/72
lOMoARcPSD| 61622044
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
+Vật chất:
-Định nghĩa: Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Định nghĩa vật chất
của nin nội dung cụ thnhư sau: Vật chất phạm trù triết hc
dùng để chthc tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Vật chất với cách phạm trù triết học dùng chvật chất nói chung, vô
hạn, tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối ợng, các dạng vật
chất khoa học cụ thnghiên cứu đều giới hạn, sinh ra mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vt
thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật
chất như các nduy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm. Thhai
trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính thuộc nh khách quan. Tựu chung lại có thể thy nội dung cơ bản
vật chất theo quan điểm của Lenin là:
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào
ý thức, bất ksự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận
thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián ếp hoặc trực ếp tác
động lên giác quan của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin kết quả của việc tổng kết từ
những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy
tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy
có những nội dung được đề cập như sau:
Thông thường chúng ta nhắc đến hình dung về vật chất như một vt
dụng, một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật
chất của Lênin kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc
nh, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh
cái chung, hạn, tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không th
đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc nh cơ
bản của vật chất, êu chuẩn để phân biệt cái vật chất, cái không
lOMoARcPSD| 61622044
phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được
vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó
trực ếp hay gián ếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức
phản ánh.
Phát hiện vật chất có trước và ý thức sau. Vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Ý thức con ngưi
là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng
nhận thức thế giới.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về
phạm trù vật chất với sự phát hiện cật chất trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức là nguồn gốc khách quan của cm
giác.
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác
Định nghĩa vật chất của Nin bác bquan điểm của CNDV
tầm thường về vật chất, coi ý thức là một dạng vật chất.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã liên kết CNDV biện chứng vi
CNDV lịch sử thành một thể thống nhất (vật chất trong TN, vật chất
trong hội đều những dạng cụ thcủa vật chất thôi, đều
thực tại khách quan). Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin
những ý nghĩa sau:
Bằng việc chỉ ra thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất thuộc tính
tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau
căn bản giữa phạm trù vật chất với cách phạm trù triết học, khoa
học chuyên ngành, tđó khắc phục được hạn chế trong các quan
niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn ckhoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất, -nin đã giải quyết triệt để vấn đề bản
của triết học đó vật chất cái trước, ý thức cái sau, vt
chất quyết định ý thức. Đó con người có thể nhận thức được thế
giới khách quan thông qua schép lại, chụp lại, phản ánh của con
người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã
tạo sở nền tảng, tiền đđxây dựng quan niệm duy vật về
hội. -Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:
lOMoARcPSD| 61622044
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian, thời gian.
Theo quan điểm của chnghĩa duy vật biện chứng, vận động không ch
sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của
vật chất) theo nghĩa chung nhất, vận động mọi sự biến đổi. Theo Triết
học Mác – -nin vận động là mọi sự biến đổi (biến hóa) nói chung của các
sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên đời sống hội. Bất kỳ sự vt
hiện tượng nào cũng luôn luôn vận động. Bằng vận động và thông qua vận
động mà sự vật hiện tượng tồn tại thể hiện đặc nh của mình. Vận động
là thuộc nh vốn có, là phương thức tồn tại của các sự vật và hiện tượng.
Thhai phương thức tồn tại của vật chất qua không gian thời gian.
Mọi dạng cụ thcủa vật chất đều tồn tại một vị trí nhất định, một
quảng nh (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các
mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên
trái, v.v.) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy
được gọi không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hin
quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế ếp chuyển hóa, v.v.. Những
hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất,
phương thức tồn tại của vật chất. Không một dạng vật chất nào tồn
tại bên ngoài không gian thời gian. Ngược lại, cũng không ththời
gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
hình thức tồn tại của vật chất, không gian thời gian tồn tại khách quan,
bị vật chất quy định; trong đó, không gian ba chiều: chiều cao, chiều
rộng, chiều dài; thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai.
Tính thống nhất vật chất của thế giới được các nhà triết học hủ nghĩa
duy vật biện chứng đưa ra như sau:
Một là trong thế giới chỉ một thế giới duy nhất thống nhất là thế
giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, trước độc
lập với ý thức con người.
Hai mọi bộ phận của thế giới vật chất đều mối liên hệ thống
nht với nhau, biểu hiện chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của
vật chất, những kết cấu vật chất, hoặc nguồn gốc vật chất, do
vật chất sinh ra cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách
quan phổ biến của thế giới vật chất.
lOMoARcPSD| 61622044
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, hạn tận, không được
sinh ra và không bmất đi. Trong thế giới không khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau,
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi khoa học bởi chính
cuộc sống hiện thực của con người.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật
biện chứng có cơ sở khẳng định rằng các svật, hiện tượng đều cùng
bản chất vật chất, thế giới thống nhất tính vật chất. Cụ thkhoa học
hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất và đã phân chia ra các
dạng vật chất khác nhau, trong đó:
Trong giới tnhiên vô sinh hai dạng vật chất cơ bản chất và trường.
Chất cái gián đoạn được tạo ra từ các hạt, khối lượng, cấu
trúc thứ bậc từ nguyên tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn.
Còn trường môi trường vật chất liên tục, không khối lượng tĩnh.
Trường làm cho c hạt của nguyên tử liên kết với nhau, tác động với
nhau và nhờ đó mà tồn tại được.
Ranh giới giữa chất và trường là tương đối, có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự phát hiện ra dạng chất và trường của vật chất sự chuyển hóa của
chúng càng chứng tỏ không không gian không vật chất, không
vật chất dưới dạng này thì lại vật chất dưới dạng khác, không thể
thế giới không phải vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất.
cũng không chỉ hình dung thế giới vật chất gồm quả đất, hệ mặt trời,
hay một số thiên mà phải là toàn bộ các quá trình tchức vật chất từ
các hệ thống thiên hà đến các vật thể vi mô.
Tựu chung lại có thể thy bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống
nht tính vật chất. Thế giới vật chất nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng
tận với số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. -Ví dụ vật chất:
+ Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện
ngầm…
+ Các vật dụng trong gia đình như: Bàn ghế, điều hòa, giường tủ…
+ Các vật phục vụ cho công việc của con người như: máy tính, điện
thoại, máy in…
+ Chnghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái trước, ý
thức cái sau, vật chất nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
Chúng ta thlấy 1 dnhư sau: Đối với những đứa trẻ sinh điều kiện
học tập bằng các phương ện như máy chiếu, y nh bảng… thì những
đứa trẻ này có nhiều kiến thức và hiểu biết hơn, còn những đứa trẻ sinh ta
lOMoARcPSD| 61622044
trong hoàn cảnh điều kiện còn thiếu thốn nhiều về vật chất thì sẽ hạn chế
hơn.
+Ý thức:
-Định nghĩa: Ý thức sphản ánh năng động, sáng tạo thế gii
khách quan vào đầu óc con người, hình ảnh chủ quan của thế gii
khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh thần
của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm, những trạng
thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý cniềm tin, ... của con ngưi
trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự
nhiên và lịch s- xã hội, kết quả của quá trình phản ánh thế gii
khách quan vào trong đầu óc của con ngưi.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin một phạm trù
được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sphn
ánh thế giới vật chất khách quan vào bóc con người scải
biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chức vi vật chất.
Theo tâm học được định nghĩa hình thức phản ánh tâm cao
nhất chỉ có con người. Ý thức sự phản ánh bằng ngôn ngữ
những con người đã tiếp thu trong quá trình quan hqua lại vi
thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức một hiện tượng tâm lý hội kết cấu phức tạp
bao gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức quan
trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. -Nguồn gốc:
.Nguồn gốc tự nhiên: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hin
qua sự hình thành của bộ óc con người hoạt động của bóc đó
cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong
đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức thuộc tính của một dạng vật chất tchức cao bóc
người, chức năng của bộ óc, kết quả hoạt động sinh thần kinh
của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
óc càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú sâu
sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là
quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của duy ti sao
đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của
con người không bình thường do bị tổn thương bóc. Về mối quan
hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
lOMoARcPSD| 61622044
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế gii khách
quan quan hệ tất yếu ngay tkhi con người xuất hiện. Trong mối
quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác
quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phn
ánh.
Phản ánh sự i tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất chịu sự tác động bao
gicũng mang thông tin của dạng vật chất tác động. Những đặc
điểm mang thông tin ấy được gọi cái phản ánh. Cái phản ánh
cái được phản ánh không tách rời nhau những không đồng nhất vi
nhau. Cái được phản ánh những dạng cụ thcủa vật chất, còn cái
phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó
(cái được phản ánh) một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận
sự tác động).
Phản ánh thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh
được thể hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức này ơng
ứng với quá trình tiến hóa vật chất.
.Nguồn gốc xã hội: Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người
là sự khác biệt về chất so với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã
hội, sra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành phát trin
của bộ óc người i ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp các quan
hệ xã hội.
Lao động quá trình con người sử dụng ng ctác động vào thế
giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu
của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò
môi giới, điều tiết strao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Đây cũng qtrình làm thay đổi cấu trúc thể, đem lại dáng đi
thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển kquan, phát
triển bnão, ... của con người. Trong quá trình lao động, con người
tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của
nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định con người
thquan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của
các giác quan, tác động vào bóc người, thông qua hoạt động của
lOMoARcPSD| 61622044
bộ não người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hot động cải tạo thế gii
khách quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang ni
dung ý thức. Không ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại thể
hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đu
đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động
nảy sinh họ nhu cầu phải phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này
làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động.
Nhngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi còn
khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyn
đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời
phát triển của ý thức lao động. Sau lao động đồng thời với
lao động ngôn ngữ, đó hai chất kích thích chyếu m cho bộ
óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm
động vật dần chuyển hóa thành ý thức.
-Bản chất của ý thức: Ý thức sự phản ánh năng động, sáng tạo
thế giới khách quan vào bóc con người, là hình ảnh chủ quan ca
thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hin
khnăng hoạt động tâm - sinh của con người trong việc định
ớng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ
thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có thể tạo ra những
thông tin mới phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính
chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hin
quá trình con người tạo ra những giả ởng, giả thuyết, huyền
thoại, ... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất,
quy luật khách quan, xây dựng các hình ởng, tri thức trong
các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị
thế giới khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện
nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan đã ci
biến thông qua lăng kính chquan của con người. Theo Mác thì ý
lOMoARcPSD| 61622044
thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật
hội, do nhu cầu giao tiếp hội các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại
hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Theo triết học duy m quan niệm: Ý thức một thực thể độc lập,
thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến
mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải sự phản ánh của
vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách
quan ý thức sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng dựa trên sở luận phản ánh: về bản chất, coi ý thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức hình nh chủ quan của thế gii
khách quan”.
-Kết cấu của ý thức: Ý thức kết cấu cực kỳ phức tạp. nhiều
ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý
thức. đây chtiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố bản
nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu
tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân
tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn thể bao gồm các yếu tố
khác.
Tri thức toàn bộ những hiểu biết của con người, kết quả của quá
trình nhận thức, sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận
thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức
phương thức tồn tại của ý thức điều kiện để ý thức phát triển. theo
Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn
tại đối với ý thức là tri thức”.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
ợng đó trong các quan hhình thành nên các loại tình cảm khác
nhau, như tình cảm đạo đức, nh cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,… Ý
chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để ợt qua những cản trở
lOMoARcPSD| 61622044
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi mặt
năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn đó
con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thc hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. thể coi ý chí
quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi
để con người hướng đến mục đích một cách tgiác; cho phép con
người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân quyết đoán trong hành động
theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không
chth hin ờng độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hin ở nội
dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là
một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải
phóng nhân loại.
Tất ccác yếu tố tạo thành ý thức mối quan hệ biện chứng với nhau
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức
độ biểu hiện của các yếu tố khác.
-Ví dụ ý thức:
Khi con người tham gia vào quá trình lao động sản xuất thì thay như
giai đoạn trước con người sử dụng cày cuốc để cày ruộng, đào
mương, xây cầu, làm đường,… thì ngày nay, con người đã ý thức
được việc tăng năng suất lao động bằng việt đưa máy móc vào hoạt
động để tạo ra năng suất công việc như mình mong mun. +Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức:
-Định nghĩa: Mối quan hệ gia vật chất ý thức mối quan hệ
biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức quyết định ý thức nhưng không thụ động
thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất một phạm trù triết học để chthực tại khách
quan, đem đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại không tồn tại lệ thuộc
vào cảm giác. -Mối quan hệ:
Thnhất: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất có vai trò quyết
định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức sản phẩm của một dạng vật chất tổ chức cao bóc
người nên chỉ khi con người mới ý thức. Trong mối quan hệ
lOMoARcPSD| 61622044
giữa con người với thế giới vật chất thì con người kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, sản phẩm của thế gii
vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức
lâu dài của khoa học về giới tnhiên; một bằng chứng khoa
học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý
thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra
các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc chính bn
thân thế gii vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn
tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế
giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Sự vận động phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức
bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nội dung còn quyết định cả
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
ý thức ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức
nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người
phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của
con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phi
trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan, trên sấy con người xác
định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thc hiện
mục tiêu của mình. đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai ớng:
tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, tri thc
khoa học, tình cảm cách mạng, nghị lực, ý cthì hành động
của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người
lOMoARcPSD| 61622044
năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục
đích của mình, thế giới được cải tạo đó stác động tích cực cúa
ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hin
thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay tđầu,
ớng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động ấy sẽ tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định ớng cho hoạt động của con người, ý thức
có thế quyết định nh động của con người, hoạt động thực tiễn của
con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quhay không
hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò
của vật chất, của ý thức thể thấy: vật chất nguồn gốc của ý
thức, quyết định nội dung khnăng sáng tạo ý thức; là điều kiện
tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở
lại vật chất, stác động ấy không phải tự thân phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh
của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành
động, trình độ tổ chức của con người những điều kiện vật chất,
hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng
của ý thức.
-Ví dụ vật chất ý thức:
dụ như trong ca dao tục ngữ của Việt Nam câu "Có thực mới
vực được đạo" - Nghĩa vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của
con người. Bộ não của con người sẽ có trách nhiệm phản ánh những
hiện thực cuộc sống một cách thụ th. Từ mối quan hệ vật chất và ý
thức thì con người sẽ biết xử hành động cho đúng chuẩn mực.
Bên cạnh đó việc ý thức của con người quyết định vật chất còn được
thhiện trong việc lựa chọn vật chất, ví dụ như khi con người có
một nhu cầu sử dụng vật chất thì sẽ lựa chọn vật chất phù hợp với
nhu cầu của mình, như con người muốn mua một chiếc xe đtải
hàng hoá đi bán thì sẽ lựa chọn mua một chiếc xe tải thay lựa chọn
một chiếc xe oto con,..
-Liên hệ bản thân với mối quan hệ vật chất và ý thức:
lOMoARcPSD| 61622044
Thnht: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan nh
ởng đến cuộc sống hàng ngày, vật chất quyết định ý thức nên
con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc sống còn
thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Thhai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động
hàng ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi
chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thba: Cần phải tiếp thu chọn lọc kiến thức mới không chủ
quan trong mọi tình huống.
Thtư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất
lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan điều kiện khách quan. nghĩa
mối quan hệ vật chất và ý thức:
- Phải biết dựa vào những quy luật khách quan để thể xác
định đúng đắn mục tiêu, kế hoạch, biết tìm vận dụng phương pháp
tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra một cách tối
ưu.
- Khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí; bệnh bảo thủ, trì trệ,
thái độ tiêu cực...đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
- Con người muốn ngày càng phát triển, tài năng, hội ngày
càng phát triển thì mới phải luôn chủ động, phát huy khnăng của
mình trong việc tìm i, sáng tạo cái mới, bên cạnh đó, con người
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực không
bao giờ bỏ cuộc giữa chừng;
nghĩa phương pháp luận với con người hiện nay
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức
sau, vật chất nguồn gốc của ý thức, song ý thức thể tác động
trlại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vậy
con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động, chủ quan của mình. Nếu không tôn trọng tính khách quan
sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan.
Ý thức thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng
thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan.
Ngược lại, ý thức, tưởng thể làm cho con người hoạt đng
sai thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.
Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh bi quan.
lOMoARcPSD| 61622044
=> vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng
thời khắc phbệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. lại
hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan
Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập
và côngtác
Chống bệnh chủ quan duy ý chí, thái đtích cực trong học tập
và công tác.
2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
.Phép biện chứng duy vật:
-Định nghĩa: Ăngghen đã đưa ra định nghĩa khái quát vphép biện
chứng duy vật với nội dung: phép biện chứng duy vật môn khoa
học về những quy luật phổ biến về sự vận đọng và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con ngưi.
Trong quá trình nhấn mạnh về vai trò của nguyên vmối liên hệ
phbiến, Ăngghen đã nhắc đến: "phép biện chứng về mối quan hệ
phbiến". Hay khi nhấn mạnh vvai trò của nguyên vsự phát
triển, Lênin cũng đã khẳng định phép biện chứng học thuyết về s
phát triển, dưới hình thức hoàn thiện nhất, sâu sắc nhất không
sự phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức con người,
nhận thức con người cũng sẽ phản ánh vật chất luôn phát triển không
ngừng.
-Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Từ định nghĩa về phép duy vật biện chứng đã được nêu bên trên ta thấy phép
bin chứng duy vật có hai đặc trung cơ bản như sau:
- Phép biện chứng duy vật của Mac - Lenin thực chất là phép biện chứng
được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mac -Lenin là skhác biệt về trình đphát trin
so với các tư tưởng biện chứng trong các thời kỳ trước đây.
- Trong phép biện chứng, ta nhận thấy rằng sự thông nhất giữa nội
dung thế giới quan ( duy vật biện chứng ) phương pháp luận ( biện chứng
duy vật ). Chính vậy, phép biện chứng duy vật của Mác - Lênin không dừng
lOMoARcPSD| 61622044
sự giải thích thế gii còn là công cụ nhận thức thế giới cải tạo thế gii.
-Hai nguyên lý:
Nguyên về mối liên hệ ph biến của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
-Ba quy luật cơ bản:
- Quy luật thứ nhất: quy luật chuyển hóa từ nhng thay đổi về
ợng thành thay đổi về cht và ngược lại
- Quy luật thứ hai: quy luật thống nhất đấu tranh giữa các mặt
đối lập
- Quy luật thba: quy luật phủ định của phủ định -Các cặp phạm
trù:
1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
2 Nguyên nhân và kết quả
3 Tất nhiên và ngẫu nhiên
4 Nội dung và hình thức
5 Bản chất và hiện tượng
6 Khả năng và hiện thực
2.1. Nguyên lý mối liên hệ phbiến -Định
nghĩa:
Mối liên hkhái niệm dùng để chsự tác động qua lại, quy định,
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt,
các yếu tố, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
dụ: Mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con
người hay con người với xã hội.
Mối liên hệ ph biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối
liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng của thế gii. Ví dụ:
Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến
thức mới; cây tơ hồng; cây tầm gửi sống nhờ; muốn chung mục
đích thì phải chung tay với nhau.
=> Như vậy, giữa các svật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại
những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phbiến
những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ
phbiến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù sthhin
những mối liên hệ phbiến trong những điều kiện nhất định. Toàn
bộ nhng mối liên hệ đặc thù phổ biến đó tạo nên tính thống nhất
lOMoARcPSD| 61622044
trong tính đa dạng ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
LIÊN HỆ :
-Thực vật động vật mối liên hệ với nhau trong qtrình trao
đổi chất.
-Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
dụ: các bộ phận trong thể người, các địa phương trong 1 c
liên hệ nhau.
-Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng
thời kỳ phát triển.
-Mối liên hệ tính nhiều bề cùng phong phú đa dạng. Cụ th
liên h bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, liên h
bản, không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
-Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều
là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan. Liên htất yếu, khách quan,
vốn có của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã
hội dù họ có ý thức được hay không. Đó là điều khách quan và không thể thay
đổi bởi ý chí con người. -Tính phổ biến:
Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau
không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong
xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các
quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
dụ: Sự liên hệ qua lại bên trong thể người thể ảnh hưởng tới mối
quan hgiữa người với ngưi.
-Tính quanh co, phức tạp:
Nguyên lý về mối liên hệ phbiến khái quát được toàn cảnh thế gii
trong những mối liên hchằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của
nó. Tính hạn của thế giới khách quan; tính hạn của sự vật, hiện
ợng trong thế giới đó chỉ thể giải thích được trong mối liên hệ
phbiến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai t
khác nhau.
-Liên hệ bên trong và bên ngoài.
-Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
lOMoARcPSD| 61622044
-Liên hchyếu thứ yếu; liên hệ trực tiếp gián tiếp. -Liên hệ
bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
-Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hạowc
một lĩnh vực.
Ví dụ:
- Mỗi người khác nhau thì mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn khác
nhau.Hay, cùng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai
đoạn khác nhau tính chất biểu hiện khác nhau. - Các loại cá, chim, thú
đều quan hệ với nước nhưng quan h với nước khác với chim thú.
không thể sống thiếu nước, không ớc thường xuyên không sống
được, nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong nước thường xuyên
được.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện
ợng như sau:
Trong nhận thức, trong học tập:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hvới nhu cầu
thực tiễn.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật,
hiện tượng.
Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phi
dùng hoạt động thực tiễn để biến đổi những mối liên hnội tại ca
sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật
khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp,
phương tiện khác nhau đtác động nhằm làm thay đổi những mối
liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ
gi“chính sách dàn đều” “chính sách trọng điểm”. dụ như
trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện vkinh tế, chính trị,
văn hóa, hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế trọng m.
dụ: trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong
lOMoARcPSD| 61622044
con người họ; không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hin
bên ngoài để đánh giá tính cách, thái độ năng lực của họ. Cũng không th
chỉ dựa trên một một hành động để phán xét con người hay phán xét cách sống
của họ. Khi đánh giá cần có thời gian cho quá trình quan sát tổng thể từ nhng
phn ánh trong bản chất con người; các mối quan hệ của người này với người
khác; cách cư xử ng như việc làm trong quá khvà hiện tại. Những nhìn
nhận đánh gia trên từng khía cạnh kết hợp với nhau sẽ tạo ra những quan
điểm toàn diện từ đó cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu quả
với các căn cứ ng; chkhông phải chỉ phù phiếm, giđịnh của nhận
định.
Quan điểm lịch sử - cụ th
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định
mang dấu ấn của không thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán
triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do
thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức
đến hoàn cảnh lịch sử cụ thđã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối
cảnh hiện thực, cả khách quan chquan, của sự ra đời phát
triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể, cái mà chúng ta coi
chân sẽ trnên sai lầm. Vì chân cũng phải giới hạn tồn tại,
có không – thời gian của nó.
-Ví dụ: Công tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính
phquan tâm, chđạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những
chính sách phù hợp, linh hoạt, mạnh mẽ theo hướng đổi mới, sáng tạo vận
dụng theo quan điểm lịch s- cụ thnhư kim chỉ nam để phù hợp với từng thời
điểm diễn ra trên thực tế. Công tác phòng chng dịch COVID 19 ở ớc ta đạt
được những kết quả, cũng những hạn chế trong công tác này. 2.2.
Nguyên lý về sự phát triển
-Khái niệm: Trong lịch sử phát triển của triết học, hai phương
pháp nhận thức đối lập nhau phương pháp biện chứng phương
pháp siêu hình. Do đó, khái niệm phát triển theo hai trường phái này
cũng có quan điểm khác nhau, cụ thể: - Quan điểm siêu hình:
Phnhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mt ổn định của sự vật,
hiện tượng
Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự
thay đổi về chất, không sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới.
lOMoARcPSD| 61622044
- Quan điểm biện chứng:
Phát triển sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
của sự vật.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng quanh co
phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi.
Tựu chung lại, phát triển một phạm trù triết học dùng để chquá
trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Khuynh hướng chung đi lên, điều đó không nghĩa s phát
triển của sự vật theo con đường thẳng nó một con đường
quanh co phức tạp theo đường xoáy ốc.
dụ: Chúng ta thừa nhận kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua, đặc
biệt là từ công cuộc đi mới đất nước có đi lên, khuynh hướng chung là đi lên.
Nhưng điều đó không nghĩa con đường thẳng. Không phải tất cả mọi
thành phần kinh tế đều đi lên, không phải mọi tất cả các doanh nghiệp đều
thành công, mà trong sự phát triển đó, khuynh hướng chúng là nền kinh tế Vit
Nam đi lên điều chính xác, nhưng không phải mọi thành phần kinh tế,
doanh nghiệp hoạt đng bị chững li, bị phá sản. Nhưng điều đó lại không phủ
nhận kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay từ đổi mới đến nay là đi lên
với con đường rất quanh co, phức tạp theo đường xoáy ốc.
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy lut
khách quan chi phối bản nhất quy luật mâu thuẫn. Thc
chất là giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong quá trình phát triển.
dụ: Muốn phát triển về ng lực, trình độ, bằng cấp... thực chất giải quyết
hàng loạt các mâu thuẫn trong chính svật, trong chính quá trình nhận thức
chứ không thể trông chờ, cầu mong vào bất cứ ai, không thể cầu mong vào một
thế lực siêu nhiên o đó ban phát cho... Phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn,
xem trong bản thân có bao nhiêu mâu thun, có gii quyết được cái đó thì mi
phát triển.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự
vật, hiện ợng, mọi quá trình giai đoạn của chúng kết quả
cái mới xuất hiện.
lOMoARcPSD| 61622044
dụ: Trong tnhiên, sphát triển thực vật động vật con người...; sự
phát triển của các hình thái kinh tế hội từ cộng sản nguyên thủy...→ Cộng
sản chủ nghĩa.
-Tính quanh co, phức tạp: Quá trình phát triển của sự vật, hiện
ợng không hoàn toàn giống nhau, những không gian thời gian
khác nhau, chịu sự tác động của nhiều yếu tố điều kiện lịch sử cụ
th.
dụ: Trong cùng một lớp học, cùng một thầy giáo dạy, cùng kiến thức đó
nhưng sau này sphát triển của các bạn học sinh chắc chắn sẽ khác nhau.
Cùng học một thầy cô nhưng kết quả đánh giá, sự vận dụng kiến thức đó trong
đời sống của mỗi người cũng khác nhau.
-Tính kế thừa: sự vật, hiện tượng mới ra đời tsự vật, hiện tượng
chứ không phải ra đời từ hư vô. vậy, trong sự vật, hiện ng
mới còn giữ lại, có chọn lọc cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn
thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc
hậu của svật, hiện tượng đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục
phát triển. Ví dụ: Sự ra đời học thuyết Mác kế thừa 3 tiền đlý lun.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
-Quan điểm phát triển: Từ việc nghiên cứu nguyên về sphát triển
của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong
nhận thức hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hi: Thnhất:
Khi xem t các sự vật, hiện ợng, ta phải đặt trong sự vận động
và phát triển.
Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có,
đang hiện hữu trước mắt, còn phải nắm được khuynh ớng
phát triển tương lai, khnăng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa
học, ta phải m sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những
biến đổi khác nhau đó.
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ,
trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó vsự vật có
được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó nhận thức
duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo
của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự
phát triển trong thực tiễn.
lOMoARcPSD| 61622044
Ta cần phải xác quyết rằng c sự vật, hiện tượng phát triển theo
một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhn
tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng
phbiến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải sự nhìn nhận, đánh giá khách
quan đối với mỗi ớc thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi
quan về sự tht lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai
lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn
trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải
quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn,
hoàn cảnh cụ thcủa svật, hiện tượng. sự phát triển diễn ra
theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
trong sphát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện,
cổ cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai
trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp
lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những thuộc cái cũ
lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến
thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về ng
để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm
chlao động để làm cho svật, hiện ợng tích lũy đủ về ợng rồi
dẫn đến sự thay đổi vcht.
-Vận dụng trong học tập: mang ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt với sinh viên
để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện,
để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải
phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622044
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức +Vật chất:
-Định nghĩa: Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Định nghĩa vật chất
của Lê nin có nội dung cụ thể như sau: Vật chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô
hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật
chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật
thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật
chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm. Thứ hai là
trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính khách quan. Tựu chung lại có thể thấy nội dung cơ bản
vật chất theo quan điểm của Lenin là:
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào
ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết từ
những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy
tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy
có những nội dung được đề cập như sau:
Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật
dụng, một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật
chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc
tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh
cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể
đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ
bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không lOMoAR cPSD| 61622044
phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được
vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh. –
Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Ý thức con người
là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới. –
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về
phạm trù vật chất với sự phát hiện cật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác. –
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác –
Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV
tầm thường về vật chất, coi ý thức là một dạng vật chất. –
Định nghĩa vật chất của Lênin đã liên kết CNDV biện chứng với
CNDV lịch sử thành một thể thống nhất (vật chất trong TN, vật chất
trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là
thực tại khách quan). Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin có những ý nghĩa sau:
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính
tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau
căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa
học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan
niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản
của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật
chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế
giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con
người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã
tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã
hội. -Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất: lOMoAR cPSD| 61622044
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian, thời gian.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là
sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của
vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Theo Triết
học Mác – Lê-nin vận động là mọi sự biến đổi (biến hóa) nói chung của các
sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên và đời sống xã hội. Bất kỳ sự vật
hiện tượng nào cũng luôn luôn vận động. Bằng vận động và thông qua vận
động mà sự vật hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của mình. Vận động
là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của các sự vật và hiện tượng.
Thứ hai là phương thức tồn tại của vật chất qua không gian và thời gian.
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các
mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên
trái, v.v.) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy
được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện
ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v.. Những
hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất,
là phương thức tồn tại của vật chất. Không có một dạng vật chất nào tồn
tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời
gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
Là hình thức tồn tại của vật chất, không gian và thời gian tồn tại khách quan,
bị vật chất quy định; trong đó, không gian có ba chiều: chiều cao, chiều
rộng, chiều dài; thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai.
Tính thống nhất vật chất của thế giới được các nhà triết học hủ nghĩa
duy vật biện chứng đưa ra như sau:
Một là trong thế giới chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế
giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc
lập với ý thức con người.
Hai là mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của
vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do
vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách
quan phổ biến của thế giới vật chất. lOMoAR cPSD| 61622044
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được
sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi khoa học và bởi chính
cuộc sống hiện thực của con người.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật
biện chứng có cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng
bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Cụ thể khoa học
hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất và đã phân chia ra các
dạng vật chất khác nhau, trong đó:
Trong giới tự nhiên vô sinh có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường.
Chất là cái gián đoạn và được tạo ra từ các hạt, có khối lượng, có cấu
trúc thứ bậc từ nguyên tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn.
Còn trường là môi trường vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh.
Trường làm cho các hạt của nguyên tử liên kết với nhau, tác động với
nhau và nhờ đó mà tồn tại được.
Ranh giới giữa chất và trường là tương đối, có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự phát hiện ra dạng chất và trường của vật chất và sự chuyển hóa của
chúng càng chứng tỏ không có không gian không có vật chất, không có
vật chất dưới dạng này thì lại có vật chất dưới dạng khác, không thể có
thế giới không phải vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất.
Và cũng không chỉ hình dung thế giới vật chất gồm quả đất, hệ mặt trời,
hay một số thiên hà mà phải là toàn bộ các quá trình tổ chức vật chất từ
các hệ thống thiên hà đến các vật thể vi mô.
Tựu chung lại có thể thấy bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống
nhất ở tính vật chất. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng
và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. -Ví dụ vật chất:
+ Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện ngầm…
+ Các vật dụng trong gia đình như: Bàn ghế, điều hòa, giường tủ…
+ Các vật phục vụ cho công việc của con người như: máy tính, điện thoại, máy in…
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
Chúng ta có thể lấy 1 ví dụ như sau: Đối với những đứa trẻ sinh có điều kiện
học tập bằng các phương tiện như máy chiếu, máy tính bảng… thì những
đứa trẻ này có nhiều kiến thức và hiểu biết hơn, còn những đứa trẻ sinh ta lOMoAR cPSD| 61622044
trong hoàn cảnh điều kiện còn thiếu thốn nhiều về vật chất thì sẽ hạn chế hơn. +Ý thức:
-Định nghĩa: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới
khách quan vào đầu óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh thần
của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm, những trạng
thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người
trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự
nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế giới
khách quan vào trong đầu óc của con người.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù
được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải
biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao
nhất chỉ có ở con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ
những gì con người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp
bao gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan
trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. -Nguồn gốc:
.Nguồn gốc tự nhiên: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện
qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó
cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong
đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu
sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là
quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao
đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của
con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc. Về mối quan
hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh lOMoAR cPSD| 61622044
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối
quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các giác
quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất chịu sự tác động bao
giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động. Những đặc
điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh và
cái được phản ánh không tách rời nhau những không đồng nhất với
nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái
phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó
(cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh
được thể hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức này tương
ứng với quá trình tiến hóa vật chất.
.Nguồn gốc xã hội: Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người
là sự khác biệt về chất so với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã
hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế
giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu
của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò
môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi
thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát
triển bộ não, ... của con người. Trong quá trình lao động, con người
tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của
nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có
thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của
các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của lOMoAR cPSD| 61622044
bộ não người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói
riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
khách quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội
dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu
đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động
nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này
làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động.
Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn
khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền
đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời
và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với
lao động là ngôn ngữ, đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ
óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý
động vật dần chuyển hóa thành ý thức.
-Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo
thế giới khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện
ở khả năng hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định
hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ
thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những
thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính
chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện
ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền
thoại, ... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất,
quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong
các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị
thế giới khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện
nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác thì ý lOMoAR cPSD| 61622044
thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời
và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật
xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại
hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập,
là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến
mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách
quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh: “về bản chất, coi ý thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
”.
-Kết cấu của ý thức: Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều
ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý
thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản
nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu
tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân
tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận
thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.
Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là
phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. theo
Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn
tại đối với ý thức là tri thức”.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác
nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,… Ý
chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở lOMoAR cPSD| 61622044
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt
năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó
con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là
quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi
để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con
người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động
theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không
chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội
dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là
một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu
người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức
độ biểu hiện của các yếu tố khác. -Ví dụ ý thức:
Khi con người tham gia vào quá trình lao động sản xuất thì thay như
giai đoạn trước con người sử dụng cày cuốc để cày ruộng, đào
mương, xây cầu, làm đường,… thì ngày nay, con người đã ý thức
được việc tăng năng suất lao động bằng việt đưa máy móc vào hoạt
động để tạo ra năng suất công việc như mình mong muốn. +Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức:

-Định nghĩa: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ
biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động
mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách
quan, đem đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc
vào cảm giác. -Mối quan hệ:
Thứ nhất: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ lOMoAR cPSD| 61622044
giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới
vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức
lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa
học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý
thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra
các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn
tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế
giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức
bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là
nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người
phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của
con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải
trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác
định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện
mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức
khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động
của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có lOMoAR cPSD| 61622044
năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục
đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực cúa
ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện
thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu,
hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức
có thế quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của
con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò
của vật chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện
tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở
lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh
của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành
động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất,
hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
-Ví dụ vật chất ý thức:
Ví dụ như trong ca dao tục ngữ của Việt Nam có câu "Có thực mới
vực được đạo" - Nghĩa là vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của
con người. Bộ não của con người sẽ có trách nhiệm phản ánh những
hiện thực cuộc sống một cách thụ thể. Từ mối quan hệ vật chất và ý
thức thì con người sẽ biết cư xử và hành động cho đúng chuẩn mực.
Bên cạnh đó việc ý thức của con người quyết định vật chất còn được
thể hiện rõ trong việc lựa chọn vật chất, ví dụ như khi con người có
một nhu cầu sử dụng vật chất thì sẽ lựa chọn vật chất phù hợp với
nhu cầu của mình, như con người muốn mua một chiếc xe để tải
hàng hoá đi bán thì sẽ lựa chọn mua một chiếc xe tải thay vì lựa chọn một chiếc xe oto con,..
-Liên hệ bản thân với mối quan hệ vật chất và ý thức: lOMoAR cPSD| 61622044
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh
hưởng đến cuộc sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên
con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc sống còn
thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động
hàng ngày. Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi
chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ
quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất
lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan. -Ý nghĩa
mối quan hệ vật chất và ý thức:
-
Phải biết dựa vào những quy luật khách quan để có thể xác
định đúng đắn mục tiêu, kế hoạch, biết tìm và vận dụng phương pháp
tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra một cách tối ưu. -
Khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí; bệnh bảo thủ, trì trệ,
thái độ tiêu cực...đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay. -
Con người muốn ngày càng phát triển, tài năng, xã hội ngày
càng phát triển thì mới phải luôn chủ động, phát huy khả năng của
mình trong việc tìm tòi, sáng tạo cái mới, bên cạnh đó, con người
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không
bao giờ bỏ cuộc giữa chừng;
+Ý nghĩa phương pháp luận với con người hiện nay
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy
con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động, chủ quan của mình. Nếu không tôn trọng tính khách quan
sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan.
– Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và
thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan.
Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động
sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.
Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh bi quan. lOMoAR cPSD| 61622044
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng
thời khắc phụ bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại
hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
– Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan
Đối với hoạt động thực
tiễn của bản thân:
– Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và côngtác
– Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác.
2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
.Phép biện chứng duy vật:
-Định nghĩa: Ăngghen đã đưa ra định nghĩa khái quát về phép biện
chứng duy vật với nội dung: phép biện chứng duy vật là môn khoa
học về những quy luật phổ biến về sự vận đọng và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người.
Trong quá trình nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến, Ăngghen đã nhắc đến: "phép biện chứng về mối quan hệ
phổ biến". Hay khi nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về sự phát
triển, Lênin cũng đã khẳng định phép biện chứng là học thuyết về sự
phát triển, dưới hình thức hoàn thiện nhất, sâu sắc nhất và không có
sự phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức con người,
nhận thức con người cũng sẽ phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng.
-Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Từ định nghĩa về phép duy vật biện chứng đã được nêu ở bên trên ta thấy phép
biện chứng duy vật có hai đặc trung cơ bản như sau: -
Phép biện chứng duy vật của Mac - Lenin thực chất là phép biện chứng
được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mac -Lenin là sự khác biệt về trình độ phát triển
so với các tư tưởng biện chứng trong các thời kỳ trước đây. -
Trong phép biện chứng, ta nhận thấy rằng có sự thông nhất giữa nội
dung thế giới quan ( duy vật biện chứng ) và phương pháp luận ( biện chứng
duy vật ). Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật của Mác - Lênin không dừng lOMoAR cPSD| 61622044
ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. -Hai nguyên lý:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
-Ba quy luật cơ bản: -
Quy luật thứ nhất: quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng thành thay đổi về chất và ngược lại -
Quy luật thứ hai: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập -
Quy luật thứ ba: quy luật phủ định của phủ định -Các cặp phạm trù:
1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
2 Nguyên nhân và kết quả
3 Tất nhiên và ngẫu nhiên 4 Nội dung và hình thức
5 Bản chất và hiện tượng
6 Khả năng và hiện thực
2.1. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến -Định nghĩa:
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại, quy định,
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt,
các yếu tố, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con
người hay con người với xã hội.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối
liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng của thế giới. Ví dụ:
Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến
thức mới; cây tơ hồng; cây tầm gửi sống nhờ; muốn chung mục
đích thì phải chung tay với nhau.
=> Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại
những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở
những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ
phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện
những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn
bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất lOMoAR cPSD| 61622044
trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất
của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. LIÊN HỆ :
-Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất.
-Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người, các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
-Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển.
-Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là
liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, liên hệ cơ
bản, không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
-Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều
là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan. Liên hệ là tất yếu, khách quan,
vốn có của sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã
hội dù họ có ý thức được hay không. Đó là điều khách quan và không thể thay
đổi bởi ý chí con người. -Tính phổ biến:
Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau
không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong
xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các
quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sự liên hệ qua lại bên trong cơ thể người có thể ảnh hưởng tới mối
quan hệ giữa người với người.
-Tính quanh co, phức tạp:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới
trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của
nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện
tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ
phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
-Liên hệ bên trong và bên ngoài.
-Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên. lOMoAR cPSD| 61622044
-Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp. -Liên hệ
bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
-Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hạowc một lĩnh vực. Ví dụ:
- Mỗi người khác nhau thì có mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn bè khác
nhau.Hay, cùng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai
đoạn khác nhau có tính chất và biểu hiện khác nhau. - Các loại cá, chim, thú
đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệ với nước khác với chim và thú.
Cá không thể sống thiếu nước, không có nước thường xuyên cá không sống
được, nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.
-Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:
– Trong nhận thức, trong học tập:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
– Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải
dùng hoạt động thực tiễn để biến đổi những mối liên hệ nội tại của
sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp,
phương tiện khác nhau để tác động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ
giữ “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như
trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
dụ:
trong đánh giá một con người với những mặt khác nhau phản ánh trong lOMoAR cPSD| 61622044
con người họ; không thể chỉ thực hiện quan sát phiến diện từ những thể hiện
bên ngoài để đánh giá tính cách, thái độ và năng lực của họ. Cũng không thể
chỉ dựa trên một một hành động để phán xét con người hay phán xét cách sống
của họ. Khi đánh giá cần có thời gian cho quá trình quan sát tổng thể từ những
phản ánh trong bản chất con người; các mối quan hệ của người này với người
khác; cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những nhìn
nhận và đánh gia trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ tạo ra những quan
điểm toàn diện từ đó mà cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu quả
với các căn cứ rõ ràng; chứ không phải chỉ là phù phiếm, giả định của nhận định.
Quan điểm lịch sử - cụ thể
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định
và mang dấu ấn của không – thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán
triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức
đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối
cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi
là chân lý sẽ trở nên sai lầm. Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại,
có không – thời gian của nó.
-Ví dụ: Công tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính
phủ quan tâm, chỉ đạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những
chính sách phù hợp, linh hoạt, mạnh mẽ theo hướng đổi mới, sáng tạo vận
dụng theo quan điểm lịch sử - cụ thể như kim chỉ nam để phù hợp với từng thời
điểm diễn ra trên thực tế. Công tác phòng chống dịch COVID 19 ở nước ta đạt
được những kết quả, cũng có những hạn chế trong công tác này. 2.2.
Nguyên lý về sự phát triển

-Khái niệm: Trong lịch sử phát triển của triết học, có hai phương
pháp nhận thức đối lập nhau là phương pháp biện chứng và phương
pháp siêu hình. Do đó, khái niệm phát triển theo hai trường phái này
cũng có quan điểm khác nhau, cụ thể: - Quan điểm siêu hình:
• Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng
• Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự
thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới. lOMoAR cPSD| 61622044
- Quan điểm biện chứng:
• Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật.
• Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co
phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi.
Tựu chung lại, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Khuynh hướng chung là đi lên, điều đó không có nghĩa là sự phát
triển của sự vật theo con đường thẳng mà nó là một con đường
quanh co phức tạp theo đường xoáy ốc.
Ví dụ: Chúng ta thừa nhận kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua, đặc
biệt là từ công cuộc đổi mới đất nước có đi lên, khuynh hướng chung là đi lên.
Nhưng điều đó không có nghĩa nó là con đường thẳng. Không phải là tất cả mọi
thành phần kinh tế đều đi lên, không phải mọi tất cả các doanh nghiệp đều
thành công, mà trong sự phát triển đó, khuynh hướng chúng là nền kinh tế Việt
Nam đi lên là điều chính xác, nhưng không phải là mọi thành phần kinh tế, có
doanh nghiệp hoạt động bị chững lại, bị phá sản. Nhưng điều đó lại không phủ
nhận kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay và từ đổi mới đến nay là đi lên
với con đường rất quanh co, phức tạp theo đường xoáy ốc.
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy luật
khách quan chi phối mà cơ bản nhất là quy luật mâu thuẫn. Thực
chất là giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong quá trình phát triển.
Ví dụ: Muốn phát triển về năng lực, trình độ, bằng cấp... thực chất là giải quyết
hàng loạt các mâu thuẫn trong chính sự vật, trong chính quá trình nhận thức
chứ không thể trông chờ, cầu mong vào bất cứ ai, không thể cầu mong vào một
thế lực siêu nhiên nào đó ban phát cho... Phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn,
xem trong bản thân có bao nhiêu mâu thuẫn, có giải quyết được cái đó thì mới phát triển.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự
vật, hiện tượng, mọi quá trình và giai đoạn của chúng và kết quả là cái mới xuất hiện. lOMoAR cPSD| 61622044
Ví dụ: Trong tự nhiên, sự phát triển thực vật → động vật → con người...; sự
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ cộng sản nguyên thủy...→ Cộng sản chủ nghĩa.
-Tính quanh co, phức tạp: Quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng không hoàn toàn giống nhau, ở những không gian và thời gian
khác nhau, chịu sự tác động của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể.
Ví dụ: Trong cùng một lớp học, cùng một thầy giáo dạy, cùng kiến thức đó
nhưng sau này sự phát triển của các bạn học sinh chắc chắn sẽ khác nhau.
Cùng học một thầy cô nhưng kết quả đánh giá, sự vận dụng kiến thức đó trong
đời sống của mỗi người cũng khác nhau.
-Tính kế thừa: sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng
cũ chứ không phải ra đời từ hư vô. Vì vậy, trong sự vật, hiện tượng
mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn
thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc
hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục
phát triển. Ví dụ: Sự ra đời học thuyết Mác kế thừa 3 tiền đề lý luận.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
-Quan điểm phát triển: Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển
của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi: Thứ nhất:
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển. –
Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có,
đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng
phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa
học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những
biến đổi khác nhau đó. –
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ,
trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có
được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức
duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo
của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự
phát triển trong thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61622044
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo
một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận
tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng
phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách
quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi
quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn
trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải
quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn,
hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra
theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. –
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện,
cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp
lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà
lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động. –
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng
để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm
chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi
dẫn đến sự thay đổi về chất.
-Vận dụng trong học tập: mang ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt với sinh viên
để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện,
để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải
phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và