Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại và nhu cầu thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học trở thành vấn đề hết sức quan trọng, hàm chứa trong đó các nội dung phong phú và sâu sắc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHỦ ĐỀ 7: MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC
A. VỀ MẶT LÍ LUẬN
1. Bối cảnh lịch sử
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại và nhu cầu thực tiễn hiện nay, mối
quan hệ giữa triết học và các khoa học trở thành vấn đề hết sức quan trọng, hàm chứa trong đó các nội
dung phong phú và sâu sắc. Về mặt lí luận, triết học đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận
phổ biến cho các khoa học, là cơ sở để đánh giá thành tựu của các khoa học, vạch ra phương hướng
phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp
cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành quan điểm chung nhất, đồng thời các
thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của triết học.
Thời đại ngày nay gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với những biến đổi hết
sức đa dạng và phức tạp trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học cần phải giải quyết đúng đắn, kịp thời những yêu cầu lý
luận và thực tiễn cấp bách. Đặc biệt, những thành tựu mới của các khoa họchiện đại và thực tiễn xã hội
đang đặt ra những vấn đề mới mà triết học cần phải có sự giải đáp thuyết phục nhất, cũng như đòi hỏi
các nhà khoa học cần có sự định hướng đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt
động nghiên cứu, xác định đối tượng, nội dung, mục đích nghiên cứu khoa học của mình. Sự giải đáp
này chỉ có thể thực hiện được khi một mặt các nhà khoa học cần phải nắm vững và vận dụngđúng đắn,
sáng tạo thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, mặt khác các nhà triết học kịp
thời nắm bắt và khái quát các thành tựu mới nhất của các khoa học hiện đại để bổ sung, phát triển lý
luận triết học, vận dụng sáng tạo vào trong nhận thức và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa triết học và các khoa học có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2. Vị trí của mối quan hệ giữa triết học và các khoa học trong nhận thức và thực tiễn
Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài của triết học và các khoa học, mối quan hệ giữa triết
học và các khoa học đã trở thành một trong những “vấn đề triết học” được bàn luận sâu rộng; xung
quanh nó luôn luôn tồn tại những quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Có quan điểm tuyệt đối
hóa vai trò của triết học, hạ thấp hay coi thường vai trò của các khoa học, cho rằng chỉ cần nắm được
triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể củađời sống. Ngược lại, có quan điểm tuyệtđối
hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học và cho rằng: thứ nhất, triết học
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả của nó không có tác dụng thiết
thực; thứ hai, triết học không có phương pháp riêng và trang thiết bị nghiên cứu riêng như các khoa
học cụ thể nên tính chân lý của các kết luận triết học khôngđược bảo đảm.Có thể nói, cả hai quan điểm
trên đây về mối quan hệ giữa triết học và các khoa học thực chất là cực đoan, sai lầm và đều rơi vào
một trong hai thái cực của cùng một lối tư duy siêu hình. Bởi lẽ, để giải quyết một cách có hiệu quả
những vấn đề cụ thể mà cuộc sống đặt ra, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: một là,tri
thức lý luận (trong đó có tri thức triết học và tri thức các khoa học chuyên ngành) và hai là, tri thức
thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề, kinh nghiệm được biểu
hiện, trải nghiệm qua sự nhạy cảm với thực tiễn).
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem lại một quan điểm mới, tích cực về mối quan hệ
giữa triết học và các khoa học. Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, dưới ánh sáng của
khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học được hiểu ở một tầm
cao mới, sâu sắc hơn, gắn liền với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Giải quyết mối quan hệ
này có ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển của bản thân triết học, cũng như của các khoa học, và có
tầm quan trọng đặc biệt tác động đến sự phát triển của đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện chứng, vừa có sự thống nhất
vừa có sự khác biệt, tác động qua lại lẫn nhau. Triết học và các khoa học đều là khoa học, thuộc về
lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, là các hình thái ý thức xã hội nên đều là sự phản ánh tồn tại xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Cả triết học, cả các khoa học khác đều có nguồn gốc sâu xa
xuất phát từ thực tiễn, là sản phẩm của thực tiễn, do nhu cầu phát triển của sản xuất và đời sống, đều
hình thành và phát triển gắn liền với thực tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu tất yếu của con người. Chính
điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định trong tác phẩm bút chiến “Chống Đuy-rinh”: “Cũng như tất
cả các khoa học khác, toán học sinh ra từ những nhu cầu thực tiễn của con người”. Cùng với sự phát
triển của sản xuất vàthực tiễn, đối tượng nghiên cứu của triết học và các khoa học ngày càng trở nên
đa dạng, phức tạp nên triết học cùng các khoa học cũng không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày
càng quan trọng đối với đời sống xã hội. Mặt khác, triết học và các khoa học khác có điểm chung là sử
dụng các công cụ của tư duy logic, của lý trí, trí tuệ con người thông qua sự khái quát hóa, trừu tượng
hóa, hệ thống hóa để thiết lập nên các mệnh đề, nguyên lý, phạm trù, quy luật.
Như vậy, cơ sở khách quan của mối quan hệ giữa triết học và các khoa học, đó là thực tiễn. Trên
cơ sở thực tiễn mà triết học và các khoa học, hình thành và phát triển. Nhờ có thực tiễn mà các nguyên
lý, quy luật, phạm trù của triết học, các kết quả của các khoa học mới thể hiện tính chân lý, thể hiện sự
phù hợp với hiện thực. Chính thực tiễn là cơ sở thống nhất giữa triết học và các khoa học. Thực tiễn đã
gắn kết triết học và các khoa học trong mối quan hệ biện chứng và tạo thành một chỉnh thể – một hệ thống các khoa học.
Tính đặc thù của mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là ở chỗ, tùy vào từng giai đoạn
phát triển cụ thể mà cái này hay cái kia nổi trội lên hàng đầu đóng vai trò chi phối. Giữa triết học và
các khoa học có sự tác động qua lại lẫn nhau; trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận cho sự phát triển của các khoa học khác, còn các khoa học cung cấp dữ liệu để từ đó
triết học khái quát thành các quan điểm chung nhất, kiểm chứng các luận điểm của nó.
B. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển khoahọc.
1. Thế giới quan và phương phápluận.
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con người về thế giới nói
chung bao gồm cả con người trong đó, về quan hệ của con người đối với thế giới. Thế giới quan phản
ánh hiện thực bênngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội.
Tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu hiện có thể có nhiều loại thế giới quan khác nhau: thần
thoại, tôn giáo, khoa học, đạo đức, mỹ thuật, chính trị, triết học… Xét về phương thức biểu hiện, triết
học là thế giới quan lý luận, là hệ thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và
nhận thức. Xét về tính chất, triết học là sự khái quát chung nhất, là tư duy tổnghợp. Những quan điểm,
tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích cực tham gia vào định hướng thái độ của con
người đối với với các hiện tượng, các sự kiện quan trọng trong hiện thực và trong cuộc sống, xác định
“chỗ đứng của con người trong thế giới”. Đối với triết học, những quan điểm tư tưởng ấy còn giúp
hình thành nên các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo con người trong các hoạt động của mình để đạt được
mục đích hay nói cách khác là chúng thực hiện chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận triết
học, do xuất phát từ những quan điểm, quan niệm chung nhất, nên cũng chỉ là phương pháp luận
chung nhất. Nó chỉ nêu lên những điều kiện chung cần thiết để giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ cụ
thể, chứ không phải trực tiếp giải quyếtchúng.
2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển khoahọc
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với khoa học, được hầu
hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng mình không cần đến một quan
điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết học rồi, chỉ có điều đó chính là một
quan điểm triết học mơ hồ nhất. Đây cũng chính là tư tưởng của Engels khi ông nói: “ những ai phỉ
báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của
triết học”. Albert Einstein nhà khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ XX không ít lần chỉ rõ các khái quát
triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên khi đã xuất hiện chúng thường ảnh hưởng đến
sự phát triển khoa học, chỉ ra phương hướng phát triển nhất định của khoa học. Max Planck nhà vật lý,
cha đẻ của cơ học lượng tử khẳng định rằng, thế giới quan củangườinghiên cứu luôn tham gia vào việc
xác định hướng nghiên cứu của người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học trước hết là ở
vai trò nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân tích, sự lý giải triết học các dữ liệu khoa
học cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái quát chung hơn và sâu sắc hơn. Hàng
loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình thành và phát triển như là các phạm trù của cả
triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”,
“nguyên nhân”, “lượng”, “chất”, … Triết học không giải quyết các vấn đề khoa học cụ thể. Phát triển
song hành cùng các khoa học cụ thể, triết học vạch ra logic của các quá trình nhận thức, trở thành
phương pháp luận của nhận thức khoahọc.
Tiếp theo, chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học là ở sự
tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các nguyên lý chúng của chúng. Tất
nhiên, trong mỗi một khoa học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các nguyên lý, các quy
luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi một khoa học cụ thể chỉ giới hạn trong lĩnh
vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát triết học là những khái quát chung nhất, có liên quan
đến tất cả các hiện tượng và các quá trình của tự nhiên, xã hội và tinhthần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri thức hiện đại
cùng với xu hướng xuất hiện của những chuyên ngành mới chuyên sâu là xu hướng ngược lại, xu
hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất. Tính chấttổnghợp, liên
ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các ngành khoa học truyền thống
thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý…, mà còn sự
xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Chính xu
hướng liên kết này của các khoa học cho phép đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm
kiếm một cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân tán manh mún của các
khoa học chuyên ngành, đem lại cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây triết học đóng
vai trò là hạt nhân lý luận kết nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại khả
năng thâm nhập vào các quá trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trò ngày càng tăng của nó trong đời
sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ nó với các nhân tố và các điều kiện phát triển xã hội và con người
khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản lý sự sáng tạo khoa học, mà là các
thiết chế khoa học, kế hoạch chương trình phát triển khoa học, sự ứng dụng các kết quả nghiên cứu
khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy chắc chắn không thể không liên
quan đến một thế giới quan nói chung, đến những quan điểm triết học nhấtđịnh.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học trải qua một quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Mối
quan hệ ấy không hề đơn giản, bất biến, mà là phức tạp, thay đổi và cũng trở thành một trong những
“vấn đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó cũng có những quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan
điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất có xu hướng tuyệt đối hóa vaitrò của triết học, hạ thấp, coi thường
vai trò của các khoa học. Ngược lại, quan điểm thứ hai có xu hướng tuyệt đối hóa vai trò của các khoa
học, hạ thấp hay thậm chí gạt bỏ vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan,
chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học
mà ta đã nói đến ở trên. Có thể nói cách tiếp cận như thế về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là
biểu hiện của tư duy siêu hình, một tư duy mà nếu xét trong những điều kiện nhất định thì có thể được
coi là chính đáng, cần thiết, nhưng xét chung và trong phạm vi lớn hơn, nó không thể không bộc lộ tính hạn chế của mình.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về mối quan
hệ giữa triết học và khoa học. Bản chất của quan niệm mới đó là biện chứng. Triết học và các khoa học
là những lĩnh vực nhận thức khác nhau. Chúng có đặc điểm và đối tượng nghiên cứu riêng. Quan hệ
giữa chúng không phải là hoàn toàn đồng nhất thay thế lẫn cho nhau, nhưng cũng không đối lập loại
trừ nhau một cách tuyệt đối. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện chứng,
thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này là ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát
triển mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một
hướng duy nhất. Ở trên chúng ta đã nói rằng các kết luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là
tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào chỗ, bản thân các nhà khoa học được
định hướng bởi thế giới quan triết học nào. Nếu triết học là mang tính tiến bộ, khoa học, thì nó có thể
và phải thúc đẩy sự phát triển của khoa học và ngược lại. Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu
thếkỷXX,nhữngphátminhmớicủakhoahọctựnhiên,nhưpháthiệnratia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử, …
đã làm bộc lộ tính hạn chế của bức tranh về thế giới vật lý từ trước đến giờ, tạo nên một tình thế khủng
hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy, Lênin chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy tâm đã lợi
dung và xuyên tạc những thành tựu có tính cách mạng nói trên của khoa học tự nhiên như thế nào;
rằng các nhà khoa học, - những người xuất sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng lại kém trong lĩnh
vực triết học, do không nắm chắc tư duy biện chứng đã dao động và tìm đến chủ nghĩa hoài nghi, chủ
nghĩa bất khả tri ra làm sao; rằng những phát minh mới trong vật lý học đã chứng thực cho chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Lênin khẳng định rằng trong trường hợp này, chỉ có nắm vững phép biện chứng
duy vật mới có thể thoát khỏi “cuộc khủng hoảng vật lý”đó.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với nội dung chủ yếu là sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và những ứng dụng rộng rãi của chúng trong thực tiễn, đã và đang làm thay đổi
sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống, làm bộc lộ hơn nữa những hạn chế của tư duy siêu hình. Con
đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khuôn sáo, sự trì trệ trong nhận thức và hành
động là nắm chắc và vận dụng phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận chung
nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cáchmạng. 2.1.1. Thời cổ đại.
Đối với lịch sử khoa học tự nhiên, Ăngghen chỉ rõ, nó đã trải qua những giai
đoạn phát triển cơ bản. Thời cổ đại, đặc biệt là ở Hy lạp cổ đại, khi mà chế độ
chiếm hữu nô lệ tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động, đề cao lao động trí óc, coi
thường lao động chân tay. Điều này là cơ sở cho việc xuất hiện tầng lớp trí thức
biết xây dựng và sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Triết
học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cũng trong thời đại này, người
Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ
thuộc các lĩnh vực khác nhau, là cơ sở hình thành nên văn minh phương Tây hiện
đại. Trong đó, về khoa học tự nhiên, những thành tựu trong các ngành như toán
học, thiên văn, vật lý… lần lượt xướng tên những nhà khoa học tên tuổi như: Ta- lét,
Pytago, Ác-xi-met, Ơ-clít… Ăngghen đã từng nhận xét: “không có cơ sở văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được”.
Mặc dù vậy, do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chỉ
mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới
(khả năng mô tả), chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, phân tích để đi sâu vào bản chất sự
vật. Khoa học tự nhiên xuất hiện với tư cách là những mầm mống của nhận thức
khoa học, chưa có vị trí độc lập, chưa phân ngành và còn nằm trong triết học – triết
học tự nhiên. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên, họ quan
sát các hiện tượng tự nhiên để rút ra các kết luận triết học. Những kiến thức của
khoa học tự nhiên còn rời rạc, ít ỏi và chưa có tính hệ thống (chỉ có những ngành
liên quan chặt chẽ với thực tiễn sản xuất như thiên văn, toán học, cơ học mới có sự
phát triển nhất định). Với những cơ sở khoa học tự nhiên như vậy đã hình thành
một quan niệm thô sơ về thế giới - quan niệm duy vật tự phát tìm thấy trong triết
học duy vật biện chứng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi
sâu nghiên cứu giới tự nhiên. Như đã trình bày ở phần mở đầu, bài viết sẽ tập
trung phân tích mối quan hệ giữa triết học và khoa học tồn tại trong suốt chiều
dài lịch sử triết học phương Tây từ thời cổ đại, trung cổ, thời phục hưng – cận đại đến thời hiện đại. 2.1.1. Thời cổ đại.
Đối với lịch sử khoa học tự nhiên, Ăngghen chỉ rõ, nó đã trải qua những giai
đoạn phát triển cơ bản. Thời cổ đại, đặc biệt là ở Hy lạp cổ đại, khi mà chế độ
chiếm hữu nô lệ tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động, đề cao lao động trí óc, coi
thường lao động chân tay. Điều này là cơ sở cho việc xuất hiện tầng lớp trí thức
biết xây dựng và sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Triết
học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cũng trong thời đại này, người
Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ
thuộc các lĩnh vực khác nhau, là cơ sở hình thành nên văn minh phương Tây hiện
đại. Trong đó, về khoa học tự nhiên, những thành tựu trong các ngành như toán
học, thiên văn, vật lý… lần lượt xướng tên những nhà khoa học tên tuổi như: Ta- lét,
Pytago, Ác-xi-met, Ơ-clít… Ăngghen đã từng nhận xét: “không có cơ sở văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được”.
Mặc dù vậy, do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chỉ
mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới
(khả năng mô tả), chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, phân tích để đi sâu vào bản chất sự
vật. Khoa học tự nhiên xuất hiện với tư cách là những mầm mống của nhận thức
khoa học, chưa có vị trí độc lập, chưa phân ngành và còn nằm trong triết học – triết
học tự nhiên. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên, họ quan
sát các hiện tượng tự nhiên để rút ra các kết luận triết học. Những kiến thức của
khoa học tự nhiên còn rời rạc, ít ỏi và chưa có tính hệ thống (chỉ có những ngành
liên quan chặt chẽ với thực tiễn sản xuất như thiên văn, toán học, cơ học mới có sự
phát triển nhất định). Với những cơ sở khoa học tự nhiên như vậy đã hình thành
một quan niệm thô sơ về thế giới - quan niệm duy vật tự phát liên quan chặt chẽ
với thực tiễn sản xuất như thiên văn, toán học, cơ học mới có sự phát triển nhất
định). Với những cơ sở khoa học tự nhiên như vậy đã hình thành một quan niệm
thô sơ về thế giới - quan niệm duy vật tự phát. Chủ nghĩa duy vật tự phát coi giới
tự nhiên như một chỉnh thể không ngừng vận động, biến đổi và phát triển. Về bản
chất đây là quan niệm đúng, bởi nó đã phản ánh được tính chất chung của thế
giới, nhưng chưa đầy đủ do nó chủ yếu dựa trên những tài liệu trực quan, thiếu sự
phân tích khoa học, chứa đựng nhiều yếu tố tưởng tượng, phỏng đoán. Từ những
hạn chế và thiếu sót đó của chủ nghĩa duy vật tự phát nên đã không thể đáp ứng
được nhu cầu của sự phát triển khoa học và thực tiễn xã hội sau này.
Như vậy, trong thời cổ đại, khoa học tự nhiên mới hình thành, chưa tách khỏi
triết học và do vậy phụ thuộc vào triết học cho sự phát triển của chính mình. Mặt
khác, đến lượt khoa học tự nhiên tác động làm hạn chế sự phát triển của các quan
niệm triết học – khi mà những kiến thức của khoa học tự nhiên còn rời rạc, ít ỏi và
chưa có tính hệ thống đã hình thành một quan niệm thô sơ về thế giới - quan niệm
duy vật tự phát, về sau đã bị quan niệm siêu hình thế chỗ. 2.1.2. Thời Trung cổ.
Trong thời kỳ trung cổ, khoa học tự nhiên và triết học gần như không có sự
phát triển do những ảnh hưởng và tác động nặng nề của thế giới quan tôn giáo.
Triết học phương Tây thời trung cổ là triết học - thần học tồn tại trong điều
kiện khi mà tôn giáo thống trị mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội, khi mà lý trí
bị đánh bật và nhường chỗ cho niềm tin tôn giáo. Do đó, triết học và khoa học
không thể không phụ thuộc vào thần học. Triết học thời đại này mang tính kinh
viện, xa rời cuộc sống hiện thực, không gắn với thực tế. Chính vì vậy, mà khoa học
tự nhiên trong giai đoạn này gần như không có sự phát triển.Tư tưởng nổi bật
trong giai đoạn này phải kể đến Rô-giê Bê-cơn, Ông chủ trương phê phán triết
học kinh viện, đồng thời đề xướng khoa học thực nghiệm. Tư tưởng này là tiếng
chuông báo hiệu sự kết thúc của chủ nghĩa kinh viện giáo điều, mở đầu cho thời
kỳ khoa học thực nghiệm. Ông cho rằng, triết học mới phải là siêu hình học –
khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận, cũng
như đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản. Bản thân siêu hình
học phải được xây dựng dựa trên thành quả của các khoa học đó.
Tóm lại, xã hội phương Tây thời trung cổ đã chịu ảnh hưởng bao trùm của
hai thế lực là thế quyền phong kiến và thần quyền Thiên chúa giáo. Dù chế độ
phong kiến là một bước tiến so với chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng triết học thời kỳ
này lại là một bước lùi so với triết học thời kỳ cổ đại. Theo đó, khoa học tự nhiên
thời kỳ này cũng không có gì nổi bật. Hay nói một cách khác, triết học lùi bước
khoa học thời kỳ này cũng không thể rộng đường phát triển.
2.1.3. Thời phục hưng – cận đại
Vảo thời phục hưng (Thế kỷ XV – XVI), ở Tây Âu, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa hình thành gắn liền với phong trào phục hưng văn hóa, hình thành từ
Ý và lan sang các nước phương Tây khác như: Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Đức…
Sau Ý, chủ nghĩa tư bản được hình thành ở Anh và các nước Tây Âu khác. Cùng
với đó, sự ra đời và phát triển của khoa học tự nhiên, những cải tiến kỹ thuật đã tạo
điều kiện cho công – thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển vững
chắc. Bên cạnh sự phát triển của nền công – thương nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự
phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Theo đó, giai cấp tư sản hình thành từ đội ngũ
các chủ công trường thủ công, các chủ thầu, người cho vay nặng lãi… và họ ngày
càng có vai trò to lớn trong xã hội. Giai cấp vô sản ra đời bằng việc quy tụ những
người nông dân mất ruộng đất, những người nghèo khổ từ nông thôn di cư lên
thành thị kiếm sống trong các công trường, xưởng thợ của giai cấp tư sản.
Chính sự biến đổi điều kiện kinh tế - xã hội đã góp phần đẩy mạnh sự phát
triển của khoa học tự nhiên. Các lĩnh vực như toán học, cơ học, địa lý, thiên văn …
đã đạt được những thành tựu đáng kể và bắt đầu tách ra khỏi triết học tự nhiên – đã
từng tồn tại trong thời cổ đại. Trong bối cảnh đó, triết học cũng đã thay đổi đối
tượng và phạm vi nghiên cứu của mình. Và cùng với sự xuất hiện của Triết học
mới, khoa học tự nhiên thật sự ra đời. Một lần nữa, ta thấy được mối quan hệ tác
động qua lại giữa triết học và khoa học tự nhiên. Một loạt các khám phá khoa học
đã tạo điều kiện thuận lợi cho triết học phát triển, nhưng bên cạnh đó có thể ảnh
hưởng đến phương pháp triết học, cũng là phương pháp mà khoa học tự nhiên áp
dụng, tức triết học mới tác động trở lại khoa học tự nhiên về mặt phương pháp.
Tuy nhiên, những ngành khoa học này vẫn còn ở giai đoạn đầu của sự phát
triển. Trong từng lĩnh vực nghiên cứu khoa học đã thu được nhiều tài liệu phong
phú và có giá trị. Trong đó, cơ học là ngành phát triển nhất trong giai đoạn này.
Chẳng hạn, kết quả to lớn của Niutơn đạt được về cơ học đã ảnh hưởng đến
phương pháp nhận thức thế giới thời kỳ này. Nhìn một cách toàn diện, khoa học tự
nhiên thời kỳ này còn ở giai đoạn thu thập tài liệu; các ngành khoa học tự nhiên chỉ
nghiên cứu những bộ phận riêng biệt của thế giới và sử dụng phương pháp thực
nghiệm, phương pháp phân tích là chủ yếu. Vì vậy, quan điểm cơ học và phương
pháp thực nghiệm đã thấm nhuần vào các tư tưởng của con người lúc bấy giờ. 2.1.4. Thời hiện đại
Đối với tình hình khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có
bước phát triển mới, chuyển từ giai đoạn thực nghiệm sang giai đoạn khái quát lý
luận. Các phát minh trong khoa học tự nhiên như: định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng; quy luật về sự bảo toàn của vật chất của Lômônôxốp; học thuyết tế bào
của M. Slaiđen và học thuyết tiến hóa của S. Đácuyn. Những phát minh đó chứng
minh rằng tự nhiên có quá trình chuyển hóa lẫn nhau một cách biện chứng, phủ
định quan điểm siêu hình vẫn thống trị trong tư duy của nhiều nhà khoa học tự
nhiên.Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến việc thay đổi
những quan niệm triết học. Có thể lấy một số ví dụ như:
- Vật lý học: đó là định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng trong
vật lý học đã chứng minh rằng tất cả những cái gọi là lực vật lý, lực cơ giới, điện,
ánh sáng, điện, từ và ngay cả lực hóa học trong những điều kiện nhất định đều có
thể chuyển hóa từ cái nọ sang cái kia mà không mất đi một chút lực nào cả; điều đó
chứng tỏ tự nhiên có mối liên hệ thực sự với nhau.
- Trong lĩnh vực sinh vật học, học thuyết tế bào của M. Slaiđen và của
T. Svannơ đã chứng tỏ mọi thực thể sinh vật đều do các tế bào cấu tạo thành và sinh ra và do
đó, mọi sinh vật trong giới tự nhiên đều có mối liên hệ bên trong, giữa thực
vật và động vật không còn là những lĩnh vực hoàn toàn cách biệt như quan niệm siêu hình.
- Học thuyết tiến hóa của Đácuyn đã chứng minh rằng dưới tác động
của môi trường sống biến đổi, các loài động vật trên trái đất có sự tiến hóa từ cấp
thấp lên cấp cao. Học thuyết này đã chứng minh rằng con người có nguồn gốc từ
động vật; đây là một đòn giáng vào quan niệm siêu hình cho rằng các loài vật
không bao giờ thay đổi và vào quan niệm tôn giáo cho rằng thế giới và con người
do Thượng đế sáng tạo ra.
Trong tác phẩm “Biện chứng tự nhiên”, Ăngghen đã chỉ rõ đồng thời phân
tích sự phát triển của khoa học không thể thiếu được vai trò của triết học, bởi vì
triết học tác động đến phương pháp tư duy của con người. Bằng các dẫn chứng cụ
thể của sự phát triển của khoa học tự nhiên và của triết học, Ăngghen đã chỉ ra sự
tác động của triết học đến sự phát triển của khoa học tự nhiên: Chẳng hạn đối với
giả thiết về khối tinh vân nguyên thủy của Cantơ, Ăngghen đã chỉ ra sự hạn chế,
bất lực của quan niệm siêu hình, đã không nhận thấy giá trị khoa học của nó và vì
vậy sự phát triển của khoa học tự nhiên bị chậm lại. Tương tự, do quan niệm siêu
hình về tự nhiên nên nhiều năm Laien cũng không tiến đến việc đề xuất học thuyết
về sự biến dị của các loài.
Nghiên cứu tình hình khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX, Ăngghen chỉ ra
rằng do lưu hành chủ nghĩa duy vật tầm thường và chủ nghĩa chiết trung khác nhau
trong các trường đại học, tức là một tình trạng rời rạc, hỗn độn đang thống trị trong
tư duy lý luận, nên khoa học tự nhiên cũng rơi vào tình trạng không có lối thoát,
không thể phát triển được. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, khoa học tự nhiên tất yếu
phải quay về với tư duy biện chứng. Ăngghen đã phân tích và đi đến khẳng định
vai trò của phép biện chứng duy vật như sau: “Chính phép biện chứng là một hình
thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó
mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích những
quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối liên hệ phổ
biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên
cứu khác”. (Ph. Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn
tập, tập 20, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 488).
Các phát minh của khoa học tự nhiên từ đầu thế kỷ XIX đã bác bỏ hoàn toàn
quan niệm siêu hình về tự nhiên, đòi hỏi phải có quan niệm mới và phản ánh đúng
tự nhiên, đó chính là quan niệm biện chứng duy vật. Điều đó khẳng định sự phát
triển của khoa học tự nhiên ảnh hưởng tới sự phát triển của triết học. Vì vậy,
Ăngghen nói giới tự nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện chứng.
Tóm lại, bằng sự phân tích nhiều tài liệu thực tế, Ăngghen đã chỉ rõ sự cần
thiết của tư duy lý luận nói chung và tư duy biện chứng nói riêng đối với khoa học
tự nhiên hiện đại. Và như vậy không thể phủ nhận vai trò của triết học, nhất là triết
học duy vật biện chứng. Phép biện chứng duy vật và những quy luật cơ bản phổ
biến của nó cũng là cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức của các nhà khoa học
tự nhiên và chứng minh cho giá trị phổ biến của Phép biện chứng duy vật.