/6
lOMoARcPSD| 61601779
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam PGS.TS Trần Văn Phòng - Học viện
CT-HCQG Hồ Chí Minh
Giải quyết mối quan hgiữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị một ni
dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta
từ khi đổi mới đến nay. Sự nhn thức giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng
cũng khâu đột phá trong duy thực ễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của
Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai
trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị thống soái, quyết định kinh tế và tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan
hệ với chính trị. Vchế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác
động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp
quá sâu vào các quá trình kinh tế - hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ
quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan
liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay t
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”
1
. Đây là nhận thức đúng cả v mặt luận cả về
mặt thực ễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân tập thsang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vn
hành theo chế thtrường sự quản của Nhà ớc, dưới slãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là ớc chuyển từ nền kinh
tế bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối vi khu vực thế giới, kết hp
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng hội, bảo vệ
môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trịqua các văn kiện của Đảng được hiểu đổi
mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị, trước hết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới,
nâng cao hiệu quả qun của Nhà nước XHCN nhằm givững ổn đinh chính trị
để y dựng chế đXHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chXHCN
nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà
ớc pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61601779
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không nghĩa
bảo thủ, trì trệ, ngược lại vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các
lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. n
định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực quản của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình đổi mới đất nước.
Để givững ổn định chính trị, tưởng trong Đảng trong nhân dân, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên
tắc bản đchđạo toàn bquá trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN:
“Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, m phong
phú những quan niệm đúng về thời đại, về chnghĩa hội, vn dụng sáng tạo
vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị. Không thể ến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã
khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không giới hạn, không có mục êu cụ th
và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mt ổn định về chính trị, y thiệt hi
cho sự nghiệp đổi mới”
2
. Một ớc đi cực k đứng đắn thể hiện được bản lĩnh
chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta chế độ làm chủ của nhân n
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa
nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và
hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần thực
hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế
3
.
Chtrương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trđược ếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thVII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng
sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó điều kiện quan trọng để ến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ năng lực sáng to của nhân dân trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
4
. Kinh nghiệm thành công của sự kết
hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần th
VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mi
chính trị
5
.
lOMoARcPSD| 61601779
Đó những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu
nguyện vọng của nhân n lao động, những quan điểm này ếp tục được khẳng
định trong các kĐại hội IX, X với mục êu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, kế
thừa, bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhn thức,
duy đến hoạt động thực ễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả
các lĩnh vực của đi sống hội; từ hot động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà
ớc đến hoạt động cụ thtrong từng bphận của hệ thống chính trị
6
. Đại hội
XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi
mới chính trị phải đồng bvới đổi mới kinh tế theo ltrình thích hợp, trọng tâm
hoàn thiện thể chế kinh tế thtrường hội chủ nghĩa, đổi mới phương thc
lãnh đạo của Đảng, y dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, mrộng
dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..
7
. Như
vy,vđổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thin
thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thtrường XHCN,
Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thnhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện
đại là ền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thhai, đổi mới việc y dựng thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, ền tệ bo
đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực
hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực ếp hoàn thiện thchế kinh tế th
trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Vđổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN;
mở rộng dân chủ trong Đảng trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kcương.
Đây balĩnh vực bản, trọng yếu mang nh đột phá trong đổi mới chính tr.
Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thnhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thhai, khắc phục nh trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
lOMoARcPSD| 61601779
Thba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tquc
và các đoàn thể nhân dân.
Thtư, đổi mới phong cách, llối làm việc của các quan lãnh đạo của
Đảng ttrung ương đến địa phương sở; cải cách thủ tục nh chính trong
Đảng.
Thnăm, đổi mới cách ra nghquyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ
trương:
Thnhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, ếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thba, y dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, năng lực đáp ứng
yêu cu trong nh hình mi.
Thứ tư, ch cực thực hành ết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thnhất, ếp tục xây dựng hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết
thực hiện dân chủ trong Đảng.
Thhai, chế cụ thđể nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực ếp
của mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương; phê phán, nghiêm trhành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân n, những
hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục êu y dựng
ớc Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm
êu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới phát triển”
8
nói chung, đổi mới kinh tế đổi mới chính trị ớc ta nói riêng. Tiêu chí này
chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, skết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến ch cực đối với đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thnht, thành công lớn nhất quan trọng nhất ý nghĩa sống còn đối
với dân tộc Việt Nam là chúng ta ến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu
từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước XHCN khác ở
Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị
lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh givững ổn định chính trị, gi
lOMoARcPSD| 61601779
vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh
và đổi mới kinh tế.
Thhai, nhđịnh hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển
đổi cơ chế và cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực ễn, kinh tế của
ớc ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rrệt. Người
dân n tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm
bảo. Nhờ có duy mới dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới
đã gắn chặt với thực ễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ
trương, chính sách vừa nh định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi
mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo ền đề để gii phóng sức sản xuất xã hội,
phát huy nh thần sáng tạo, nh ch cực chính trị của nhân dân. Nhân dân ch
động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trđể y dựng, phát triển
kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhvậy, “Sau 20 năm
hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi nh trạng
kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rệt. Hệ thống chính trị
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường
9
.
Bên cạnh những thành công vừa u trên, việc vận dụng xử mối quan hệ
biện chứng giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trcủa chúng ta còn nhiều
đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và
phức tạp do thực ễn luôn vận động thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cn phải khẳng định đúng đắn,
tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn
cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của
Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh
tế: “Nền n chủ hội chủ nghĩa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa
được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, y dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tquc,
các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”
10
; “Xây dựng Nhà ớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế quản lý đất nước”
11
;
công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục”
12
.
Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hvới đổi mới kinh tế y
đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vn đề
đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và
phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà
ớc. Mặt khác, trong đổi mới chính trchúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý
nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chchưa thực sự ến nh đổi mới con
người chính trị-ch thhoạt động chính trị chế hot động có hiệu quả của
hệ thống chính trị.
lOMoARcPSD| 61601779
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần ếp tục nhận thức và giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu
cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ớc ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Sđd, tr.71.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI, tr.17.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Sđd, tr.54.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Sđd, tr.14.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Sđd, tr.70.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.99-100.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.100.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.20.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.179.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.171.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601779
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam PGS.TS Trần Văn Phòng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội
dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta
từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng
cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai
trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan
hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác
động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp
quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ
quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan
liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”1. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh
tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi
mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị
để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN
nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61601779
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa
là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các
lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn
định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên
tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN:
“Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong
phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã
khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể
và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại
cho sự nghiệp đổi mới” 2. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh
chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa
nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và
hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực
hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế” 3.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết
hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5. lOMoAR cPSD| 61601779
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng
định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế
thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, tư
duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà
nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”6. Đại hội
XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi
mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm
là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng
dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”7. Như
vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN,
Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện
đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo
đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực
hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN;
mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị.
Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước. lOMoAR cPSD| 61601779
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là
thực hiện dân chủ trong Đảng.
Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp
của mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những
hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm
tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”8
nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí này
chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối
với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu
từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước XHCN khác ở
Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị
lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ lOMoAR cPSD| 61601779
vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển
đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của
nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người
dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm
bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới
đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ
trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi
mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội,
phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ
động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển
kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm
hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử.
Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng
kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường”9.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ
biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn có nhiều
đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và
phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn,
tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn
cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của
Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh
tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa
được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”10; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”11;
“công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục”12 .
Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này
đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề
đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và
phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà
nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý
nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con
người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị. lOMoAR cPSD| 61601779
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu
cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH
nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn. __________ 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.71. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI. 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI, tr.17. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.54. 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.14. 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.70. 7.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.99-100. 8.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.100. 9.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.20.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.179.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.171.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172.