lOMoARcPSD| 59960339
Đ
I H
C QU
C GIA TH
H
CH
Í MINH
Đ
I H
C K
HOA
H
C T
NHI
ÊN
K
HOA
SINH H
:
C
C
ÔNG
NGH
SINH
H
C
B
ÀI TI
U LU
N
H
C PH
N TR
I
T H
C M
ÁC
-
L
ÊNIN
Đ
T
ÀI
:
M
I QUAN H
BI
N CH
NG GI
A V
T CH
T VÀ Ý TH
C;
SINH VIÊN TRONG CÔNG CU
C CH
NG CH
QUAN DUY
Ý CHÍ
.
G
i
ng vi
ên h
ư
ng d
n
:
TS
.
M
ch T
h
Kh
ánh Tr
inh
L
p
:
21
SHH
1
M
ã h
c ph
n
:
BAA00101
TP
th
.HCM,
áng 10 n
ăm 2022
lOMoARcPSD| 59960339
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC;
SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG CHỦ QUAN DUY
Ý CHÍ.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Mạch Thị Khánh Trinh
Lớp : 21SHH1
Mã học phần : BAA00101
TP.HCM, tháng 10 năm 2022
Danh sách thành viên thực hiện và phân chia công việc trong nhóm:
Họ và tên
Mã số sinh viên
Phân chia công việc
K
HOA
SINH H
:
C
C
ÔNG
NGH
SINH
H
C
B
ÀI TI
U LU
N
H
C PH
N TR
I
T H
C M
ÁC
-
L
ÊNIN
Đ
T
ÀI
:
lOMoARcPSD| 59960339
Phạm Thị Kiều Nhi
21150090
Phân công công việc,
chỉnh sửa hình thức và
nội dung, viết phần mở
đầu.
Trần Thị Như Ý
21150133
Soạn chương 2 phần
hành động, chỉnh sửa
tiêu đề và tên chủ đề.
Lương Vân Anh
21150141
Soạn chương 2 phần
nhận thức, định dạng
văn bản, tên chủ đề.
Nguyễn Ánh Tuyết
21150125
Soạn chương 3, chỉnh
sửa tên chủ đề.
Lê Thị Ngọc Mai
21150247
Soạn chương 1, chỉnh
sửa tên chủ đề.
LỜI CẢM ƠN
lOMoARcPSD| 59960339
Trước hết, chúng em xin gửi lời tri ân sâu sắc, lời cảm ơn chân thành nhất đến
Mạch Thị Khánh Trinh- giảng viên bộ môn Triết học c-Lênin, đã dày công
truyền đạt kiến thức ớng dẫn trong quá trình m bài. Những lời chia sẻ của
sẽ là hành trang cho quá trình học tập, làm việc và trong cuộc sống của chúng em sau
này. Do còn ít kinh nghiệm trong thực tiễn công tác, nhận thức của bản thân còn hạn
chế nên tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình
nghiên cứu trình y. Rất kính mong được sự đóng góp ý kiến của để đề tài
được hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin trân trọng cảm ơn cô!
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 59960339
lOMoARcPSD| 59960339
lOMoARcPSD| 59960339
Phương pháp thu thập các tài liệu liên quan.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá: dựa trên tài liệu tham khảo
và kinh nghiệm cá nhân
Phương pháp đưa ra kết luận.
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:s
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử phấn đấu không mệt
mỏi, biết bao anh hùng, liệtđã hy sinh anh dũng cho một Việt Nam độc lập, tự do,
giàu mạnh hạnh phúc. Độc lập dân tộc Chủ nghĩa hội tưởng con
đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ dân tộc Việt Nam đã chọn. Vậy chúng
ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Khi nhìn nhận một cách khách quan
vào những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đạt được, chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chứng minh được snổi trội tiềm năng của trong sự nghiệp xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay. Do vậy, thế hệ trẻ Việt Nam nếu
muốn tiếp nối lý tưởng của cha ông thì phải định hướng tư duy của chính mình trước
vấn đề bản của Triết học- Vật chất ý thức để chống lại bệnh chủ quan duy ý
chí cũng như bảo thủ trì trệ.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Trình bày rõ nội dung cơ bản về vật chất và ý thức theo quan
niệm của Mác-
Lênin
- Xác định được tầm ảnh hưởng của vật chất và ý thức trong cuộc
sống.
- Phương hướng giải quyết chủ quan duy ý chí của sinh viên
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: dựa trên những mục tiêu đã xác định, nội
dung bao gồm những vấn đề sau
Cơ sở lý luận của triết học Mác- Lênin.
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào đời sống.
lOMoARcPSD| 59960339
Sinh viên trong công cuộc chống chủ quan duy ý chí. - Phương pháp
nghiên cứu
lOMoARcPSD| 59960339
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC THEO QUAN
ĐIỂM CỦA MÁC-LÊNIN
1. Lý luận về vật chất trong triết học Mác Lênin
1.1. Quan điểm về phạm trù vật chất trước C.Mác
Các nhà triết học duy tâm đều phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, nhưng họ lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của
chúng.Thậm chí theo họ, quá trình nhận thức của con người chẳng qua cũng chỉ
quá trình ý thức đi “tìm lại” chính bản thân của mình dưới hình thức khác. Như vậy,
về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của
vật chất.
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đặc biệt là Hy Lạp La Mã, Trung Quốc,
Ấn Độ đã xuất hiện chủ nghĩa duy vật với quan niệm chất phác về thế giới tự nhiên,
về vật chất. Các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về những vật thể hữu hình,
cảm tính dạng tồn tại ở thế giới bên ngoài, ví dụ: nước (Thales), lửa (Heraclitus),
không khí (Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ (Ngũ hành Trung Quốc).
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV XVIII, bắt đầu từ thời Phục hưng, phương
Tây đã có sự ra đời của khoa học thực nghiệm, nhất là sự phát triển mạnh của cơ học,
công nghiệp. Đến thế kỷ XVII XVIII, chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được nghiên cứu, khẳng định trên
lập trường duy vật.
1.2. Quan điểm về vật chất trong triết học Mác – Lênin:
Trong tác phẩm Chnghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
lOMoARcPSD| 59960339
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
*Phương thức tồn tại vật chất:
Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Là phương
thức tồn tại của vật chất. Vật chất chỉ tồn tại bằng cách vận động và chỉ thông qua
vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Thông qua các hình thức cơ bản
của vận động cho thấy, vật chất tồn tại hiện hữu dưới dạng là một đối tượng cơ học,
hay vật lý, hóa học, sinh học hoặc xã hội. Chính vì vậy, vận động nói chung là một
hình thức tồn tại của vật chất.
*Hình thức tồn tại vật chất:
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận
sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Không thừa nhận sự
tồn tại của thế giới thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới. Sự tồn tại của thế
giới là hết sức phong phú về dạng, loại. Có tồn tại vật chất và tồn tại tinh thần. Có tồn
tại khách quan và tồn tại chủ quan. Có tồn tại của tự nhiên và tồn tại của xã hội…
*Thế giới thống nhất ở tính vật chất:
Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Chỉ
một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, tồn tại khách quan, có trước
con người. Mọi bộ phận của thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất. Thế giới
vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô
tận.
2. Nguồn gốc bản chất và bản chất của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên
nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
lOMoARcPSD| 59960339
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn
gốc của ý thức; coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh
ra.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Ý thức xuất hiện kết quả của quá trình tiến
hoá lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời kết quả trực tiếp của
thực tiễn xã hội - lịch sử của con người
2.2. Bản chất của ý thức:
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá
trình phản ảnh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc con người. Ý thức
đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn chặt chẽ với thực tiễn hội. Đây một đặc tính
căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh m
động vật. Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất ý của ý thức cho thấy, ý thức
là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
2.3. Vai trò của ý thức:
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống
khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức
chỉ là sản phẩm, sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. hành động của
con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “ Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại”.
Vật chất ý thức quan hệ 2 chiều tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn:
lOMoARcPSD| 59960339
Một là, vật chất vai trò quyết định ý thức. Do tồn tại khách quan nên vật
chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại của vật chất nên
cái sau mang tính thứ hai. Nếu không vật chất trong tự nhiên và vật chất
trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất,
chịu sự chi phối, quyết định của vật chất.
Hai là, ý thức tác động trở lại vật chất. Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý
thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chấtbó mà có thể tác động
làm thay đổi vật chất.
Chương 2: VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG
1. Trong nhận thức
Mối quan hệ vật chất ý thức luôn ảnh hưởng đến nhau và vì vật chất quyết
định ý thức nên nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân mỗi người
phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến các mặt trong cuộc sống
và từ đó tôn trọng, hoạt động theo quy luật khách quan.
lOMoARcPSD| 59960339
Trước khi hành động, cần phải xem xét các khả năng, các điều kiện cần và đủ
từ thực tế- các điều kiện trên được coi là vật chất; thì từ đó mới quyết định ý thức dẫn
đến nhận thức về các mặt có tính đúng đắn. Ví dụ như để đạt được kết quả cao trong
các thi cần xem xét các điều kiện thực tế: yêu cầu môn học, trọng tâm môn học,
học lực bản thân,... so với mục tiêu đề ra để nhận thức được vật chất nêu trên đủ
để bản thân thực hiện được các mục tiêu hay không. Sau đó sẽ có nhận thức đúng đắn
dẫn đến hành động đúng đắn. Hay trong những m gần đây, dịch COVID-19 luôn là
vấn đề được quan tâm nhất. Khi tình hình dịch diễn biến phức tạp, nhìn nhận từ thực
tế thấy được sự nguy hiểm khi các chủng virus mới xuất hiện, các ca mắc nguy kịch
hoặc tử vong tăng lên liên tục. Khi nhìn nhận từ thực tế người dân thể nhận thức
được sự nguy hiểm của dịch bệnh, từ đó hành động tích cực phòng tránh, giảm thiểu
các ca bệnh tăng lên.
Mối quan hệ vật chất - ý thức tác động về mặt hơn như hình thức của
Nhà nước Việt Nam đã bỏ qua hình thức Nhà nước tư bản để phát triển từ Nhà nước
phong kiến đến quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Từ thực tế cho thấy Cách mạng Việt
Nam mang đặc điểm của giai cấp công nhân ới sự lãnh đạo của Đảng, hơn nữa Việt
Nam còn một đất nước yêu chuộng hoà bình tự do n việc phát triển đất nước,
cách mạng theo con đường tư hữu về liệu sản xuất hay cách mạng sản điều
không thể thực hiện và hoàn toàn không phù hợp với thực trạng cũng như lịch sử Việt
Nam. Song để thay đổi trực tiếp từ Nhà ớc phong kiến sang Chủ nghĩa xã hội trong
thời gian ngắn là việc làm không khả thi. Bởi bất cứ quá trình biến đổi nào cũng cần
thời gian thay đổi các mặt nhỏ rồi mới đến lớn, thay đổi từng cái riêng mới dẫn
đến từng cái chung. Thông qua những yếu tố hiện thực khách quan thể thấy nhận
thức để phát triển đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp.
lOMoARcPSD| 59960339
2. Trong hành động
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức có tác động đến các hoạt động
trong đời sống hàng ngày theo hai hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, tri thức khoa học, tình cảm cách mạng,
nghị lực, ý chí thì hành động sẽ phù hợp với các quy luật khách quan, con người
có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình,
thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Có thể nói ý thức chính
kim chỉ nam cho mi hoạt động thức tiễn trong đời sống của con người.Song đó,
nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ vai tquyết định, chi phối quy định mục đích
hoạt động. Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ý thức tiền đề cho hoạt động
nghiên cứu, vật chất là điều kiện để thực hiện hóa ý tưởng nghiên cứu ấy.
Ý thức giúp con người hình thành ý tưởng, mục đích, phương pháp, cung cấp tri thức,
ý chí để đề xuất đề tài nghiên cứu. n vật chất thì đóng đóng vai trò thúc đẩy, hiện
thực hóa các công việc trong ý thức nêu trên nhằm đạt được mục đích cải biến khoa
học, phục vụ được nhu cầu sống của con người. Vật chất ý thức luôn tồn tại
phát triển song hành, vậy mọi hoạt động sống của con người luôn cần cân bằng
được vai trò của cả hai điều nói trên thì mới thể đạt được kết qunhư mục tiêu
mong muốn.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản
chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, ớng hành động của con người đã đi
ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt
động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều hình
thành từ những ý tưởng ny sinh từ ý thức, do đó ý thức đóng vai trò rất quan trọng
đối với kết quả của những hành động đó. Theo dụ về hoạt động nghiên cứu khoa
học như trên thì trách nhiệm của ý thức càng thể hiện ràng. Nếu như ngay từ ban
đầu ý thức phản ánh lệch lạc thì những ý ởng, phương pháp, mục đích cho hoạt
động nghiên cứu trên sẽ trở nên vô nghĩa, và có thể gây ra nhiều hậu quả không ờng
lOMoARcPSD| 59960339
trước. Hầu hết các nghiên cứu khoa học đều dựa vào tình hình thực tiễn của cuộc
sống, dựa trên các quy luật vốn mang tính đúng đắn. Vì vậy, sự lệch lạc xuất hiện
bất kỳ giai đoạn nào ng có thể để lại hậu quả về sau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
mục tiêu của hoạt động.
Qua những điều vừa trình y trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ta có thể nhận thấy được ý nghĩa hết sức quan trọng
trong hoạt động thực tiễn của con người như sau: Mọi hoạt động của con người (cả
hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan,
phát huy được tính năng động sáng tạo của ý thức.
lOMoARcPSD| 59960339
Chương 3: SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG CHỦ QUAN
DUY Ý CHÍ
Đầu tiên, vật chất quyết định ý thức nên nhận thức hoạt động của tôi phải
xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực
tiễn ảnh hưởng đến học tập của mình để tôn trọng hành động theo quy luật khách
quan. Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, môn học, giờ
học, những yếu tố thực tế để ý thức chấp nh đúng quy định, tham gia các tiết học
và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra. Ngoài ra cần phải tuân thủ theo nội quy
nhà trường, chấp hành quy chế trong học tập. Trong thời gian dịch bệnh Covid19 diễn
biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh nên thực hiện các
phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, tham gia học trực tuyến để
bảo vệ sức khỏe của bản thân vào gia đình cùng mọi người xung quanh.
Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Tôi chủ động tìm kiếm trau dồi tri thức cho bản
thân mình, bồi dưỡng những knăng cần thiết cho bản thân, phát huy tính sáng tạo
trong học tập. Trước mỗi ngày học, tôi xem trước giáo trình của ngày m đó, phát
biểu thảo luận để hiểu hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập tài
liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm
tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức
xã hội. Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất
của mình qua việc đọc sách, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động,
bảo thủ, không trì trệ, không chủ quan trước mọi tình huống. Khi tham gia thảo luận
nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều mà các thành viên góp ý để hoàn thành
công việc. Cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý hay ý mới, việc hôm nay không để
trì trệ sang ngày mai. Không đăng học phần quá nhiều tránh việc học quá sức dẫn
đến kết quả không như ý, gây hao phí thời gian, tiền bạc, công sức.
lOMoARcPSD| 59960339
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội. [c. 2021]. Giáo trình Triết học
Mác - Lênin: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59960339
Đ I H C QU C GIA TH ÀNH PH H CH Í MINH
Đ I H C K HOA H C T NHI ÊN K HOA : SIN
H H C C ÔNG NGH SINH H C
B ÀI TI U LU N H C PH N TR I T H C M ÁC - L ÊNIN Đ
T ÀI :
M
I QUAN H BI N CH NG GI A V T CH T VÀ Ý TH C;
SINH VIÊN TRONG CÔNG CU
C CH NG CH QUAN DUY
Ý CHÍ .
G i ng vi ên h ư ng d n : TS . M ch T h Kh ánh Tr inh L p
: 21 SHH 1
M ã h c ph n : BAA00101 TP .HCM, th
áng 10 n ăm 2022 lOMoAR cPSD| 59960339
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN K HOA
: SINH H C C ÔNG NGH SINH H C
B ÀI TI U LU N H C PH N TR I T H C M ÁC - L ÊNIN Đ
T ÀI :
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC;
SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG CHỦ QUAN DUY Ý CHÍ.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Mạch Thị Khánh Trinh Lớp : 21SHH1
Mã học phần : BAA00101
TP.HCM, tháng 10 năm 2022
Danh sách thành viên thực hiện và phân chia công việc trong nhóm: Họ và tên Mã số sinh viên
Phân chia công việc lOMoAR cPSD| 59960339
Phạm Thị Kiều Nhi 21150090 Phân công công việc,
chỉnh sửa hình thức và
nội dung, viết phần mở đầu. Trần Thị Như Ý 21150133 Soạn chương 2 phần hành động, chỉnh sửa
tiêu đề và tên chủ đề. 21150141 Soạn chương 2 phần nhận thức, định dạng Lương Vân Anh văn bản, tên chủ đề. Nguyễn Ánh Tuyết 21150125 Soạn chương 3, chỉnh sửa tên chủ đề. Lê Thị Ngọc Mai 21150247 Soạn chương 1, chỉnh sửa tên chủ đề. LỜI CẢM ƠN lOMoAR cPSD| 59960339
Trước hết, chúng em xin gửi lời tri ân sâu sắc, lời cảm ơn chân thành nhất đến
cô Mạch Thị Khánh Trinh- giảng viên bộ môn Triết học Mác-Lênin, đã dày công
truyền đạt kiến thức và hướng dẫn trong quá trình làm bài. Những lời chia sẻ của cô
sẽ là hành trang cho quá trình học tập, làm việc và trong cuộc sống của chúng em sau
này. Do còn ít kinh nghiệm trong thực tiễn công tác, nhận thức của bản thân còn hạn
chế nên tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình
nghiên cứu và trình bày. Rất kính mong được sự đóng góp ý kiến của cô để đề tài
được hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin trân trọng cảm ơn cô! MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 59960339 lOMoAR cPSD| 59960339 lOMoAR cPSD| 59960339 MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:s
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử phấn đấu không mệt
mỏi, biết bao anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh anh dũng cho một Việt Nam độc lập, tự do,
giàu mạnh và hạnh phúc. Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội là lý tưởng và con
đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ và dân tộc Việt Nam đã chọn. Vậy chúng
ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Khi nhìn nhận một cách khách quan
vào những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đạt được, chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chứng minh được sự nổi trội và tiềm năng của nó trong sự nghiệp xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay. Do vậy, thế hệ trẻ Việt Nam nếu
muốn tiếp nối lý tưởng của cha ông thì phải định hướng tư duy của chính mình trước
vấn đề cơ bản của Triết học- Vật chất và ý thức – để chống lại bệnh chủ quan duy ý
chí cũng như bảo thủ trì trệ.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài -
Trình bày rõ nội dung cơ bản về vật chất và ý thức theo quan niệm của Mác- Lênin -
Xác định được tầm ảnh hưởng của vật chất và ý thức trong cuộc sống. -
Phương hướng giải quyết chủ quan duy ý chí của sinh viên
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu -
Nội dung nghiên cứu: dựa trên những mục tiêu đã xác định, nội
dung bao gồm những vấn đề sau
• Cơ sở lý luận của triết học Mác- Lênin.
• Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào đời sống.
• Phương pháp thu thập các tài liệu liên quan.
• Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá: dựa trên tài liệu tham khảo và kinh nghiệm cá nhân
• Phương pháp đưa ra kết luận. lOMoAR cPSD| 59960339
• Sinh viên trong công cuộc chống chủ quan duy ý chí. - Phương pháp nghiên cứu lOMoAR cPSD| 59960339
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC THEO QUAN
ĐIỂM CỦA MÁC-LÊNIN
1. Lý luận về vật chất trong triết học Mác – Lênin
1.1. Quan điểm về phạm trù vật chất trước C.Mác
Các nhà triết học duy tâm đều phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, nhưng họ lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của
chúng.Thậm chí theo họ, quá trình nhận thức của con người chẳng qua cũng chỉ là
quá trình ý thức đi “tìm lại” chính bản thân của mình dưới hình thức khác. Như vậy,
về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đặc biệt là Hy Lạp – La Mã, Trung Quốc,
Ấn Độ đã xuất hiện chủ nghĩa duy vật với quan niệm chất phác về thế giới tự nhiên,
về vật chất. Các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về những vật thể hữu hình,
cảm tính dạng tồn tại ở thế giới bên ngoài, ví dụ: nước (Thales), lửa (Heraclitus),
không khí (Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ (Ngũ hành – Trung Quốc).
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV – XVIII, bắt đầu từ thời kì Phục hưng, phương
Tây đã có sự ra đời của khoa học thực nghiệm, nhất là sự phát triển mạnh của cơ học,
công nghiệp. Đến thế kỷ XVII – XVIII, chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được nghiên cứu, khẳng định trên lập trường duy vật.
1.2. Quan điểm về vật chất trong triết học Mác – Lênin:
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được lOMoAR cPSD| 59960339
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
*Phương thức tồn tại vật chất:
Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Là phương
thức tồn tại của vật chất. Vật chất chỉ tồn tại bằng cách vận động và chỉ thông qua
vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Thông qua các hình thức cơ bản
của vận động cho thấy, vật chất tồn tại hiện hữu dưới dạng là một đối tượng cơ học,
hay vật lý, hóa học, sinh học hoặc xã hội. Chính vì vậy, vận động nói chung là một
hình thức tồn tại của vật chất.
*Hình thức tồn tại vật chất:
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận
sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Không thừa nhận sự
tồn tại của thế giới thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới. Sự tồn tại của thế
giới là hết sức phong phú về dạng, loại. Có tồn tại vật chất và tồn tại tinh thần. Có tồn
tại khách quan và tồn tại chủ quan. Có tồn tại của tự nhiên và tồn tại của xã hội…
*Thế giới thống nhất ở tính vật chất:
Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Chỉ
một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, tồn tại khách quan, có trước
con người. Mọi bộ phận của thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất. Thế giới
vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận.
2. Nguồn gốc bản chất và bản chất của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên
nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. lOMoAR cPSD| 59960339
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn
gốc của ý thức; coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến
hoá lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của
thực tiễn xã hội - lịch sử của con người
2.2. Bản chất của ý thức:
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá
trình phản ảnh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc con người. Ý thức có
đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Đây là một đặc tính
căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm lý
động vật. Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất ý của ý thức cho thấy, ý thức
là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ
sở thực tiễn xã hội – lịch sử.
2.3. Vai trò của ý thức:
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và
khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức
chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của
con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “ Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại”.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn: lOMoAR cPSD| 59960339
Một là, vật chất có vai trò quyết định ý thức. Do tồn tại khách quan nên vật
chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại của vật chất nên
là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất
trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất,
chịu sự chi phối, quyết định của vật chất.
Hai là, ý thức tác động trở lại vật chất. Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý
thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất gò bó mà có thể tác động
làm thay đổi vật chất.
Chương 2: VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG 1. Trong nhận thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức luôn ảnh hưởng đến nhau và vì vật chất quyết
định ý thức nên nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân mỗi người
phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến các mặt trong cuộc sống
và từ đó tôn trọng, hoạt động theo quy luật khách quan. lOMoAR cPSD| 59960339
Trước khi hành động, cần phải xem xét các khả năng, các điều kiện cần và đủ
từ thực tế- các điều kiện trên được coi là vật chất; thì từ đó mới quyết định ý thức dẫn
đến nhận thức về các mặt có tính đúng đắn. Ví dụ như để đạt được kết quả cao trong
các kì thi cần xem xét các điều kiện thực tế: yêu cầu môn học, trọng tâm môn học,
học lực bản thân,... so với mục tiêu đề ra để nhận thức được vật chất nêu trên có đủ
để bản thân thực hiện được các mục tiêu hay không. Sau đó sẽ có nhận thức đúng đắn
dẫn đến hành động đúng đắn. Hay trong những năm gần đây, dịch COVID-19 luôn là
vấn đề được quan tâm nhất. Khi tình hình dịch diễn biến phức tạp, nhìn nhận từ thực
tế thấy được sự nguy hiểm khi các chủng virus mới xuất hiện, các ca mắc nguy kịch
hoặc tử vong tăng lên liên tục. Khi nhìn nhận từ thực tế người dân có thể nhận thức
được sự nguy hiểm của dịch bệnh, từ đó hành động tích cực phòng tránh, giảm thiểu các ca bệnh tăng lên.
Mối quan hệ vật chất - ý thức tác động về mặt vĩ mô hơn như hình thức của
Nhà nước Việt Nam đã bỏ qua hình thức Nhà nước tư bản để phát triển từ Nhà nước
phong kiến đến quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Từ thực tế cho thấy Cách mạng Việt
Nam mang đặc điểm của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn nữa Việt
Nam còn là một đất nước yêu chuộng hoà bình tự do nên việc phát triển đất nước,
cách mạng theo con đường tư hữu về tư liệu sản xuất hay cách mạng Tư sản là điều
không thể thực hiện và hoàn toàn không phù hợp với thực trạng cũng như lịch sử Việt
Nam. Song để thay đổi trực tiếp từ Nhà nước phong kiến sang Chủ nghĩa xã hội trong
thời gian ngắn là việc làm không khả thi. Bởi bất cứ quá trình biến đổi nào cũng cần
có thời gian thay đổi các mặt nhỏ rồi mới đến lớn, thay đổi từng cái riêng mới dẫn
đến từng cái chung. Thông qua những yếu tố hiện thực khách quan có thể thấy nhận
thức để phát triển đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp. lOMoAR cPSD| 59960339 2. Trong hành động
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có tác động đến các hoạt động
trong đời sống hàng ngày theo hai hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.
Nếu con người có nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng,
có nghị lực, có ý chí thì hành động sẽ phù hợp với các quy luật khách quan, con người
có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình,
thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Có thể nói ý thức chính
là kim chỉ nam cho mọi hoạt động thức tiễn trong đời sống của con người.Song đó,
nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích
hoạt động. Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ý thức là tiền đề cho hoạt động
nghiên cứu, vật chất là điều kiện để thực hiện hóa ý tưởng nghiên cứu ấy.
Ý thức giúp con người hình thành ý tưởng, mục đích, phương pháp, cung cấp tri thức,
ý chí để đề xuất đề tài nghiên cứu. Còn vật chất thì đóng đóng vai trò thúc đẩy, hiện
thực hóa các công việc trong ý thức nêu trên nhằm đạt được mục đích cải biến khoa
học, phục vụ được nhu cầu sống của con người. Vật chất và ý thức luôn tồn tại và
phát triển song hành, vì vậy mọi hoạt động sống của con người luôn cần cân bằng
được vai trò của cả hai điều nói trên thì mới có thể đạt được kết quả như mục tiêu mong muốn.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản
chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi
ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt
động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều hình
thành từ những ý tưởng nảy sinh từ ý thức, do đó ý thức đóng vai trò rất quan trọng
đối với kết quả của những hành động đó. Theo ví dụ về hoạt động nghiên cứu khoa
học như trên thì trách nhiệm của ý thức càng thể hiện rõ ràng. Nếu như ngay từ ban
đầu ý thức phản ánh lệch lạc thì những ý tưởng, phương pháp, mục đích cho hoạt
động nghiên cứu trên sẽ trở nên vô nghĩa, và có thể gây ra nhiều hậu quả không lường lOMoAR cPSD| 59960339
trước. Hầu hết các nghiên cứu khoa học đều dựa vào tình hình thực tiễn của cuộc
sống, dựa trên các quy luật vốn mang tính đúng đắn. Vì vậy, sự lệch lạc xuất hiện ở
bất kỳ giai đoạn nào cũng có thể để lại hậu quả về sau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
mục tiêu của hoạt động.
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ta có thể nhận thấy được ý nghĩa hết sức quan trọng
trong hoạt động thực tiễn của con người như sau: Mọi hoạt động của con người (cả
hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan,
phát huy được tính năng động sáng tạo của ý thức. lOMoAR cPSD| 59960339
Chương 3: SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG CHỦ QUAN DUY Ý CHÍ
Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải
xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực
tiễn ảnh hưởng đến học tập của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, môn học, giờ
học, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học
và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra. Ngoài ra cần phải tuân thủ theo nội quy
nhà trường, chấp hành quy chế trong học tập. Trong thời gian dịch bệnh Covid19 diễn
biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh nên thực hiện các
phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, tham gia học trực tuyến để
bảo vệ sức khỏe của bản thân vào gia đình cùng mọi người xung quanh.
Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Tôi chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản
thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, phát huy tính sáng tạo
trong học tập. Trước mỗi ngày học, tôi xem trước giáo trình của ngày hôm đó, phát
biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài
liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm
tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức
xã hội. Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất
của mình qua việc đọc sách, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động,
bảo thủ, không trì trệ, không chủ quan trước mọi tình huống. Khi tham gia thảo luận
nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều mà các thành viên góp ý để hoàn thành
công việc. Cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý hay ý mới, việc hôm nay không để
trì trệ sang ngày mai. Không đăng kí học phần quá nhiều tránh việc học quá sức dẫn
đến kết quả không như ý, gây hao phí thời gian, tiền bạc, công sức. lOMoAR cPSD| 59960339
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội. [c. 2021]. Giáo trình Triết học
Mác - Lênin: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị.