



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601779
I - Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Trong xã hội ngày nay, tầng lớp sinh viên ngày càng trở lên quan trọng với cuộc sống.
Họ xuất thân từ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội và cùng học tập trong môi trường
đại học. Đây có thể coi là bộ phận ưu tú của thanh niên nói chung vì họ đã được sàng
lọc qua các kỳ thi tuyển sinh quốc gia. Trong môi trường đại học lực lượng này được tập
hợp có tổ chức, có quản lý chặtchẽ của nhà trường và các tổ chức đoàn thể như hội sinh
viên, đoàn thanh niên, do đó dễ dàngthống nhất hành động theo những mục tiêu chung.
Hơn nữa sinh viên là lớp người có khả năngtiếp thu những cái mới, nhạy cảm với những
biến động của tình hình kinh tế xã hội. Cuộc sống ở môi trường đại học nảy sinh ở sinh
viên những nhu cầu như tìm hiểu, mở rộng kiến thức, nhu cầu tự học, tự đào tạo,. .. .
ngày càng phát triển theo định hướng nghề nghiệp trong quá trìnhhọc
Về cơ sở lý thuyết, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật
chất với ýthức đồng thời vạch rõ sự tác động ngược trở lại vô cùng quan trọng của ý
thức đối với vật chất.Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức
có tính độc lập tương đốinên tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nói tới vai tròcủa ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là
ý thức của con người. Bản thân ý thứckhông thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức
muốn tác động trở lại hiện thực phải bằnglực lượng vật chất, nghĩa là phải được con
người hoạt động trong thực tế. Điều này cho thấy ýthức có vai trò quan trọng trong quá
trình học tập của sinh viên. Thực tế cho thấy ý thức củasinh viên thường biến đổi theo 2 xu hướng :
Xu hướng tích cực: khi đứng trước những mâu thuẫn hay khó khăn, bằng sự thông minh,
sáng tạo và nghị lực, nhiều sinh viên biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để vượt qua
những thử thách của cuộc sống sinh viên. Họ đi từ thành công trong học tập đến những
thành công trongnghiên cứu khoa học, trong hoạt động đoàn thể,. . .
Xu hướng tiêu cực: những sinh viên này biểu hiện thái độ thờ ơ, chán nản. Họ không có
mục tiêu về cuộc sống, chạy theo lợi ích cá nhân, giả dối, gian lận trong thi cử. Họ nhận
được kết quả không tốt trong học tập, ít có các mối quan hệ xã hội,. . .Hơn bao giờ hết,
hiện nay xã hội đang quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung và tới giáodục sinh
viên nói riêng. Vì vậy, để có thái độ sống tích cực, sinh viên cần có tính tự giác tronghọc
tập, tự tìm tòi nghiên cứu, sáng tạo. Sinh viên phải có được những phương pháp để tiếp
thutri thức thời đại, rồi vận dụng những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng xã hội
ngày càngphồn vinh, tươi đẹp. Bên cạnh việc học tập, sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động xã
hội, phát triển kỹ năng mềm. Việc phát triển bản thân sẽ giúp sinh viên có năng lực chuyên môn
tốt hơn khi ra trường, đáp ứng những yêu cầu của thị trường về chuyên môn và nghiệp vụ lOMoAR cPSD| 61601779
chốt, giữ vai trò chủ yếu. Đồng thời thay đổi kinh tế tài chính là một yếu tố cấp bách, bởi
giữa đổi mớikinh tế và thay đổi chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ được
cho phép tất cả chúng ta tậndụng vào mối quan hệ giữa kinh tế tài chính và chính trị, giúp
cho công cuộc thay đổi của quốc gia ngày càng giàu mạnh
https://123docz.net/document/4719066-moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-va-
ythuc-van-dung-vao-doi-song-sinh-vien.htm
II - Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Một là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi sinh viên nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật,
hiện tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật,
hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động vào đối tượng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần
giúp cho sinh viên có thể nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Hai là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hành động. Quan
điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh viên trong nhận thức và xử lý các tình huống, giải thích các hiện
tượng cần phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận thức. Khi nhận thức sự vật và tác động vào
sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra,
tồn tại, phát triển. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể, trong tình huống cụ thể.
Ba là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức và trong hoạt động thực
tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, mà
còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy được những biến đổi
đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải
thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Sinh viên
phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù
hợp thúc đẩy sự vật phát triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu phương pháp luận rút ra từ
các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Năm là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu những quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Với quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên trong nhận thức và hành động
phải biết đi từ những tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất, cách thức tích lũy về lượng (tăng về
số lượng, thay đổi cách sắp xếp các yếu tố cấu thành, hay cả hai), phải có quyết tâm để tiến hành
bước nhảy thông qua vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Cần khắc phục hai tư tưởng
trái ngược nhau là tư tưởng tả khuynh (nôn nóng, bất chấp quy luật, chủ quan duy ý chí) và tư tưởng
hữu khuynh (bảo thủ, trì trệ). Với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, giảng viên cần
rèn luyện cho sinh viên hiểu sâu sắc rằng, để nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng
và tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật;
phải xem xét sự vật trong thể thống nhất những mặt (nét tương đồng), những khuynh hướng trái
ngược nhau, tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
mặt đối lập đó; phải biết phân loại mâu thuẫn để đưa ra phương pháp đấu tranh cho phù hợp (tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển). Đối với lOMoAR cPSD| 61601779
quy luật phủ định của phủ định, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật là đường “xoáy ốc”, hiểu rõ quá trình phát triển của sự vật không phải lúc
nào cũng đi theo đường thẳng, mà nhiều khi diễn ra quanh co, phức tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác
nhau và ở mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm riêng biệt, nên phải có cách tác động phù hợp,
phải biết ủng hộ cái mới, đồng thời kế thừa có chọn lọc những cái vốn có tinh hoa của cái cũ…
Sáu là, rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên nghiên cứu nội dung Lý luận nhận
thức duy vật biện chứng. Cần rèn luyên sinh viên nắm vững quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều. Nhận thức là
một quá trình, lặp đi lặp lại không có điểm dừng: từ thực tiễn tới nhận thức – từ nhận thức lại trở về
thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình nhận thức và loài người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên
phải nhận thức được chân lý là khách quan, chống những quan điểm chủ quan cho rằng chân lý là
thuộc về kẻ mạnh, chân lý thuộc về đa số, chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán
chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính tương đối, vừa mang
tính tuyệt đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích
cụ thể ở mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan
của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định [6, tr.364]. Phương pháp luận biện chứng
phải được xét trên lập trường duy vật, nên phải chú ý phần thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
http://hict.edu.vn/khoa-hoc-co-ban/van-dung-phuong-phap-luan-duy-vat-de-nang-cao-nang-luc.htm Nguyễn Thị Thùy
Khoa Khoa học cơ bản
Trường ĐHCN Dệt May Hà Nội
III. Quy luật lượng – chất
1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại học:
VD: Nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một năm, trong khi ở Đại học
một môn chỉ kéo dài khoảng từ 1 đến 2 tháng. Sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức
sẽ khiến tân sinh viên gặp nhiều khó khăn. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức,
học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức.Chính sự thay đổi về
khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều tân sinh viên gặp khó
khăn trong quá trình thích nghi với môi trường học tập, giáo dục mới. Khác với phương
pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải tham gia rất nhiều hoạt động nhóm,
thuyết trình, ngoại khóa ... các môn học tại bậc Đại học rất đa dạng và mới mẻ, ngoài việc
đọc sách giáo trình, sinh viên còn phải tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan.
Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có
thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng
thành chất. Chính vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù
hợp để đạt được những thành tích cao trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình. lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779
4. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng – chất
Vận dụng vào tìm hiểu về cách thức vận động của quá trình tích lũy kiến
thức của học sinh.
Mỗi học sinh, sinh viên cần phải tích đủ lượng. Thể hiện với các lộ trình bài
giảng theo chương trình học. Đảm bảo các tiếp cận với các dạng, các mức độ
bài tập khác nhau. Tương ứng với các cấp học theo chương trình đào tạo, Khi
lượng đạt tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện bước nhảy. Nó đảm bảo
mang đến hiệu quả của cả một giai đoạn. Không được nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn. Vì sẽ không mang đến chất lượng học nếu không chăm chỉ, chịu khó.
Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện lựa chọn cho sinh viên. Cân nhắc với
chương trình học đảm bảo khả năng. Nhiều sinh viên cảm thấy mình đủ năng
lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Do đó thực hiện khối lượng lớn
kiến thức trong thời gian không đảm bảo. Nó tùy vào khả năng của từng người.
Tuy nhiên nhiều sinh viên không đủ khả năng để theo. Dẫn đến hậu quả là phải
thi lại chính những môn đã đăng kí học vượt. Không mang đến hiệu quả đối với
tổng hợp và tích lũy lượng. Đương nhiên không thể sinh ra chất mới. Thực hiện
với chất lượng học tập không đảm bảo. Và dẫn tới hậu quả là không qua môn lOMoAR cPSD| 61601779
mà phải đóng tiền học lại. Kéo dàu thời gian cũng như tăng thêm học phí so với tính toán.
Nếu các sinh viên chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút. Việc thực
hiện bước nhảy sẽ không có cơ sở đảm bảo để thành công. Nếu cố thực hiện
bước nhảy, đi ngược lại với quy luật lượng – chất. Sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu
là sự thất bại. Đó chính là ứng dụng của quy luật lượng chất vào giải thích trên thực tế.
Lượng chưa tích lũy đủ không đảm bảo cho chất mới được hình thành và phát triển:
Thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn bệnh thành
tích. Đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Với các con số tổng hợp
mang đến hiệu quả trên giấy tờ. Trong khi nếu thực hiện đúng tích lũy, thành
tích của người học là chưa đảm bảo theo trang bị cần thiết.
Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết. Chưa có đủ kiến thức tổng
hợp của cấp học, kỳ học đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước
nhảy. Với các tác động từ bên ngoài thay vì lượng kiến thức học sinh có. Điều
này đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người không có cả “chất”
và “lượng”. Là kết quả và sản phẩm không thành công trong giáo dục và trình độ văn hóa.
Dẫn đến học sinh không viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp. Vì nếu cho ở
lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. Trên nền
tảng cơ bản trong thành tích, danh hiệu thi đua của cơ sở giáo dục.
Ví dụ điển hình:
Như vụ việc vào tháng 10/2014. Chị Hoàng Thị Thu (trú xóm Hồng Tiến, xã
Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) không đồng ý con trai mình là Bảo
Quân bị nhà trường “bắt ép” lên lớp 2. Phụ huynh này đã xin cho con học lại
lớp 1. Vì cháu chưa thuộc hết bảng chữ cái. Các chữ O, A…, em cũng không
biết. Có thể thấy được với các nền tảng kiến thức cần trang bị ở lớp 1 chưa
được đảm bảo. Việc thực hiện bước nhảy với chất mới sinh ra là lên lớp 2. Sẽ
dẫn đến các tồn tại đối với chất lượng tiếp thu kiến thức thực tế của học sinh. lOMoAR cPSD| 61601779
Tuy nhiên, yêu cầu cho con học lại lớp 1 của chị Thu không được giáo viên chủ
nhiệm chấp thuận. Vì ảnh hưởng thành tích phổ cập giáo dục của nhà trường.
Đến gặp ban giám hiệu, chị cũng nhận được cái lắc đầu vì lý do tương tự.
Điều này cho thấy tầm quan trọng trong thành tích và danh hiệu. Thay vì các
nhìn nhận trên lợi ích và ý nghĩa thực tế của công tác giáo dục. Kiến thức và
trình độ văn hóa không được đảm bảo đề cao đối với yêu cầu và hiệu quả giảng dạy.
Chưa tích lũy đủ lượng, sẽ không có phát triển:
Việc đốt cháy giai đoạn, không đảm bảo về lượng mang đến tồn tại.
Tuy nhiên nhìn theo chiều ngược lại. Nếu lượng đã tích đủ, đạt đến điểm nút
mà vẫn không thực hiện bước nhảy. Không mang đến các dấu mốc và kết quả
được hình thành. Thì quan niệm phát triển cũng chỉ là sự tiến hóa đơn thuần
về lượng, không phải về chất. Sự vật trên thực tế sẽ không phát triển được.
Có thể nhìn nhận với các bằng cấp và trình độ yêu cầu trong công việc. Nếu có
trình độ, năng lực nhưng không có bằng cấp cũng nhận được nhiều lời từ chối.
Và có bằng cấp nhưng không có kinh nghiệm cũng vậy. Phải đảm bảo các vận
động luôn được tiến hành. Các chất mới được sinh ra đảm bảo ý nghĩa và nội dung cần thiết của nó.
Xác định các điểm nút và bước nhảy chắc chắn:
Hình thức bước nhảy của sự vật trên thực tế rất đa dạng, phong phú. Thực tiễn
cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy trong những điều
kiện, lĩnh vực cụ thể. Xác định với các dấu mốc và ý nghĩa của bước nhảy. Với
các thành tích đạt được, xác định với chất mới hình thành.
Việc tiếp thu kiến thức không thể áp dụng hình thức bước nhảy đột biến. Học
sinh mới đi học không thể tham gia kì thi tốt nghiệp. Phải thực hiện bước nhảy
dần dần: Vượt qua các bài kiểm tra nhỏ, kiểm tra học kì, lên lớp. Cuối cùng là
bài thi tốt nghiệp cuối cấp. Đúng với quy luật và đạt được hiệu quả.
Mang đến hiệu quả, ý nghĩa và chất lượng được công nhận trên thực tế.
Từ đó đưa ra giải pháp nhằm khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng: lOMoAR cPSD| 61601779
Sự chuyển hóa, quá trình chất – lượng vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong hoạt
động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên. Bởi có như vậy hoạt động đó
mới có hiệu quả. Góp phần đào tạo ra những con người cú đủ cả chất và lượng
để đưa đất nước ngày một phát triển hơn. Mang đến các điều kiện hình thành
và đảm bảo về năng lực, đạo đức. Các nền tảng đó giúp khẳng định với trình
độ văn hóa theo tiêu chuẩn và yêu cầu.
IV. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Ví dụ về sự thống nhất giữa các mặt đối lập
Trong mỗi xích míc thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng sống sót, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập .
Ví dụ như trong hoạt động giải trí kinh tế tài chính thì sản xuất và tiêu dùng
tăng trưởng theo những khunh hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính
là việc tạo ra của cải vật chất, mẫu sản phẩm để hoàn toàn có thể phân phối
được nhu yếu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục tiêu sau cuối của
việc sản xuất, toàn bộ những mẫu sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng .
Sản xuất là việc tạo ra mẫu sản phẩm và là đối tượng người dùng hoàn toàn
có thể phân phối cho việc tiêu dùng. Nếu như không có quy trình sản xuất
để tạo ra loại sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không hề có tiêu dùng .
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng,
đây không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định
do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng người dùng của tiêu dùng mà nó còn
quyết định hành động về phương pháp tiêu dùng. Sản xuất phân phối các
loại sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu yếu cho người tiêu dùng. Điều
này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại loại sản phẩm nào đó thì mới tạo
ra nhu yếu tiêu dùng so với loại sản phẩm đó .
Do vậy hoàn toàn có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự
thống nhất của hai mặt đối lập, chúng có đặc thù tương đương và có mối
liên hệ mật thiết, ngặt nghèo với nhau từ đó tạo điều kiện kèm theo cho nhau
cùng chuyển hóa, cùng tăng trưởng . lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779
V. Quy luật phủ định của phủ định
Nội dung về vận dụng quy luật phủ định của phủ định trong học tập Trước hết, về
đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ngành giáo dục và đào tạo. lOMoAR cPSD| 61601779
Cần thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có phẩm chất chính
trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo – chất lượng “trồng người”. Đội ngũ giáo viên phải có đạo đức nghề nghiệp,
trình độ chuyên môn, có ý chí vươn lên, khả năng tiếp cận nhanh được các phương
pháp dạy học mới, hiện đại và có tinh thần mạnh dạn áp dụng các phương pháp
hiệu quả; chuyển dạy học thụ động sang dạy học tích cực, lấy người học làm trung
tâm; đổi mới nội dung và phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý.
Cán bộ quản lý: có trình độ, bản lĩnh, nhiệt tâm, thân thiện, có kinh nghiệm điều
hành và có ý chí vươn lên, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, làm đầu tàu
cho đội ngũ sư phạm nhà trường. Có tinh thần mạnh dạn đổi mới, xây dựng được
các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Tiếp theo là về người học:
Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bòi dưỡng nhân tài và
coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao
động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý
chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là quyền và nghĩa
vụ của công dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học phí để khuyến khích
và giúp đỡ người học gặp hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo cho tất cả mọi người đều
được đi học, trường học không có sự phân biệt dân tộc, giàu – nghèo, tôn giáo, tín
ngưỡng, nam – nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội… Mọi công dân đều được bình
đẳng về cơ hội học tập, để người giỏi được phát huy tài năng.
Sau đó, về cơ sở vật chất – Kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục xã hội hóa sự nghiệp
giáo dục là coi phát triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Kêu
gọi và huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư vào giáo dục, đa dạng hóa các
loại hình trường học và các hình thức giáo dục, xây dựng xã hội học tập đáp ứng
nhu cầu học thường xuyên, học suốt đời của nhân dân.
Cuối cùng là, vai trò giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Nền giáo dục Việt Nam phát triển theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội và gia đình. 2) lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779
VI. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779 lOMoAR cPSD| 61601779