căng thẳng hình thành bởi nguyên lý thỏa mãn qua quá
trình đáp ứng nhu cầu sơ cấp. Tại đây, chủ thể hình thành một hình ảnh về những thứ chủ thể mong
muốn trong tâm trí như một cách để thỏa mãn nhu cầu.
Cái “nó” bao gồm hai loại bản năng sinh học mà Freud gọi là Eros và Thanatos. Ban đầu
ông tin rằng bản năng sống là động cơ chịu trách nhiệm phần lớn cho hành vi của con người.
Nhưng sau này ông đã thay đổi và tin rằng bản năng sống không thể lý giải được hết tất cả hành
vi của con người, từ đó ông kết luận tất cả mọi bản năng đều được chia làm hai nhóm là bản năng
sống và bản năng chết.
Eros (bản năng sống)
Bản năng sống hay còn được gọi là bản năng tính dục là bản năng giúp cá nhân có thể tồn
tại, thỏa mãn nhu cầu và sinh sản duy trì nòi giống. Bản năng sống tập trung vào duy trì sự sống
cho con người không chỉ ở mức độ cá nhân mà còn ở mức độ xã hội. Nhắc đến Eros chính là nhắc
tình yêu, sự hợp tác, những hành vi xã hội, những cảm xúc tích cực, thúc đẩy thực hiện những
hành vi bảo đảm sự sống còn như hô hấp, ăn uống, tự chăm sóc sức khỏe, tình dục, sinh sản và
nuôi dưỡng thế hệ sau, hỗ trợ cá nhân tồn tài và hoà hợp với xã hội. Năng lượng được bản năng
sống tạo ra được gọi là ham muốn tính dục hay dục năng.
Thanatos (Bản năng chết)
Trong quyển “Beyond the Pleasure Principle” Sigmund Freud đã lần đầu nhắc đến khái
niệm bản năng chết, Freud nói rằng “Mục đích của tất cả sự sống đều là cái chết”. Thanatos là tập
hợp của các lực lượng hủy diệt hiện diện bên trong con người. Freud tin rằng về cơ bản con người
luôn hướng đến việc thể hiện bản năng chết ra ngoài, khi nguồn năng lượng này hướng ra bên
ngoài sẽ được thể hiện dưới dạng hung hăng và bạo lực. Tuy nhiên vẫn có trường hợp hướng bản
năng này vào bên trong và làm xuất hiện hành vi tự hủy hoại. Nhưng Freud cũng cho rằng Eros
mạnh hơn Thanatos nên con người có thể tiếp tục sống thay vì hủy diệt bản thân.
Mặc dù con người ta rồi cũng sẽ học được cách kiểm soát bản năng nhưng bộ phận này của
tính cách sẽ vẫn tồn tại như thời ta còn nhỏ, là nguồn năng lượng căn bản nhất trong cả cuộc đời.
Chính sự hình thành của bản ngã và siêu ngã cho phép ta kiểm soát những bản năng nguyên thủy
nhất của cái ‘nó’ và khiến ta hành xử theo một cách vừa thực tế vừa được xã hội chấp nhận.
Bản ngã (Cái tôi - The Ego)
Bản ngã là phần nhân cách theo nguyên tắc hiện thực và giữ chức năng kiểm soát bản năng,
hướng bản năng thỏa mãn sao cho phù hợp và giảm thiểu những căng thẳng do sự cấm đoán của
cái siêu ngã. Bản ngã là cấu phần của tính cách chịu trách nhiệm giúp ta xoay xở với đời sống thực.
Theo Freud, bản ngã phát triển nên từ bản năng, và nhiệm vụ của nó là đảm bảo những thôi
thúc của bản năng được thể hiện ra một cách dễ chấp nhận trong thế giới thực.
Bản ngã là thành tố nhân cách vận hành trong cả trạng thái ý thức, tiền ý thức và vô thức.
Nguyên tắc hiện thực sẽ cân đo lợi ích và cái giá phải trả cho hành vi trước khi chủ thể
quyết định thực hiện hay bỏ qua hành vi này. Trong nhiều trường hợp, thôi thúc của bản năng có
thể được thỏa mãn qua một quá trình trì hoãn đáp ứng nhu cầu – nói chung, bản ngã rốt cuộc cũng
sẽ cho phép hành vi bản năng xuất hiện nhưng chỉ vào lúc nào và tại nơi nào đó phù hợp.
Freud so sánh bản năng với một chú ngựa và bản ngã như người cưỡi ngựa. Con ngựa mang
đến sức mạnh và sự di chuyển, tuy nhiên người cưỡi mới là là người đưa ra phương hướng và chỉ
dẫn. Nếu không có người cưỡi, con ngựa sẽ có thể chỉ đi lang thang bất kỳ nơi nào nó muốn và
làm bất cứ cái gì nó thích. Người cưỡi đưa ra phương hướng và mệnh lệnh để dẫn dắt ngựa theo
con đường mà người cưỡi muốn đi.
Bản ngã cũng loại bỏ sự căng thẳng gây ra bởi những ham muốn không được đáp ứng qua
quá trình đáp ứng nhu cầu thứ cấp, tại đây bản ngã sẽ cố tìm một thứ nào đó trong thế giới thực
tương thích với hình hảnh do bản năng hình thành trong tâm trí qua quá trình đáp ứng nhu cầu sơ cấp này.
Ví dụ, thử tưởng tượng bạn đang mắc kẹt trong một cuộc họp dài lê thê ở chỗ làm. Bạn
thấy mình càng lúc càng đói mà cuộc họp thì cứ lan man mãi. Mặc dù bản năng thúc ép bạn nhảy
khỏi chỗ ngồi, chạy đến phòng giải lao để lót dạ cái gì đó, nhưng bản ngã lại ghìm bạn ngồi yên
lặng tại ghế của mình và chờ cho đến khi cuộc họp kết thúc. Thay vì hành xử theo thôi thúc của
bản năng, bạn lại dành phần lớn thời gian ngồi họp để tưởng tượng cảnh mình đang ăn một cái
bánh kẹp thịt phô mai. Ngay khi cuộc họp kết thúc, bạn sẽ ngay lập tức đi tìm kiếm thứ nãy giờ
bạn vẫn tưởng tượng trong đầu và thỏa mãn nhu cầu của bản năng một cách vừa thích hợp vừa thực tế.
Siêu ngã (Cái siêu tôi - The Super Ego)
Cấu phần xuất hiện cuối cùng của nhân cách là siêu ngã. Siêu ngã là một phần trong tính
cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng mà bạn tiếp nhận từ cả cha mẹ và xã hội
– nó chính là cảm nhận của chúng ta về cái đúng cái sai trong cuộc sống. Siêu ngã chỉ dẫn giúp ta
đưa ra những đánh giá mang tính cá nhân. Cũng như bản ngã, siêu ngã xuất hiện trong cả ý thức,
tiền ý thức và vô thức. Theo Freud, siêu ngã bắt đầu xuất hiện từ khoảng độ tuổi lên 5. Siêu ngã
có hai phần: lương tâm và lý tưởng. •
Lương tâm (Nghĩa giới hạn trong phân tâm học) thể hiện những điều bị cha mẹ và xã hội
coi là tệ hại. Những hành vi này thường bị cấm và đưa đến hậu quả xấu, khiến chủ thể bị
phạt, có cảm giác tội lỗi hoặc ăn năn. Lương tâm có khả năng trừng phạt cái tôi bằng cách
tạo ra cảm giác tội lỗi. •
Lý tưởng bao gồm những quy tắc và tiêu chuẩn cho các hành vi tích cực, bao gồm các hành
vi được cha mẹ và những người khác chấp nhận. Lý tưởng còn là hinh hình mẫu mà cá
nhân muốn trở thành và cũng đại diện cho khát vọng nghề nghiệp, cách đối nhân xử thế
dưới tư cách là một thành viên của xã hội. Phục tùng những quy tắc này làm chủ thể cảm
thấy tự hào, thấy mình có giá trị và đưa đến cảm giác thành tựu.
Siêu ngã giúp hoàn thiện và giáo hóa hành vi. Nó đàn áp tất cả những thôi thúc khó mà
chấp nhận của bản năng và cố tranh đấu để khiến bản ngã hành xử theo những tiêu chuẩn lý tưởng
hóa thay vì theo những nguyên lý hiện thực kia.
Khi nói về bản năng, bản ngã và siêu ngã thì ta cần nhớ rằng bộ ba này không tồn tại độc lập
riêng rẽ hay có ranh giới rõ ràng. Những bộ phận này của tính cách rất linh động và luôn tương
tác với nhau trong chủ thể, từ đó gây ảnh hưởng lên toàn bộ tính cách và hành vi của chủ thể.
Với quá nhiều nguồn sức mạnh tranh đấu với nhau, xung đột xảy ra giữa bản năng, bản ngã và
siêu ngã cũng là điều dễ thấy. Freud sử dụng thuật ngữ sức mạnh bản ngã để chỉ năng lực vận
hành của bản ngã mặc cho nguồn sức mạnh kép này. Một người có sức mạnh bản ngã tốt sẽ có
thể xử lý hiệu quả những áp lực này, còn những người có sức mạnh bản ngã dư thừa hoặc thiếu
hụt có thể sẽ hoặc hành xử rất cứng nhắc hoặc sẽ quá hư hỏng.
B. 5 giai đoạn phát triển tâm tính dục
Theo Freud, sự phát triển của trẻ đi theo một thứ tự gồm nhiều giai đoạn: giai đoạn môi
miệng, giai đoạn hậu môn, giai đoạn dương vật, giai đoạn tiềm ẩn và giai sinh dục. Ông
đưa ra giả thuyết rằng mỗi giai đoạn tâm lý giới tính ấy ưu đãi một vùng thân thể đặc biệt,
đó là vùng khoái cảm chủ yếu của trẻ.
Giai đoạn môi miệng (Oral stage)
Là giai đoạn trẻ em sơ sinh có khoái cảm lớn nhất qua thao tác bú và đưa lên miệng cắn những vật
thể gần bé. (Từ lúc mới sinh đến 1 tuổi hay chừng 18 tháng). Như vậy trẻ bú không phải chỉ vì đói
mà còn để tìm kiếm khoái cảm.
Giai đoạn hậu môn (Anal stage)
Là giai đoạn bé tập trung vào khu vực hậu môn trong thao tác đại tiện mỗi khi bé đi vệ sinh. Khoái
cảm xảy ra mỗi khi bé nín và thả cơ vòng hậu môn trong thao tác đại tiện. (Khoảng từ 2–3 tuổi,
chừng 18 tháng). Đây là thời điểm trẻ nhận ra mình có thể quyết định, điều khiển cơ thể mình.
Giai đoạn dương vật (Phallic stage)
Là giai đoạn bé có thích thú khám phá bộ phận sinh dục của mình, và chuyện bé thích nghịch bộ
phận sinh dục của mình tương đối phổ biến. (Khoảng từ 3, 4 đến 5, 6 có khi đến 7 tuổi). Đây là
tiền đề cho sự ra đời của phức cảm Oedipus.
Giai đoạn tĩnh lặng/Giai đoạn ẩn tàng (Latency stage)
Là giai đoạn xung lực tính dục tạm thời bị nén lại để các em có thời gian tiếp thu những kỹ năng
mới nơi trường học. Vào thời điểm này các em thường không tập trung quá nhiều vào mảng dục
tính, tuy nhiên theo George Boeree (2006) có khoảng 25% các em có những hành vi thủ dâm, cao
hơn nhiều so với thời gian nghiên cứu của Freud. (Giai đoạn này bắt dầu từ 5,6,7 tuổi trở đi cho đến năm 12 tuổi).
Giai đoạn sinh dục (Genital stage)
Là giai đoạn bắt đầu từ tuổi dậy thì khi cảm xúc tính dục tập trung vào khoái cảm giao hợp. Theo
Freud, bất cứ những hành vi tính dục nào khác với giao hợp tự nhiên, chẳng hạn như thủ dâm, làm
tình qua đường miệng, tính dục đồng phái và những hành vi tính dục khác (vốn được thực hiện
rộng rãi trong xã hội ngày nay) đều được coi là những hành vi thiếu trưởng thành. Người ta hay
nói về cơn khủng hoảng của tuổi vị thành niên, trải qua cơn khủng hoảng này, nhân cách con người
sẽ được hình thành rõ nét. C. Cơ chế tự vệ
Freud cho rằng cái tôi phải đối diện với những yêu cầu từ hai phía trong đời sống thực tiễn là: xung
động vô thức và siêu ngã.
Tuy nhiên khi có sự mâu thuẫn quá lớn giữa xung động vô thức và siêu ngã xảy ra, cái tôi buộc
phải tự bảo vệ nó một cách vô thức tự động bằng cách chặn lại những xung lực này hoặc tìm cách
thay đổi biến chúng trở thành những hình thái mới mẻ khác, dễ được chấp nhận và bớt đi tính cách
đe dọa hơn. Sau đó con gái của Freud là Anna cùng một số cộng sự khác đã tiếp tục khám phá
thêm về hiện tượng cơ chế tự vệ này.
Cơ chế tự vệ chối bỏ: là cơ chế tự vệ chặn những sự kiện có hại từ bên ngoài, không
cho chúng đi vào khu vực cảnh giác của tâm thức.
Khi tiếp cận những trường hợp tình huống căng thẳng vượt quá khả năng xử lý của cá nhân,
người đó sẽ từ chối không nhập cuộc với tình huống ấy. Đây là cơ cấu tự vệ chủ lực. Theo Freud
và Anna thì đây là cách tiếp cận không lành mạnh vì chúng ta không thể đóng cửa mãi với vấn đề
được. Đây là cơ chế tự vệ tạo điều kiện để những cơ chế tự vệ không lành mạnh khác có cơ hội phát huy.
Vài ví dụ được thấy, trẻ em quay mặt tránh né cái nhìn bắt lỗi của người lớn khi các em
phạm lỗi. Trong trường hợp này các em đã sử dụng cơ chế tự vệ chối bỏ để tránh né tia mắt nóng
nảy của người lớn. Hay có nhiều người lớn bất tỉnh khi nhìn thấy máu, đây cũng là cơ năng tự vệ
chối bỏ. Có người đổ vỡ trong tình cảm không tin rằng họ bị phản bội. Nhiều người cố tình không
chấp nhận sự ra đi của người thân. Đôi lúc nhiều người không có can đảm để nghe sự thật. Nhiều
sinh viên không dám đi coi điểm bài thi của mình vì sợ thi rớt. Đó là những ví dụ của cơ chế tự vệ chối bỏ thực tế.
Anna, con gái của Freud cũng nhắc đến cơ chế tự vệ chối bỏ trong địa hạt tưởng tượng. Ví
dụ khi một em bé đã chuyển đổi chân dung một người cha độc ác sang một con gấu dễ thương,
hay một em bé tội nghiệp đáng thương trở thành một anh hùng đầy sức mạnh (như trong truyện cổ tích).
Cơ chế tự vệ dồn nén: được Anna Freud (con gái của Freud) gọi là sự lãng quên có động
cơ, trong đó một cá nhân không thể nhớ lại những tình huống, hoặc những sự kiện đau đớn. Đây
là một cơ chế tự vệ khá nguy hiểm vì cá nhân không giải quyết dứt khoát tận gốc mọi sự cố xảy
đến từ điều kiện hoàn cảnh đời sống không thuận lợi. Cơ chế tự vệ dồn nén này thường là căn
nguyên của những nỗi lo sợ vô căn cứ.
Ví dụ một người rất sợ loài nhện mà không hiểu vì sao mình lại quá sợ? Chỉ nghĩ đến loài
nhện thôi họ đã sợ chứ không cần phải nhìn thấy. Rồi khi lớn lên anh ta vẫn không hiểu do đâu
mình sợ. Cho đến khi anh ta nghe người lớn kể rằng ngày còn rất bé anh ta bị nhốt trong một căn
phòng hẹp có nhiều nhện. Ký ức anh ta đã đóng chặt và anh ta đã cố tình quên để gạt bỏ kinh
nghiệm của mình đã bị nhốt trong một căn phòng có đầy nhện. Anh ta cố quên hẳn chuyện vì sao
mình sợ nhện – tuy nhiên nỗi sợ hãi vẫn tồn tại ở một cấp độ gián tiếp khó nhận ra. Theo trường
phái phân tích tâm lý của Freud thì hiện tượng sợ hãi vô lý này đã dồn nén một sự kiện gây sợ quá
ấn tượng; đó là căn phòng hẹp có nhiều nhện. Vì thế chỉ cần anh ta nhìn thấy nhện hoặc nghĩ về
nhện đã gây ra lo lắng mà không cần khuấy động toàn bộ hệ thống trí nhớ.
Cũng theo Freud, đời sống khổ hạnh là một thói quen từ bỏ những nhu cầu bình thường
hàng ngày như nhịn ăn, tập thể dục quá độ, tập luyện võ nghệ, cùng với nhiều hành vi ép xác khác
bởi vì các cá nhân đó có thói quen từ bỏ nhìn nhận những khả năng phát triển bình thường của
mình. Vì thế họ luôn cố gắng hoàn thiện mình. Đây là một hình thái xử lý tình trạng lo lắng về
những khiếm khuyết của bản thân. Nhiều người còn đi xa hơn, tự đày đọa thân xác để mong tìm
được sự bình an trong ăn năn sám hối.
Anna Freud đã lý luận và cho rằng nhiều người trải qua một hình thái dồn nén nhẹ hơn gọi
là hạn chế cái tôi. Điều này xảy ra khi một người không còn hứng thú đến một bộ phận nào đó của
cuộc sống nên đã tập trung vào những mảng khác của đời sống để né tránh những gai góc thử
thách. Ví dụ một cô gái sợ mình không có nhiều cơ hội có người yêu nên dồn vào việc học tập và
làm việc. Hoặc một cậu bé không giỏi thể thao thường tập trung vào học môn toán.
Cơ chế tự vệ đóng cửa đôi khi còn được gọi là quá trình thông minh hóa: Đây là cơ chế
tự vệ liên quan đến việc tách cảm xúc ra khỏi một ký ức khó chịu hay một xung lực có tính chất
đe dọa. Ví dụ một người đã bị sách nhiễu tình dục có vẻ rất hờ hững và bàng quan và coi mình
chưa bao giờ bị sách nhiễu tình dục. Đây chính là một hình thái của tự nói dối, tự lừa gạt chính mình.
Trong trường hợp khẩn cấp, nhiều người tỏ ra rất tỉnh táo nhưng khi tình trạng khẩn cấp đó
qua đi thì họ sẽ sụp đổ. Nhiều cá nhân có khả năng tỏ ra rất cứng rắn trong việc xử lý chết chóc
hay tiếp cận với những ca bị thương như các bác sĩ và y tá. Họ là những người phải làm việc
thường trực với các vết thương, vết mổ, máu và dao kéo. Ta có thể nhận ra họ có khả năng áp dụng
cơ chế tự vệ đóng cửa. Hoặc ta thấy nhiều trẻ em rất sợ phim ma nhưng vẫn đi coi. Hoặc nhiều
người cố tình cười đùa trước những sự kiện đau lòng. Đây là những ví dụ cơ chế tự vệ đóng cửa
nơi con người. Như vậy, Các cá nhân tự thuyết phục rằng họ không có những cảm xúc lo lắng
nhưng thật ra họ rất lo lắng.
Cơ chế tự vệ thay thế là quá trình chuyển hướng cảm xúc của mình về một cá nhân A
qua một cá nhân B khác. Thông thường thì những cảm xúc tích cực dễ chịu được con người
đón nhận. Song có những cảm xúc quá gay gắt và khó chấp nhận, một cá nhân thường có
phản ứng chuyển cảm xúc ấy sang cho người khác (như giận cá chém thớt).
Ví dụ một người không thích sếp của mình là người thấp lùn nên có ác cảm với tất cả những người
đàn ông thấp lùn khác (không thích sếp nên ghét lây sang người khác). Hay nhiều người không
tìm được bạn tình nên đã tìm cách kiếm những thú vật khác như chó mèo để thay thế nhu cầu tình
cảm ấy. Nhiều người đi tu vì không tìm thấy ý nghĩa của mình trong cuộc sống ở ngoài đời. Nhiều
người bực bội ở cơ quan về nhà hành hạ và la mắng người thân. Nhiều trường hợp, cá nhân có thể
áp dụng cơ chế tự vệ thay thế với chính mình bằng cách giận người khác nhưng lại tự đọa đày và
có những não trạng yếm thế, thụ động, chán chường dẫn đến thiếu tự tin và trầm uất. Họ cảm thấy
tự ghét bỏ mình và không chấp nhận bản thân con người của họ.
Cơ chế tự vệ gán ghép cảm xúc được Anna Freud gọi là hoán chuyển cảm xúc hướng
ngoại. Đây là cách nhiều người gán ghép cảm xúc của mình lên người khác, nhất là những
điểm hạn chế tiêu cực của bản thân họ được nhìn thấy ở người khác. Họ thường có những
cảm xúc vẫn tồn tại trong hệ tư duy của mình nhưng lại cho đấy là cảm xúc của người khác.
Có thể nói đây là cách suy bụng ta ra bụng người về những mặt thiếu lành mạnh và tiêu cực.
Ví dụ như một ông chồng rất thích một cô gái hàng xóm và rồi nghĩ rằng vợ mình cũng có những
cảm giác đó với những người đàn ông khác tại cơ quan. Hay một sinh viên lười biếng có khuynh
hướng cho rằng nhiều sinh viên khác cũng sẽ lười biếng như mình. Hoặc nhiều người có những lo
lắng băn khoăn về xu hướng giới tính của mình sẽ nghĩ là nhiều người xung quanh có cùng cảm giác đó.
Anh A là người đồng tính sẽ nghĩ rằng có nhiều người đàn ông khác cùng đồng tính giống như
anh. Nhiều người sống và hy sinh vì người khác vì họ tìm thấy những nhu cầu của mình sẽ được
đáp ứng qua sinh hoạt người khác. Ví dụ như ta vẫn nghe câu nói "muốn ăn gắp bỏ cho người".
Chẳng hạn một cô gái luống tuổi rất thích làm mai cho các cô gái trẻ khác vì họ có nhu cầu cơ chế
tự vệ hoán chuyển cảm xúc này.
Cơ chế tự vệ phản ứng được Anna Freud gọi là tin vào điều ngược lại.
Đây là cách các cá nhân thay đổi một xung lực khó chấp nhận qua một xung lực ở trạng thái
dễ chấp nhận hơn. Ví dụ một đứa trẻ chẳng ưa gì cô giáo nhưng vẫn vui vẻ để lấy lòng cô giáo
ấy để tránh bị phạt. Hoặc một người đồng tính không thể chấp nhận được những phản đối về sinh
hoạt tính dục đồng tính từ phía dư luận xã hội nên đã công khai chống lại đồng tính (anh ta có
phản ứng với dư luận tiêu cực qua việc nói dối).
Một ví dụ điển hình thường thấy nơi các em gái ở độ tuổi 7–11, khi các em nói mình ghét các em
trai, nhưng người lớn có thể nhận ra được cảm xúc thực của các em gái là rất thích các cậu bé.
Nhiều ví dụ cho thấy các em ở tuổi dậy thì cố phản ứng bằng những ám hiệu được hiểu ngầm với
nhau. Nhiều người lớn sử dụng xin lỗi để cải thiện một quan hệ. Họ dựa vào cơ chế tự vệ này để
sửa đổi lại cảm xúc trong một mối quan hệ – mặc dù họ không nghĩ là mình có lỗi để phải xin lỗi.
7. Cơ chế tự vệ nhập tâm hay còn được gọi là tự vệ nhận định thể hiện qua cách tin rằng
cá tính của người khác sẽ là nhân cách của mình để giải quyết những khó khăn trong
phạm trù cảm xúc.
Ví dụ một bé gái bị bỏ rơi thường chơi với búp bê và các con thú trong vài trò người mẹ để giải
tỏa lo lắng và sợ hãi. Em đóng vai người mẹ để thay thế niềm tin khao khát có một người mẹ
thương em. Hoặc chuyện các em nhỏ vẫn thích một nhân vật anh hùng nào đó từ ti vi hay từ phim
ảnh và thích bắt chước các nhân vật ấy để khẳng định nhân cách của mình. Nhiều người tin rằng
đây là một cơ chế quan trọng trong việc hình thành sườn mẫu siêu ngã (khung mẫu nhân vật lý
tưởng trong tương lai). Hoặc nhiều người vì phải đối điện với những hàng xóm có tính nết khó
khăn, đua đòi… đã phải tự trang bị cho mình những cá tính để có thể ngang bằng với hàng xóm
của họ: Đây là xu hướng ăn có hàng, ở có xóm hoặc đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy như vẫn thường thấy trong văn hóa Việt Nam. Một vài trường hợp nạn nhân của những vụ
bắt cóc không nỡ giận kẻ bắt cóc mà còn thông cảm cho họ nữa. Hoặc chuyện có người bị cướp
bắt cóc sau đó trở thành một thành viên của băng cướp ấy.
8. Cơ chế tự vệ hoài cổ là cơ chế khi một cá nhân quyết định lùi về thời gian quá khứ mỗi
khi họ đương đầu với những khó khăn trước mặt.
Ví dụ, mỗi khi gặp vấn nạn hoặc sợ hãi, hành vi của chúng ta thường muốn quay trở về não trạng
của trẻ thơ khi chúng ta không phải lo lắng gì cả. Nhiều người cần phải có những kỷ niệm thời
vàng son để có thể sinh hoạt bình thường. Có người dọn lên sống ở thành phố nhưng gặp những
thử thách nên muốn dọn về quê sống. Hoặc nhiều người có tư tưởng yếm thế, để trở thành lệ thuộc
và buông xuôi như thể họ là những trẻ em: Thông thường nhất là đôi lúc ta vẫn nghĩ lại về quá khứ
và nhận ra chúng thật đáng yêu so với hoàn cảnh hiện tại.
9. Cơ chế tự vệ lý luận hóa là khả năng nhận thức và áp dụng có tính lý luận nhằm chuyển
đổi những sự kiện có tính đe dọa trở thành dễ chấp nhận hơn.
Ví dụ, chúng ta thường bào chữa để tự thuyết phục mình trên bình diện có ý thức về những sự kiện
bất lợi xảy ra trong cuộc sống. Tuy nhiên với một số người do có cái tôi quá nhạy cảm nên họ
thường có khả năng tạo ra những biện hộ quá dễ dàng. Nói khác đi, nhiều người trong chúng ta dễ
dàng trong việc chấp nhận những biện hộ của mình. Nói một cách dễ hiểu là cơ chế tự vệ lý luận
hóa chính là sự tổng hợp của cơ chế tự vệ chối bỏ (sự thật) và cơ chế tự vệ dồn nén (né tránh điều kiện sống trước mắt) Tóm lại
Tất nhiên mọi cơ chế tự vệ đều là những lời biện hộ để thuyết phục chính bản thân mình và diễn
ra dưới phạm trù vô thức và có ý thức. Nói khác đi cơ chế tự vệ chính là cơ chế con người sử dụng
để tự nói dối với chính mình. Nhiều người trong chúng ta sử dụng những cơ chế này một cách máy
móc: Khi không có những hướng xử lý để điều tiết sự cân bằng giữa xung động vô thức và siêu
ngã, cái tôi sẽ bị kéo giãn ra vì phải quán xuyến cho cả hai thái cực kia. Nói dối vì thế tiếp tục sinh
ra nói dối và cuối cùng một cá nhân sẽ được điều kiện hóa trong tư duy và lối ứng xử của chính mình.
Tuy nhiên theo Freud thì vai trò của những cơ chế tự vệ này được coi như một bộ phận cần thiết
để duy trì đời sống. Nói khác đi theo Freud thì Cơ chế tự vệ sẽ giúp một cá nhân có thể đương đầu
với những thử thách khó khăn trong cuộc sống như một ngõ thoát hiểm cần thiết. Trong khi các
học trò của ông tin rằng một số cơ chế tự vệ có thể sử dụng theo hướng tích cực, riêng cá nhân
Freud tin rằng chỉ có một cơ chế tự vệ là có ích với con người đó là cơ chế tự vệ hoán chuyển.
10. Cơ chế tự vệ hoán chuyển là cách để một cá nhân chuyển đổi tư duy về những xung lực
sang một ngã tích cực khác.
Có thể những xung lực này là nhu cầu tính dục, giận dữ, sợ hãi, hoặc bất cứ những dạng xung lực
nào. Cơ chế tự vệ hoán chuyển chuyển tải những xung lực sang một hình thái mới dễ được chấp
nhận hơn. Ví dụ người có tính nóng thường thích theo đuổi nghề đấu võ đài, người có những khát
khao xúc cảm có thể trở thành nhà thơ, nhà văn.
Theo Freud chính nhờ cơ chế tự vệ này mà chúng ta có những bộ não siêu việt và con người đã
đột phá vào rất nhiều lĩnh vực sáng tạo khác nhau. Ngoài ra
Trắc nghiệm về phong cách phòng vệ (Defense Style Questionnaire - DSQ40) là công cụ dùng để
khảo sát kiểu phòng vệ của khách thể, cho phép nhà tâm lý lâm sàng kết luận xem khách thể có
phong cách phòng vệ trưởng thành, tâm căn hay không trưởng thành thông qua 40 mệnh đề (câu hỏi). •
Phong cách trưởng thành: Thăng hoa; Hài hước; Dự phòng; Tự kiềm chế •
Phong cách tâm căn: Hủy bỏ; Giả vị tha; Lý tưởng hóa; Tổ chức phản ứng •
Phong cách không trưởng thành: Phóng chiếu; Gây hấn bị động; Hành động; Cô lập; Tuyệt
đối hóa - làm mất giá trị; Mộng tưởng hão huyền; Chối bỏ; Chuyển di; Phân ly; Phân liệt;
Hợp lý hóa; Cơ thể/ thể chất hóa
D. Con người bệnh & Con người cân bằng
Chuyện gì xảy ra nếu bộ ba: bản năng, bản ngã và siêu ngã không có sự cân bằng?
Theo Freud, chìa khóa cho một nhân cách khỏe mạnh là sự cân bằng của bộ ba: bản năng, bản ngã và siêu ngã.
Nếu bản ngã có thể điều tiết hợp lý giữa nhu cầu thực tế, bản năng và siêu ngã thì một bản dạng
tính cách khỏe mạnh, thích ứng tốt xuất hiện. Freud tin rằng bất kỳ sự mất cân bằng nào giữa
những thành tố này cũng sẽ dẫn đến một bản dạng tính cách kém.
Mặt khác, siêu ngã chiếm thế thượng phong quá mạnh sẽ làm tính cách của chủ thể trở nên quá
đạo đức giáo điều và có thể lúc nào cũng ham chỉ trích. Chủ thể có thể khó mà chấp nhận bất kỳ
ai hay bất kỳ điều gì mà anh ta coi là “tệ” hay “vô đạo đức”.
Thế nhưng, bản ngã thống trị quá mức cũng gây ra vấn đề. Người nào có bản ngã quá lớn có thể
sống quá thực tế, đầy quy tắc và quá ‘đúng cách đúng kiểu’ đến mức không thể có hành vi nào tự
phát hoặc không nằm trong dự tính. Người này có thể quá cứng nhắc và rập khuôn, không chấp
nhận được sự thay đổi và thiếu cảm nhận nội tại về cái đúng cái sai.
Con người cân bằng
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để xác định một người có sự cân bằng hay không. Nó bao gồm cả
thể chất, trí tuệ, cảm xúc, đạo đức, nhân cách và xã hội
Trên bình diện thể chất: Con người cân bằng có một cơ thể khoẻ mạnh, một trạng thái tốt, chịu
đựng được mệt nhọc.
Trên bình diện trí tuệ: Con người cân bằng có thể suy nghĩ và hành động một cách hữu hiệu. Họ
biết những năng lực của mình và sử dụng nguồn lực đó một cách tốt nhất cho những hoạt động
sinh lợi. Họ có thể tiến tới mục đích trong một thời gian hợp lý. Họ có óc tưởng tưọng và thích đi
tìm những giải pháp khác ngoài những giải pháp truyền thống.
Trên bình diện tình dục và cảm xúc: Con người cân bằng có thể thiết lập một cách hài hoà mối
quan hệ thân tình với người khác, không quan tâm thái quá đến việc thoả mãn nhu cầu riêng của
bản thân và biết chú ý tới những nhu cầu của đối tác cùng với mình.
Trên bình diện đạo đức: Con người cân bằng luôn có khuynh hướng tin vào sự lý giải của mình
hơn những đánh giá của người khác hay của truyền thông đại chúng. Họ luôn quyết định có tuân
theo những chuẩn mực xã hội hay không một cách tự nguyện. Mặc dù học có một ý chí vững mạnh
nhưng không phải vì thế mà trở nên bướng bỉnh. Họ luôn sẵn sàng thừa nhận những sai lầm của mình.
Trên bình diện xã hội: Người cân bằng thường cảm thấy dễ chịu khi đối mặt với những người khác
và cảm giác họ được chấp nhận. Những phản ứng của họ ít khi có sự tính toàn và sự tự nhiên này
giúp họ chuẩn định được dễ dàng những phản ứng của mình đối với người đồng cấp cũng như đối
với người trên, kẻ dưới.
Trên bình diện nhân cách: Người cân bằng là một người lạc quan, yêu cuộc sống. Họ thường có
tâm trạng vui vẻ, hồn nhiên. Đó là một nhân cách chín chắn, tự chủ và thực tế, biết chấp nhận
những trách nhiệm, không từ chối trước những nguy nan.
Trên bình diện cảm xúc: Họ tương đối ổn định, không quá tự tin, không quá lo lắng, biết đương
đầu với sự không may và không biểu lộ sự thất vọng quá đáng. Nhìn chung con người cân bằng
thích đạt được những gì mình muốn bằng chính cố gắng của mình hơn là bằng những đòi hỏi hoặc
bằng những hành vi xảo trá. Hơn nữa, họ còn biết giữ gìn sự tươi tỉnh khiến họ vô tư và cảm thấy yêu mến bản thân.
Nói tóm lại: Một người cân bằng không phải là người hoàn thiện, không phải là không bao giờ
mắc sai lầm... mà là người cho phép mình sống với những sai sót của mình, với những ứng xử
không phải lúc nào cũng hoàn hảo, chấp nhận bản thân mình với cả những điểm tốt, điểm xấu,
điểm tích cực và tiêu cực như mình vốn có. Con người bệnh
Một người không cân bằng trên một bình diện nào đó, nhất là bình diện cảm xúc có thể gây
mất cân bằng trên những bình diện khác. Khi đó, ở những mức độ khác nhau, con người không có
sự ổn định về tâm trí và có thể cần đến sự trợ giúp về mặt tâm lý.
Hành vi con người được quy định bởi các xung năng vô thức (chủ yếu là các xung năng tính dục),
các ham muốn, các động lực và xung đột nội tâm. Điều này có nghĩa là, tâm lý và hành vi của con
người chủ yếu bị chi phối bởi yếu tố vô thức.
Người bệnh là những người có những xung đột nội tâm không được giải quyết được, mất cân bằng
giữa cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi hoặc những ham muốn/ nhu cầu không được thỏa mãn sẽ dồn
nén vào vô thức và có thể tạo ra những hành vi bất thường/ rối loạn. Những hành vi bất thường chỉ
là lớp vỏ bọc bên ngoài của các xung đột, ham muốn vô thức bên trong. Cá nhân luôn tìm cách
che đậy các ham muốn bản năng hoặc các xung đột nội tâm bằng cơ chế phòng vệ. Một khi các
xung đột hay ham muốn/ nhu cầu vô thức trở nên được ý thức, các rối loạn tâm lý sẽ dần mất đi.
Con người cân bằng trong trường hợp gặp khó khăn về tâm lý cũng sẽ xuất hiện những xung đột
nội tâm nhất thời, nhưng những xung đột được giải quyết khá nhanh, và điều này có được là nhờ
khả năng tư duy, tự lý giải của chủ thể. Ở con người bệnh, các xung đột kéo dài do cách tư duy
bám sâu vào thực tế, thực hành và tính logic. Họ không tách rời được thực tại để đi vào sự mơ
mộng, đi vào trí tưởng tượng của bản thân.
E. Mục tiêu trị liệu
Mục tiêu chính của phương pháp tham vấn theo Phân tâm cổ điển là mang những xung
động được dồn nén ở cấp độ vô thức là tác nhân gây ra lo âu về cấp độ ý thức. Đó là những xung
lực của Cái Ấy mà Cái Tôi đã thất bại trong việc kiểm soát nó. Theo liệu pháp này thì thân chủ có
cơ hội tiếp cận để đối phó với tình huống mà họ đã thất bại. Nhà trị liệu thiết lập một môi trường
thuận lợi và an toàn để thân chủ có thể bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ mà không bị bình
phẩm, chỉ trích, đánh giá. Trong môi trường an toàn và tự do như thế cho phép thân chủ khám phá
về những điều hợp lý và những điều bất hợp lý trong hành vi hiện tại từ đó xem xét hành vi mới.
Nói cách khác, mục tiêu tham vấn trị liệu theo Phân tâm cổ điển là •
Giúp thân chủ ý thức những vấn đề vô thức của mình •
Làm việc với những giai đoạn phát triển tâm lý tính dục mà thân chủ chưa giải quyết được. •
Giúp thân chủ học cách ứng phó và thích nghi
Tái cấu trúc lại nhân cách của thân chủ.
F. Các kỹ thuật làm việc I. Liên tưởng tự do (Free association)
Kỹ thuật thường được sử dụng trong Phân tâm cổ điển. Phương pháp suy nghĩ phi tuyến
tính, kỹ thuật cơ bản đầu tiên thường được sử dụng nhằm khám phá vô thức và giải phóng điều bị
dồn nén được gọi là liên tưởng tự do (Free association). S.Freud đã khẳng định liên tưởng tự do là
hiện tượng “tiền định”, không phải ngẫu nhiên. Công việc của nhà phân tâm là kiên trì lắng nghe
tất cả những điều bệnh nhân bộc lộ rồi lần theo những liên tưởng này tìm đến cội nguồn của chúng.
Nhà trị liệu phải nhạy cảm để có thể nhận diện ra những uẩn khúc tâm lý đáng kể được che dấu
dưới các cảm xúc hay lời nói cử chỉ.
Những gì bị dồn nén vào cấp độ vô thức luôn luôn tìm kiếm cách để trỗi dậy. Chúng được
thể hiện dưới dạng tính dục, những câu nói bông đùa hay hành vi sai lạc. Thân chủ ngồi hoặc nằm
trong tư thế thoải mái, toàn thân thư giãn để ý nghĩ của mình xuất hiện tự do và họ kể lại những
suy nghĩ vừa diễn ra, kể lại những mong muốn và những cảm giác về thể chất hoặc là hình ảnh
tâm lý khi điều đó hiện về. Thân chủ được khuyến khích thư giãn và tự do nhớ lại những cảm xúc
hay những trải nghiệm trong quá khứ.
Thân chủ được khuyến khích bộc lộ mọi ý nghĩ hoặc cảm giác, không e ngại động chạm
đến những chuyện riêng tư dù đó là những chuyện đau khổ hay không có liên quan. Những ý nghĩ
của thân chủ có thể lộn xộn nhưng những liên tưởng tự do này là toàn bộ đầu mối quan trọng cho
công việc của nhà trị liệu. Nói một cách cụ thể trong trường hợp này là Cái Ấy phải được bộc lộ,
Cái Tôi tạm thời im lặng. Ví dụ: người bệnh có thể nói “Điều này rất tốt để tôi thư giản … tôi hy
vọng mình không rơi vào giấc ngủ… tôi cảm thấy cô đơn … có cái gì đó giống như nỗi đau bên
trọng …”. Những ý nghĩ này có vẻ lộn xộn, nhưng chính những liên tưởng tự do này là đầu mối
quan trọng trong công việc trị liệu.
Thân chủ có thể sẽ chống đối bằng cách khóa chặt những suy nghĩ của họ hoặc phủ nhận
những nội dung quan trọng, đôi khi họ làm cả hai điều trên. Thông thường sự chống đối thường
có liên quan mật thiết đến những vấn đề chưa được giải quyết trong các mối quan hệ trước đó.
Tham vấn viên có thể nhắc lại cho thân chủ biết việc tập trung vào những những ý nghĩ, những
cảm xúc mà thân chủ cho là quan trọng là rất cần thiết. Nhiều lần như thế sẽ giúp thân chủ vượt
qua được sự chống đối.
Công việc của nhà trị liệu là kiên trì lắng nghe tất cả những gì thân chủ bộc lộ rồi lần theo
những liên tưởng này tìm đến cội nguồn của chúng. Tham vấn viên phải nhạy cảm để có thể nhận
ra những uẩn khúc tâm lý đang được che dấu dưới các cảm xúc, lời nói hay cử chỉ của thân chủ.
Thân chủ được khuyến khích bộc lộ những cảm giác mạnh (thông thường hướng tới những
người có quyền lực) bị dồn nén vì sợ bị phạt hoặc sợ bị trả thù. Bất cứ một bộc lộ nào của thân chủ
đều được xem là một sự xả trừ hay giải toả. Điều này khích lệ thân chủ dám đương đầu và trò
chuyện cởi mở về những cảm xúc bị dồn nén mạnh để thiết lập lại cảm xúc lành mạnh và nhờ đó
mà vấn đề của thân chủ được giải quyết. II. Phân tích sự chống đối
Kỹ thuật giúp nhà trị liệu bẻ gãy được sự chống đối của người bệnh và giúp người bệnh có
thể đối mặt trực tiếp với những ký ức, cảm xúc bị dồn nén. Trong quá trình liên tưởng tự do, thỉnh
thoảng thân chủ sẽ bộc lộ sự chống đối. Có thể là thân chủ không thể hoặc không sẵn sàng để thảo
luận một ý nghĩ, mong muốn hoặc trải nghiệm nào đó. Sự chống đối ngăn cản không cho những
xung đột bị dồn nén trong vô thức quay trở lại ý thức. Điều này thường liên quan đến cảm giác
khoái cảm về tình dục của cá nhân hoặc liên quan đến cảm giác thù địch phẫn uất với bố mẹ. Thân
chủ có thể biểu thị sự chống đối bằng nhiều cách. Thân chủ có thể đến trễ hoặc quên buổi tham
vấn, phàn nàn rằng điều này không quan trọng, vô lý, không thích hợp không thoải mái để bàn luận.
Tham vấn viên cần nhạy cảm với những vấn đề chống đối. Khi thân chủ biểu lộ sự chống
đối thì tham vấn viên cần tập trung chú ý đặc biệt vào những vấn đề đã kích thích sự chống đối.
Vì thế, tham vấn viên phải coi những chủ đề mà thân chủ không muốn thảo luận có tầm quan trọng
đặc biệt. Khuyến khích thân chủ và thiết lập mối quan hệ thật sự tin tưởng với thân chủ là những
việc mà tham vấn viên có thể làm để phá vỡ sự chống đối. Bẻ gãy sự chống đối là một công việc
lâu dài và khó khăn nhưng được xem là vấn đề cần thiết và quan trọng để đem toàn thể vấn đề vào
ý thức (nơi giải quyết) III.
Phân tích giấc mơ (Dream analysis)
Giải mã giấc mơ là kỹ thuật xem xét, đánh giá nội dung của giấc mơ của một người nhầm
phát hiện những động cơ vô thức, tượng trưng hay trá hình và ý nghĩa của những mong muốn và
những trải nghiệm quan trọng trong cuộc sống.
Sigmund Freud chính thức biến việc phân tích giấc mơ thành một kỹ thuật quan trọng của
Phân tâm khi ông xuất bản cuốn sách “Diễn giải giấc mơ” vào năm 1900. Theo Freud, giấc mơ có
chức năng chính là bảo vệ giấc ngủ và dùng làm nguồn thỏa mãn mong muốn. Giấc mơ bảo vệ
giấc ngủ bằng cách làm giảm nhẹ căng thẳng của trí óc do những tác động lúc ban ngày gây ra và
giải tỏa stress bằng cách cho người nằm mơ hành động theo những ham muốn vô thức.
Theo các nhà Phân tâm, giấc mơ là nguồn gốc quan trọng chứa đựng thông tin về những
động cơ vô thức của thân chủ. Khi con người ngủ, Cái Siêu Tôi (Super Ego) sẽ yếu đi trong việc
kiểm duyệt, những xung đột không thể chấp nhận được có nguồn gốc trong vô thức. Vì vậy những
động cơ không thể bộc lộ trong khi thức, lại có thể được biểu hiện trong giấc mơ. Nhà trị liệu có
thể sử dụng phương pháp phân tích giấc mơ để hiểu và xử lý những vấn đề của người bệnh.
Theo quan điểm phân tâm, các giấc mơ có 2 hình thức về nội dung: nội dung bộc lộ rõ rệt
(có thể chiêm nghiệm được) và nội dung tiềm ẩn (mang tính che giấu). Nội dung rõ rệt là điều ta
nhớ lại khi thức, nội dung tiềm ẩn bao gồm những động cơ hiện tại đang tìm kiếm sự bộc lộ, nhưng
chúng làm ta quá đau khổ và không thể chấp nhận được, hoặc ta không muốn thừa nhận chúng.
Nhà trị liệu cố gắng làm bộc lộ những động cơ bị che giấu này bằng cách sử dụng kỹ thuật phân tích giấc mơ. IV.
Phân tích chuyển dịch và chuyển dịch ngược
Trong quá trình tham vấn theo phương pháp phân tâm, thân chủ luôn xuất hiện những phản
ứng về mặt cảm xúc đối với nhà trị liệu. Đồng nhất hình ảnh của nhà trị liệu với người nào đó là
trung tâm của những xung đột trong quá khứ (người đó thường là cha mẹ hoặc người tình).
Phản ứng xúc cảm này là sự chuyển dịch, chuyển dịch tích cực xảy ra khi cảm giác liên hệ
mật thiết với nhà trị liệu là những tình cảm yêu thương và sự kính phục. Chuyển dịch tiêu cực xảy
ra khi thân chủ có cảm xúc thù địch hoặc đố kỵ hướng đến tham vấn viên. Nhiều trường hợp thái
độ của thân chủ là 2 chiều lẫn lộn, cả những tình cảm tích cực và tiêu cực.
Việc điều chỉnh chuyển dịch là rất khó khăn và có thể nguy hiểm do tính dễ bị tổn thương
về cảm xúc của thân chủ. Tuy nhiên đây là công việc quyết định của nhà trị liệu là giúp thân chủ
“phiên dịch” những tình cảm chuyển dịch hiện có bằng cách tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của chúng
ở những trải nghiệm thời thơ ấu.
Chuyển dịch ngược (Counter Tranferance) liên quan đến cái gì xảy ra khi tham vấn viên
thích hay không thích thân chủ. Thông qua chuyển dịch ngược, tham vấn viên phát hiện những
động cơ vô thức của mình. Do những xúc cảm của tương tác qua lại trong tiến trình tham vấn và
tính dễ bị tổn thương của thân chủ, tham vấn viên phải cảnh giác để không bước qua ranh giới giữa
công việc của nhà chuyên môn và những vấn đề riêng tư, cá nhân của thân chủ.
Hiện tượng chuyển dịch tương đối khá phức tạp. Thân chủ thể hiện cảm xúc trực tiếp hướng
về tham vấn viên, khi đó tham vấn viên được xem là người gây ra cảm xúc đó của thân chủ. Tiến
trình này có thể làm cho thân chủ tiếp cận với xung đột của bản thân mình. V. Diễn giải
Diễn giải là kỹ thuật nhằm từng bước đưa thân chủ quay về với thế giới hiện thực. Nhà trị
liệu có thể sử dụng kỹ thuật diễn giải từ kết quả của quá trình liên tưởng tự do, phân tích giấc mơ
và chuyển dịch của thân chủ.
Thông qua diễn giải, nhà trị liệu giúp thân chủ hiểu được ý nghĩa của những sự kiện trong
quá khứ và những vấn đề khó khăn hiện tại của thân chủ. Kỹ thuật này còn bao hàm cả sự giải
thích và phân tích những ý nghĩ, cảm xúc và hành vi của thân chủ.
Tuy nhiên, tham vấn viên phải cẩn thận khi sử dụng kỹ thuật diễn giải. Nếu sử dụng quá
sớm trong mối quan hệ tham vấn thì thân chủ có thể bỏ ngang tiến trình tham vấn.
Ngược lại nếu diễn giải không được sử dụng hoặc sử dụng không thường xuyên thì thân
chủ sẽ thất bại trong việc ý thức hóa cái vô thức. Chỉ khi nào thân chủ sẵn sàng mới có thể dùng
kỹ thuật này và nó sẽ giúp thân chủ trưởng thành hơn và vượt qua khó khăn của mình. PHẦN 2:
Con người cân bằng & con người bệnh
Mất cân bằng giữa cái ấy cái tôi cái siêu tô
Thân chủ: liên tưởng tự do
Nhà phân tâm: diễn giải
Nhà phân tâm sử dụng liên tưởng tự do để diễn giải giấc mơ Diển
giải >< phân tích giấc mơ?
Sự chống đối từ cái tôi? Từ các cơ chế tự vệ? –> sự chống đối đến từ vô thức
Phân tích giấc mơ lồng ghép với liên tưởng tự do
Dựa vào giấc mơ của thân chủ -> note lại các từ khóa quan trọng -> hỏi lại về các từ khóa
1. Con người cân bằng (sự cân bằng giữa bộ 3)
Con người bệnh (sự mất cân bằng giữa bộ 3 -> sự lo âu (lo âu nhiễu tâm (super ego >>> id); lo âu
thực tế; lo âu lương tâm -> cắn rứt lương tâm), dồn nén vào cái vô thức, cắm chốt, giai đoạn đầu -
> trải nghiệm bất lợi thời ấu)
2. Lấy vd về sự chống đối của thân chủ (cơ chế tự vệ vô thức) -> cách làm việc với sự chống đối
Chống đối (sự kháng cự, không đồng thuận) >< né tránh (ko phủ nhận nhưng lo sợ khi đụng vào chủ đề)
Ý nghĩa của hành vi chống đối là gì? -> sợ hãi, không đồng tình, sự giận dữ, dồn chứa,…
Tạo không gian để nói ra thành lời
Thân chủ lãng tránh khi nói về một chủ đề nào đó (phủ định rối loạn của bản thân) ->
3. Cấu trúc của giấc mơ bao gồm mấy phần? Thông điệp hữu ích nhất ở đâu? Các kĩ thuật làm vềgiấc mơ?
“Nội dung biểu hiện” và “ý tưởng tiềm ẩn”, biểu hiện -> biết được, truyền thông điệp, ý tưởng tiềm ẩn -> Liên tưởng tự do
Giấc mơ mang tính chât biểu tượng, vô tri -> ghi chép giấc mơ
Tính chất giải mã & tính chất tiên đoán (đồng hiện)
4. Ví dụ về chuyển dịch và chuyển dịch ngược. Làm thế nào để nhà lâm sàng quan sát và nhậnbiết
được sự chuyển dịch & chuyển dịch ngược?
Chuyển dịch: “Tôi cảm thấy anh/chị giống như người thân của tôi..” -> kích động Chuyển dịch tích cực: Chuyển dịch tiêu cực:
Chuyển dịch ngược: “Nhà lâm sàng kì vọng vô thức vào…” -> soi chiếu ca lâm sàng đó -> so sánh
với các phiên trước -> cảm xúc, hành vi, kì vọng
Liên tưởng tự do, diễn giải
Về cơ bản con người là một động vật ích kỉ, bị điều khiển, bị thúc giục bởi những ham muốn dữ
dội và những khao khát khoái cảm tình dục.
Kĩ thuật chính: chuyển dịch & chuyển dịch ngược
II. Thân chủ trọng tâm – Carl Rogers
* Lịch sử cuộc đời Carl Rogers:
- Gia đình tôn giáo nghiêm khắc, khá cô đơn, khép kín, cảm giác hư hỏng khi uống coca -
2 lần hẹn hò với bạn gái
-12t - chuyển nhà về nông thôn để tránh xa thành thị, suốt ngày đọc sách
-14t - đọc sách “” và quan sát con mối
- 18t - ĐH nông nghiệp/chuyển sang ĐH lịch sử - không chân thật -> chuyển sang thầnhọc
- 20t - dị biệt tôn giáo - TỰ GIẢI PHÓNG RA KHỎI NIỀM TIN TÔN GIÁO CỦA
GIAĐÌNH - Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI - Học viện Thần học/cứng-giáo điều
- 22t - đề nghị tổ chức hội thảo về tự do tôn giáo - ý nghĩa cuộc sống/tiếp nhận ca và
thấtbại khi nói cho bà mẹ chuyển ca - lý do từ cậu bé
- TRẢI NGHIỆM VÀ CẢM NHẬN
- Khuyến khích tự do tìm tòi chân lý - Yêu thích TLH lâm sàng
* Mục tiêu trị liệu:
- Tạo bầu không khí tâm lý an toàn, tin cậy đối với thân chủ; Tạo ra mqh mẫu.
Diễn trình sống tràn đầy + Thành thật - Thân chủ: + Nhiệt tình
+ Là người bình thường
+ Thiết tha muốn trợ giúp + Đang gặp khó khăn + Có chuyên môn + Rất lo lắng + Quan tâm tích cực - Nhà tham vấn: + Vô điều kiện + Đồng cảm
* Con người bệnh:
Khi cá nhân hoàn bất lực và cơ chế tự về trở thành quá tải => có triệu chứng thần kinh,
hành vi khác thường: Nói chuyện kém thuyết phục, cảm xúc rất ngổn ngang, đánh mất đi khả năng
phân biệt giữa khái niệm bản thân và không thuộc về bản thân => Họ trở nên mất cân bằng và trở thành bối rối
* Con người cân bằng: * Câu hỏi:
1. Trong tiến trình lớn lên của một con người (một đứa trẻ), điều gì khiến cho
bạn che dấuphần con người của bạn?
- Những điều được dạy, những kỳ vọng của xã hội gia đình, niềm tin tôn giáo tín ngưỡng từ cha mẹ (super ego).
2. Điều gì khiến họ không chấp nhận bản thân họ (Cái tôi hiện thực)? Điều gì
khiến họmuốn vươn tới sự hoàn hảo (Cái tôi lý tưởng)?
- Không được mọi người, những người xung quanh chấp nhận toàn vẹn bản thân -> không
chấp nhận những góc khuất, thiếu hụt của bản thân, luôn phê phán bản thân => vươn tới cái tôi hoàn hảo.
Cái tôi hiện thực >< cái tôi lý tưởng
Khoảng cách giữa cái tôi thực sự và cái tôi lý tưởng được xác định như khoảng cách giữa
“tôi là” và “tôi phải nên là”.
Khoảng cách càng lớn, trạng thái lệch càng cao - sự đau khổ càng lớn. Có thể dẫn đến bệnh
thần kinh khi thực tế không phù hợp với chúng ta nữa. III. Nhận thức
1. Mô hình ABC và 12 niềm tin phi lý của Albert Ellis
Mô hình ABC là một trong những phần chính của nền tảng kiến thức của trị liệu cảm xúc
hành vi hợp lý (Rational emotive behaviour therapy - REBT) được Albert Ellis phát triển vào
những năm 1950. Theo ông, con người là tác giả của cảm xúc của bản thân và cần chịu trách nhiệm
về cảm xúc của mình. Chính con người xây dựng các giả định về bản thân mình, về người khác và
thế giới xung quanh để hình thành nên mục đích và ý nghĩa về sự tồn tại của mình.
Mô hình ABC được dùng để thay đổi niềm tin phi lý thành niềm tin hợp lý, nhờ đó thúc
đẩy các phản ứng lành mạnh hơn của thân chủ đối với các tình huống. Ý tưởng đằng sau mô hình
ABC là một người không nhất thiết phải thay đổi môi trường của họ để cảm thấy tốt hơn; thay vào
đó, họ có thể thừa nhận và thay đổi phản ứng của mình với môi trường. •
A - Activating events: Sự kiện kích hoạt •
B - Beliefs/evaluations: Niềm tin/đánh giá • C - Consequences: Hậu quả
A là các sự xảy ra ở bên ngoài hay bên trong thân chủ hoặc những suy luận về sự kiện của
thân chủ. C là hậu quả hoặc phản ứng về cảm xúc và hành vi của cá nhân; phản ứng có thể lành
mạnh hoặc không lành mạnh. A (sự kiện kích hoạt) không gây ra C (hậu quả về mặt cảm xúc).
Thay vào đó là B, niềm tin của một người về sự kiện (A) là cái tạo ra C, những phản ứng cảm xúc.
Chúng ta có thể hình dung sự tương tác giữa các yếu tố A, B, C thông qua ví dụ sau đây:
Sự kiện thúc đẩy là thi đại học, niềm tin của thân chủ là tôi học kém, tôi không có khả năng
đậu đại học. Niềm tin của thân chủ về sự kiện thi đại học khiến thân chủ không có những hành
động tích cực như chăm chỉ đọc bài, nghe giảng,... và kết quả là thân chủ thất bại hoặc có những
hành vi ứng xử không phù hợp (đi chùa cầu may, tự sát,...).
Ellis cho rằng, rất ít khi do bản thân sự kiện hay tình huống (A) gây ra hậu quả stress (C)
mà chủ yếu là do niềm tin về sự kiện (B) gây ra. Các rối loạn tâm lý có nguồn gốc từ các niềm tin
phi lý (irrational beliefs) và thường được củng cố bởi những gì mà thân chủ chọn lọc (thường là
tiêu cực) phù hợp với niềm tin của họ từ các sự kiện xảy ra liên tiếp tạo thành một vòng xoáy nhiều tầng nhiều lớp.
2. 12 niềm tin phi lý của Albert Ellis 1.
Cho rằng một người trưởng thành cần phải được hầu hết mọi người trong cộng
đồngcủa mình yêu thương hoặc chấp thuận. 2.
Cho rằng một người xứng đáng được ngưỡng mộ phải có năng lực, có sự đủ đầy
vàthành công trong mọi khía cạnh. 3.
Cho rằng một số người là xấu, độc ác hoặc xấu xa và họ phải bị trừng phạt
nghiêmkhắc vì hành vi xấu xa của mình. 4.
Cho rằng thật khủng khiếp và thảm khốc khi mọi thứ không như người ta mong muốn. 5.
Cho rằng sự bất hạnh của con người là do bên ngoài gây ra và con người có rất
íthoặc không có khả năng kiểm soát nỗi buồn và sự hỗn loạn của mình. 6.
Cho rằng nếu có điều gì đó nguy hiểm hoặc đáng sợ diễn ra thì người ta nên cực
kỳquan tâm đến nó và nên tiếp tục suy nghĩ về khả năng xảy ra của nó. 7.
Cho rằng trốn tránh thì dễ hơn là đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống
vàtrách nhiệm với bản thân. 8.
Cho rằng một người nên phụ thuộc vào người khác và cần một người mạnh mẽ
hơnmình để dựa vào. 9.
Cho rằng quá khứ của một người là yếu tố quyết định hết sức quan trọng đến hành
vihiện tại của một người và bởi vì điều đó đã từng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của một
người nên nó sẽ có tác động tương tự trong tương lai. 10.
Cho rằng một người sẽ trở nên khó chịu trước những vấn đề và sự xáo trộn củangười khác. 11.
Cho rằng luôn có một giải pháp đúng đắn, chính xác và hoàn hảo nhất cho các
vấnđề của con người và sẽ thật kinh khủng nếu không tìm ra giải pháp hoàn hảo này. 12.
Cho rằng bạn có thể cho mọi người (bao gồm cả chính bạn) đánh giá con người
vàgiá trị của họ phụ thuộc vào mức độ hoàn thành trong công việc của họ.
3. Bộ 3 niềm tin và khuôn mẫu nhận thức của Aaron Beck 3.1. Bộ 3 niềm tin
Niềm tin cốt lõi được định nghĩa là niềm tin cơ bản, không linh hoạt, tuyệt đối và khái quát
mà mọi người có về bản thân, người khác, thế giới và/hoặc tương lai (J. S. Beck, 2011; K. S.
Dobson, 2012). Khi một niềm tin cốt lõi không chính xác, vô ích và/hoặc mang tính phán xét (ví
dụ: "Tôi vô dụng"), nó có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức về bản thân, ý thức về năng lực bản
thân dẫn đến dễ bị rối loạn tâm trạng của một người. Niềm tin cốt lõi khó được khơi gợi và sửa
đổi hơn nhiều trong các buổi trị liệu nhận thức so với những suy nghĩ tự động theo tình huống.
Chúng thường phát triển từ những thông điệp nhận được, theo thời gian, trong những năm tháng
lớn lên của một người, thường là trong thời thơ ấu nhưng đôi khi - trong những thời điểm căng
thẳng đáng kể ở tuổi trưởng thành. Việc xác định con đường phát triển niềm tin cốt lõi có thể cung
cấp nhiều điểm để can thiệp và đánh giá. Điều quan trọng là phải hiểu vị trí của cấu trúc niềm tin
cốt lõi theo lý thuyết nhận thức, vì kiến thức này sẽ giúp các bác sĩ lâm sàng hiểu và trình bày rõ
ràng với bệnh nhân của họ về cơ chế thay đổi mà họ mong đợi tác dụng trị liệu dựa trên niềm tin
cốt lõi sẽ phát huy tác dụng mong muốn.
Niềm tin trung gian: được định nghĩa là các quy tắc, thái độ và giả định có điều kiện, thường
không được nhắc tới, đóng một vai trò lớn trong cách thức mà mọi người sống cuộc sống của họ
và phản ứng với những thách thức và căng thẳng của cuộc sống. Trong nhiều trường hợp, chúng
được diễn đạt dưới dạng câu lệnh có điều kiện "nếu-thì" quy định một số quy tắc nhất định phải
được đáp ứng để một người có thể bảo vệ mình khỏi một niềm tin cốt lõi đau đớn. Ví dụ: một
người có niềm tin cốt lõi "Tôi là kẻ thất bại" có thể sống theo quy tắc "Nếu tôi đạt được tất cả điểm
A thì tôi thành công", được xem là niềm tin tích cực trung gian vì nó chỉ ra con đường hướng tới
một kết quả tích cực. Tuy nhiên, người đó cũng có thể sống với niềm tin tiêu cực ở mức độ trung
gian, “Nếu tôi đạt được điểm nào thấp hơn điểm A thì tôi là kẻ thất bại”.