/27
lOMoARcPSD| 61622079
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC
VÀ CÁC KHOA HỌC
Tên học phần:
Triết học
Lớp học phần:
Triết học Tự nhiên 4
GVHD:
TS. Phạm Quốc Hương
Nhóm thực hiện:
Nhóm 6
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2023
Đề tài
lOMoARcPSD| 61622079
1
Lời mở đầu
Trong quá trình biên soạn, mặc dù chúng em đã rất cố gắng nhưng do khả năng còn hạn
chế nên ắt hẳn bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý
của thầy và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 12 năm 2023
Tập thể nhóm 6
lOMoARcPSD| 61622079
2
Danh sách thành viên
Số thứ tự
Họ và tên
1
Phạm Hoàng Duy
2
Trần Ánh Dương
3
Nguyễn Nhan Gia Hưng
4
Trần Minh Khôi
5
Phạm Bích Ngọc
(nhóm trưởng)
6
Nguyễn Huỳnh Thảo Nhi
7
Hồ Tuyết Nhung
8
Tạ Quốc Văn
lOMoARcPSD| 61622079
Mục lục
I. KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC ............................................................................. 4
1. Khoa học là gì? ..................................................................................................... 4
2. Triết học là gì? ...................................................................................................... 4
3. Khoa học và triết học ............................................................................................ 4
II. VAI TRÒ CỦA CÁC KHOA HỌC ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC ............................. 5
1. Thời kỳ cổ đại ....................................................................................................... 5
2. Thời kỳ Phục hưng ............................................................................................... 7
3. Thời kỳ cận đại ..................................................................................................... 8
4. Thời kỳ hiện đại .................................................................................................... 9
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
KHOA HỌC ............................................................................................................. 13
1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin về vai trò củatriết
học đối với các khoa học ........................................................................................ 13
a. Quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels......................................................... 13
b. Quan điểm của Vladimir Ilyich Lenin ...................................................................... 14
c. Quan điểm của một số nhà kinh điển khác................................................................ 15
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển của
các khoa học ........................................................................................................... 18
a. Vai trò thế giới quan của triết học ............................................................................. 18
b. Vai trò phương pháp luận của triết học ..................................................................... 19
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÁN HỌC VÀ TRIẾT HỌC ................................. 22
1. Toán học là một thế giới vật chất khách quan và gắn liền với phương pháp luận biện
chứng ............................................................................................................................. 22
2. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất trong Toán học ........................ 23
3. Toán học tuân theo ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ................ 23
4. Vận dụng quy luật “Chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay ......................................................................................................................... 24
đổi về chất và ngược lại” vào dạy học Toán ................................................................. 24
lOMoARcPSD| 61622079
4
I. KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC
1. Khoa học là gì?
Khoa học là một hệ thống các tri thức thế giới quan của con người về những sự vật, hiện
tượng, mọi quy luật hoạt động của vật chất, quy luật trong tự nhiên, xã hội và về tư duy.
Theo Điều 3 trong Luật Khoa học và công nghệ 2013, khoa học bao gồm một hệ thống
các tri thức bao gồm tất cả mọi thứ thuộc về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của
các sự vật, hiện tượng về tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Triết học là gì?
Thuật ngữ triết học (philosophia) nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa yêu mến
(philos) sự thông thái (sophia). Triết học được coi là hình thái cao nhất của tri thức, có
thể làm sáng tỏ bản chất của mọi sự vật, hiện tượng.
Khái niệm triết học dù theo quan niệm của phương Đông, hay phương Tây, dù ở thời cổ
đại hay ở thời hiện đại, bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố:
Một là, yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh, trong đó
có con người, sự giải thích hiện thựuc bằng hệ thống các quy luật của tư duy.
Hai là, yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động.
Nói một cách khái quát, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
3. Khoa học và triết học
Thời cổ đại, triết học chưa đối tượng riêng của nó. Hy Lạp cđại, triết học bao
gồm tất cả các khoa học: siêu hình học, toán học, vật học, thiên văn học, chính trị học,
đạo đức học, lôgíc học, mỹ học, v.v.. Nhà triết học đồng thời là nhà khoa học nói chung.
Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại, tưởng triết học nằm trong các học thuyết chính trị, đạo
đức, tôn giáo.
lOMoARcPSD| 61622079
5
Thời Trung cổ, triết học bị coi là “đầy tớ” của tôn giáo, chỉ nhiệm vụ giải, chứng
minh những tín điều tôn giáo.
Thế kỷ XVII-XVIII, triết học duy vật dựa trên khoa học thực nghiệm phát triển mạnh
mẽ và đấu tranh quyết liệt chống lại tư tưởng phong kiến và giáo điều tôn giáo.
Tuy nhiên trong thời kỳ này người ta vẫn còn quan niệm “triết học là khoa học của các
khoa học”.
Quan niệm này tồn tại mãi cho đến đầu thế kỷ XIX. Hegel là nhà triết học cuối cùng coi
triết học là một hệ thống hoàn chỉnh của nhận thức trong đó mỗi ngành khoa học chỉ là
một bộ phận hợp thành hệ thống. Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập từng
bước đã làm cho triết học không còn là “khoa học của mọi các khoa học”.
Theo tính quy luật của sự hình thành, phát triển của triết học: sự hình thành phát triển
của triết học gắn liền với các thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
khoa học xã hội và nhân văn.
Sự hình thành phát triển của triết học, một mặt, phải khái quát được thành tựu của
các khoa học, mặt khác phải đáp ứng được yêu cầu phát triển của khoa học trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. vậy, với mỗi giai đoạn phát triển của khoa học thì triết
học cũng có một bước phát triển. Đúng như Engels đã nhận định: “Mỗi lần có một phát
minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong nh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó.”
Do đó, việc nghiên cứu các tư ởng triết học không thể tách rời các giai đoạn phát triển
của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC KHOA HỌC ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC
1. Thời kỳ cổ đại
Trong thời kỳ cổ đại, triết học và các khoa học không tách rời nhau. Ở Hy Lạp - La Mã,
triết học gắn liền với các khoa học tự nhiên và gọi nền triết học tự nhiên. Các nhà triết
học cũng đồng thời các nhà khoa học tự nhiên. Khi mới được ra đời, triết học bao quát
mọi lĩnh vực tri thức và xuất hiện quan niệm "triết học là khoa học của các khoa học".
Triết học tự nhiên hệ thống các quan điểm về thế giới những hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau của con người, như toán học, vật học, thiên văn học, sinh vật học, y
học...
Do trình độ của khoa học còn bị hạn chế nên con người thời kỳ cổ đại không để
dựa dẫm, do đó buộc họ phải phát huy tối đa vai trò của nhân tố chủ quan, vai trò
của trí tuệ con người, thể hiện trình độ duy trừu tượng khái quát hết sức cao của các
nhà triết học thời cổ đại. Điều đó quy định đặc trưng chung của triết học thời kỳ cổ đại
đề cao vai trò của duy tính, vai tcủa trí tuệ con người. ng do sự tác động
của khoa học chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chủ nghĩa duy vật thô sơ, chất phác;
phép biện chứng phép biện chứng tự phát ngây thơ; còn chủ nghĩa duy tâm chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại chủ nghĩa duy vật thô sơ, chất phác, bởi vì các
nhà duy vật thời kỳ cổ đại chủ yếu xuất phát từ sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng
lOMoARcPSD| 61622079
6
đoán nên các yếu tố vật thể cụ thể là khởi nguyên của thế giới, chưa có cơ sở khoa học.
Chẳng hạn
+ Thales coi khởi nguyên của thế giới là nước,
+ Anaximen coi khởi nguyên của thế giới là không khí,
+ Heraclitus coi khởi nguyên của thế giới là lửa,
+ Leucippus và Democritos coi khởi nguyên của thế giới là nguyên tử (hạt vật chất nhỏ
nhất),
+ Thuyết Ngũ hành coi khởi nguyên của thế giới là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Có thể thấy rằng, quan niệm của Leucippus Democritos về nguyên tử khởi nguyên
của thế giới, cũng như tính đa dạng của thế giới do trật tự sắp xếp của các nguyên tử
(tức là cấu trúc của sự vật) quyết định mang tính chất vượt thời đại, vì sau này khoa học
mới chứng minh một cách ràng rằng, phương thức tồn tại của sự vật là do cách thức
liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết định.
Phép biện chứng thời kỳ cổ đại phép biện chứng tự phát, ngây thơ, bởi vì các nhà
biện chứng thời kỳ cổ đại chủ yếu xuất phát từ sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng
đoán nên các quy luật vận động, phát triển của thế giới, chưa có cơ sở khoa học. Đó chỉ
những tưởng biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán, mới chỉ dừng lại sự
mô tả tính biện chứng của thế giới, nên chưa trở thành hệ thống lý luận.
Các nhà biện chứng thời cổ đại xem xét thế giới như một chỉnh thể luôn luôn vận động,
phát triển không ngừng đi tìm sở của chỉnh thể ấy từ một hoặc một số yếu tố vật
thể cụ thể. Do khoa học chưa phát triển, chưa đi sâu vào việc khám phá cấu trúc vi mô
của thế giới vật chất cho nên các nhà triết học chỉ nhìn thế giới trong một tổng thể
chưa đi vào từng chi tiết, từng bộ phận của thế giới, họ chỉ thấy toàn thể mà không thấy
bộ phận, chỉ thấy rừng mà không thấy cây. Chẳng hạn:
+ Heraclitus (tiêu biểu cho phép biện chứng khẳng định trong triết học Hy Lạp cổ đại)
cho rằng, mọi cái cứ trôi đi, chảy đi không bao giờ dừng lại, đã phát biểu một luận điểm
nổi tiếng Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Ông đã phỏng
đoán nên quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập. Theo Heraclitus, mâu
thuẫn tồn tại phổ biến trong các sự vật, hiện ợng, nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau và chuyển
hóa cho nhau. Nhờ có sự chuyển hóa mới tạo nên sự biến đổi không ngừng: cái nóng thì
lạnh đi, cái lạnh lại nóng lên, m ướt thành khô ráo ngược lại….Các mặt đối lập thống
nhất với nhau, bao hàm lẫn nhau: “Cái thiện cái ác chỉ một. Ví như bác sĩ mổ xẻ,
bác mổ làm bệnh nhân đau, đó việc làm ác; nhưng với mục đích cứu người thì đó
lại là việc thiện”. Heraclitus có tư tưởng về sự nương tựa lẫn nhau của các mặt đối lập:
“Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao chơn, cái đói làm
cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ chịu hơn”.
+ Zeno (tiêu biểu cho phép biện chứng phủ định) không giải quyết được các nghịch
(apôria) mà ông nêu ra, nhưng ý nghĩa của nó không dừng lại ở việc bảo vệ học thuyết
tồn tại của Parmenides. Công lao của ông đã đặt ra nhiều vấn đề biện chứng sâu sắc. Đó
là các vấn đề về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của thế giới, giữa vận
động đứng im, giữa tính liên tục tính gián đoạn của vận động, giữa tính hữu hạn
lOMoARcPSD| 61622079
7
và tính vô hạn của thế giới và về tính phức tạp của quá trình vận động của sự vật vào tư
tưởng, vào lôgích của khái niệm.
+ Socrates (tiêu biểu cho phép biện chứng với tính cách nghệ thuật tranh luận), đã
nêu lên phương pháp biện chứng để vạch ra mâu thuẫn trong cách lập luận của đối
phương, nhằm đạt đến chân lý.
Cho còn hạn chế, nhưng phép biện chứng thời cổ đại đóng vai tsở cho sự
phát triển của phép biện chứng sau này. Đúng như Friedrich Engels đã đánh giá: “Cái
thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó thế giới quan của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ
ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật
đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”.
Chủ nghĩa duy tâm thời kỳ cổ đại, do tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, của trí tuệ con
người, nên biểu hiện là chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chẳng hạn:
+ Pythagoras xuất phát từ sự nghiên cứu toán học, quan sát thế giới số thấy rằng,
trong thế giới số có nhiều điều bí ẩn, kỳ diệu, từ đó ông đã thần thánh hóa thế giới số và
cho rằng, con số là khởi nguyên của thế giới.
+ Platon, chính vì tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý tính nên ông cho rằng, ý niệm,
khái niệm là cái có trước và sinh ra thế giới.
2. Thời kỳ Phục hưng
Trước đây các tri thức khoa học tự nhiên còn là bộ phận của triết học. Đến thời kỳ Phục
hưng, do yêu cầu của thực tiễn hội, trên sở thực tiễn sản xuất vật chất những
biến đổi xã hội, những tư tưởng triết học và các khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển. Cụ
thể là, để trở thành một lực lượng chính trị độc lập ớc lên vũ đài chính trị thì buộc giai
cấp tư sản phải áp dụng các thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng
cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Đồng thời, giai cấp tư sản cũng cần tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy
tâm, tôn giáo. Chính thế, trong thời kỳ Phục hưng chủ nghĩa duy vật được khôi phục
và phát triển cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Triết học dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên để đấu tranh chống lại thế giới
quan tôn giáo, thần học, thực hiện củng cố liên minh giữa triết học khoa học tự
nhiên, chứng minh phương pháp nhận thức tnhiên bằng thực nghiệm, kinh nghiệm,
phê phán thần học chủ nghĩa kinh viện. Sự phát triển của các ngành khoa học tự
nhiên, đặc biệt học đã quyết định mầm mống ra đời của phương pháp siêu hình
trong khoa học tự nhiên, đến thế kỷ XVII – XVIII được áp dụng trong triết học.
Kết quả là, sự chuyên chính của giáo hội sthống trị của chủ nghĩa kinh viện trung
cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm triết học
duy vật tiền đề cho những thành tựu mới của khoa học triết học trong các thế kỷ
tiếp theo.
Thuyết Nhật tâm của Nicolaus Copernicus khẳng định rằng: “Mặt Trời là trung tâm của
vũ trụ, còn các hành tinh khác, kể cả Trái Đất đều quay xung quanh mặt trời, tuân theo
các quy luật khách quan vốn của nó.Điều này nghĩa tất cả các hiện tượng tự
lOMoARcPSD| 61622079
8
nhiên và xã hội không phải do thần thánh, thượng đế sinh ra như Thuyết Địa tâm khẳng
định, mà là do chính các quy luật tự nó quyết định.
Riêng đối với con người, các hiện tượng xã hội, như giàu - nghèo, sang- hèn, hạnh phúc
- bất hạnh, thống trị bị trị, áp bức bị áp bức... không phải do thần thánh, thượng đế tạo
ra, mà là do chính con người ta tạo ra. Chính vì thế, theo đánh giá của F.Engels, đây
một cuộc cách mạng từ trên trời báo trước cuộc cách mạng trong đời sống xã hội.
thể nói, cuộc cách mạng này trước hết cuộc cách mạng về thế giới quan, nó tác
động rất lớn lớn đến khoa học và thực tiễn xã hội. Không phải ngẫu nhiên, từ khi Thuyết
Nhật tâm ra đời, khoa học và thực tiễn xã hội ở Tây Âu phát triển như vũ bão. Khi đánh
giá về ý nghĩa cách mạng của "Thuyết Nhật tâm” của Nicolaus Copernicus, Friedrich
Engels khẳng định: "Hành vi cách mạng mà khoa học tự nhiên dùng để tuyên bố sự độc
lập của mình...chính là việc xuất bản tác phẩm bất hủ trong đó Copernicus tuy với thái
độ rụt thể nói chỉ trong khi hấp hối, đã thách thức uy quyền của Giáo hội
trong các vấn đề của giới tự nhiên. Từ đó trở đi, khoa học tự nhiên mới bắt đầu được
giải phóng khỏi thần học...Từ ngày đó, sự phát triển của các ngành khoa học cũng tiến
được những bước khổng lồ và ngày càng mạnh lên..."
3. Thời kỳ cận đại
Sang thời kì cận đại, do yêu cầu phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và để
củng cố địa vị của mình thì buộc giai cấp sản cần phải áp dụng các thành tựu của khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Chính vì vậy, các khoa học tự nhiên đã được tách khỏi triết học trở
thành các khoa học tương đối độc lập để có điều kiện nghiên cứu một cách sâu sắc hơn
bản chất và các quy luật của thế giới trong từng lĩnh vực nhất định, nhưng triết học vẫn
gắn liền mật thiết với các khoa học tự nhiên. Khi ấy, những khám phá khoa học với
những chất liệu thực tiễn đã trở thành chỗ dựa vững chắc đối với quá trình giải phóng
triết học ra khỏi ảnh hưởng của thần học, tiếp tục con đường ớng tới chân lý. Triết
học không thể phát triển nếu tách khỏi trình độ nhận thức chung của thời đại, trong đó
có trình độ phát triển của các tri thức khoa học cụ thể.
Đặc biệt, trong khoa học tự nhiên sự thống trị của học cổ điển của Newton.
đặc trưng bản của học cổ điển của Newton đề cao tuyệt đối hóa vai trò của
khối lượng, coi khối lượng một đại lượng bất biến, khối lượng nguyên nhân của
mọi tồn tại, của mọi vận động. Chính vì thế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến triết học thời đó
đồng nhất vật chất với khối lượng. cũng chính điều đó đã làm cho phương pháp
thực nghiệm thống trị trong khoa học tự nhiên. Tức là một phương pháp mà đòi hỏi cần
phải xem xét thật chi tiết, tỉ mỉ các sự vật. Muốn vậy, cần phải mổ xẻ các sự vật ấy thành
các bộ phận, tức là tiến hành phân tích chúng và đặt các bộ phận ấy trong trạng thái tách
biệt, ổn định tương đối. Nhưng cũng điều đó làm cho các nhà khoa học có thói quen
tuyệt đối hóa trạng thái tách biệt ổn định, để từ đó phương pháp siêu hình trở nên
thống trị trong triết học.
Về vấn đề này, Friedrich Engels chỉ : “Những phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời
cũng để lại cho chúng ta một thói quen là xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự
nhiên trong tại thái biệt lập của chúng, bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, do đó
không xem xét chúng trong trạng thái vận động biến đổi xem xét trong trạng thái
lOMoARcPSD| 61622079
9
tĩnh, không xem xét chúng trong trạng thái sống mà chỉ xem xét chúng trong trạng thái
chết. Và khi phương pháp nhận thức ấy được Francis Bacon John Locke đưa từ khoa
học tự nhiên vào triết học thì nó tạo ra tính hạn chế đặc thù của những thế kỷ gần đây -
tức phương pháp “tư duy siêu hình”. Phương pháp siêu hình chỉ thấy bộ phận
không thấy toàn thể, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
Từ cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, trước đòi hỏi của sự phát triển phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu
to lớn:
+ phát hiện ra điện, oxy và bản chất của sự cháy của Lavoisier;
+ phát hiện ra tế bào của Leeuwenhoek;
+ học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Psellos…
Những thành tựu khoa học tự nhiên cùng với điều kiện kinh tế- chính trị - xã hội đã làm
thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức muốn thoát khỏi trật tự khắt khe
của chế độ phong kiến khắc lúc bấy giờ. Nhưng vì còn non yếu về số lượng chất
lượng nên giai cấp sản Đức chưa đủ sức làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực hội,
trong thực tiễn, nhưng hoàn toàn khả năng làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực
tưởng.
Đồng thời, những điều kiện trên đây cũng đòi hỏi triết học phải có một cách nhìn mới
một cách nhìn biện chứng về toàn bộ thế giới tự nhiên và lịch sử như một quá trình luôn
luôn vận động, phát triển không ngừng. Do vậy, phương pháp duy siêu hình từng
thống trị thời kì cận đại đã trở nên bất lực và được thay thế bằng phương pháp duy vật
biện chứng. Cũng chính vì thế, phép biện chứng cổ đại đã được khôi phục lại trong triết
học cổ điển Đức triết học Friedrich Hegel “cái thai đẻ non” cuối cùng xem triết
học là “khoa học của các khoa học”.
4. Thời kỳ hiện đại
lOMoARcPSD| 61622079
10
Từ giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển như bão với hàng loạt phát minh
mang ý nghĩa vạch thời đại, đưa đến sự biến đổi phong cách thức tư duy của con người.
Ba thành tựu Friedrich Engels nhắc đến trong tác phẩm "Ludwig Andreas Feuerbach
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" được gọi các phát minh vạch thời đại do
tác động quyết định của chúng đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, dẫn đến sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, đó là:
Vật lý học: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
Năng lượng không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi chỉ thể
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Điều đó chứng tỏ thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, tận, hạn, không nguyên
nhân đầu tiên không kết quả cuối cùng. như vậy, định luật này c bỏ quan
điểm duy tâm khi cho rằng thế giới nguyên nhân đầu tiên thực thể tinh thần, ý thức,
cũng như bác bỏ quan điểm tôn giáo coi Thượng Đế là nguyên nhân đầu tiên, tuyệt đối
của thế giới.
Mặt khác, định luật này cũng bác bỏ chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật
siêu hình coi thế giới có khởi nguyên từ các yếu tố vật thể cụ thể nào đó. Định luật này
tạo nên chất liệu sống động cho sự giải mới về toàn bộ thế giới vật chất, khẳng định
rằng, thế giới vật chất một quá trình luôn trải qua sự liên hệ, tác động, chế ước, chuyển
hóa lẫn nhau giữa các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau.
Hay nói cách khác, định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng đã khẳng định quan
điểm duy vật biện chứng về sự tồn tại và phát triển của thế giới vật chất.
Sinh vật học: Thuyết tế bào
- Mọi cơ thể sống đều được cấu tạo từ các tế bào.
- Sự vận động và phát triển của các cơ thể sống là quá trình tự nhân đôi, tự phân chiacủa
các tế bào (quá trình phân bào).
Như vậy, thuyết này đã chỉ ra nguyên nhân bên trong, nguyên nhân vật chất của sự tồn
tại, vận động phát triển của các thể thực vật, động vật. Khẳng định chân khoa
học này cũng có nghĩa bác bỏ quan niệm về nguồn gốc siêu nhiên của sự sống, ng
như sự giải thích giản đơn, máy móc, siêu hình về thế giới, đặc biệt là thế giới hữu sinh.
Phát minh này đã bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo coi nguyên nhân tồn tại, vận động
phát triển của thế giới các yếu tố tinh thần, ý thức, kết quả của "cái hích" của
thượng để; đồng thời bác bỏ quan điểm duy vật siêu hình khi coi nguyên nhân bên
ngoài là nguyên nhân quyết định của mọi vận động, phát triển.
Thuyết tiến hóa
- Sự vận động, phát triển của thế giới một quá trình thường xuyên, liên tục, từ thấpđến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, tuân
theo các quy luật khách quan vốn có của nó.
- Sự xuất hiện của con người hội loài người sản phẩm tất yếu trong quá trìnhphát
triển của giới tự nhiên, trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm.
lOMoARcPSD| 61622079
11
Thuyết tiến hóa của Charles Darwin đã vẽ nên bức tranh cùng phong phú, phức tạp,
song tuân theo tính quy luật bên trong, khách quan của mình, trong đó có quy luật chọn
lọc tự nhiên, đấu tranh sinh tồn, tính thích nghi, tự đào thải và cân bằng sinh thái.
Như vậy, phát minh y cũng khẳng định nguyên nhân vật chất của sự vận động, phát
triển của thế giới, bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo, duy vật chất phác, siêu hình về
thế giới và khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
Như vậy, các thành tựu khoa học tự nhiên đã kích thích các nhà khoa học đào sâu quá
trình tìm hiểu tính thống nhất vật chất của thế giới, tính đa dạng, muôn hình muôn vẻ
của tồn tại, khám phá những bí ẩn của thế giới vật chất, đồng thời góp phần đưa đến s
hình thành phương pháp duy mới. Những thành tựu mới nhất của sinh học, y học, tế
bào học hiện đại tiếp tục soi sáng các vấn đề mà vào thời Darwin mới chỉ là những phác
thảo hoặc chưa đề cập đến. Điều đáng nói mỗi bước đi, mỗi phát minh tiêu biểu của
các khoa học đều buộc các nhà tưởng phải tìm hiểu, khái quát, thẩm định giá trị của
một quan điểm, một học thuyết khoa học.
Những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên cùng với những biến đổi trong
các khoa học lịch sử đã góp phần đưa đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghĩa duy
vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình; cần được thay thế bằng hình thức hiện đại của
chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Friedrich Engels viết: "Mỗi lần một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong
lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi
hình thức của nó”.
Friedrich Engels cho rằng, để trthành một nhà triết học chân chính, điều kiện trước
tiên phải nắm vững kiến thức về khoa học tự nhiên - lịch sử, từ toán học, vật lý đến
các khoa học về con người. Sử mệnh lịch sử đó khoa học giao phó đã được đảm
nhiệm bởi Karl Marx và Friedrich Engels. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những
thành tựu khoa học tự nhiên, kế thừa những giá trị tinh hoa của lịch sử triết học nhân
loại, Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập nên một hệ thông triết học đại nhất trong
lịch sử - Triết học duy vật biện chứng duy vật lịch sử, thế giới quan phương
pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn.
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã diễn ra cuộc khủng hoảng
vật học, những thành tựu của đòi hỏi triết học phải một cách nhìn mới sâu
sắc hơn về thế giới vật chất. Cụ thể là:
+ Năm 1895, Wilhelm Conrad Röntgen phát hiện ra tia X;
+ Năm 1896, Antoine Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ;
+ Năm 1897, Joseph John Thomson phát hiện ra điện tử;
+ Năm 1901, Walter Kaufmann chứng minh khối lượng của điện tử cũng biến đổi cùng
với vận tốc chuyển động của nó;
+ Năm 1905, Albert Einstein phát minh ra thuyết tương đối hẹp.
Trên sphân tích một cách sâu sắc những thành tựu của khoa học tự nhiên, kế thừa
quan điểm biện chứng của Karl Marx và Friedrich Engels, phê phán quan điểm duy tâm,
siêu hình về vật chất, Vladimir Ilyich Lenin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật
lOMoARcPSD| 61622079
12
chất. Định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin về vật chất ý nghĩa thế giới quan
phương pháp luận hết sức to lớn đối sự phát triển của triết học và các khoa học. Những
thành tựu ấy của khoa học tự nhiên càng khẳng định tính thống nhất vật chất và tính đa
dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới.
Như vậy, những thành tựu của khoa học có nhu cầu tự thân đòi hỏi phải được giải thích
luận, tất yếu dẫn tới các kết luận chung về thuyết, những khái quát triết học định
hướng. Thiếu kiến thức khoa học dữ liệu đời sống cập nhật, nhà triết học không thể
có tư duy triết học hợp lý, đúng đắn; triết học trở nên xa rời thực tiễn. Các khoa học cụ
thể đem đến cho triết học chất liệu sống, nhờ đó c nhà triết học đưa ra những giải
thích về sự vật, hiện tượng một cách hợp lý, có căn cứ, đồng thời, từ các dữ liệu của quá
khứ, hiện tại, họ cùng các nhà khoa học gợi mở, dự báo về những vấn đề của tương lai.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học Marx đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ thể. Ngày
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học MarxLenin không
thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình.
lOMoARcPSD| 61622079
13
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC KHOA HỌC
1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin về vai trò của
triết học đối với các khoa học
a. Quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels nhấn mạnh rằng, “chính
phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện
đại, bởi chỉ mới thể đem lại sự tương đồng do đó đem lại phương pháp
giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, giải thích những mối liên
hệ phổ biến, những bước quá độ từ một nh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực
nghiên cứu khác”.
Friedrich Engels đã từng phê phán một số nhà khoa học tự nhiên lệ thuộc rất nhiều vào
duy lý luận, nhưng thường lại tư duy sai lầm được rút ra từ những học thuyết triết
học “tồi tệ nhất”. Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels viết: “Những nhà
khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc
phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và
muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù logic, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một
cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người
gọi học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết
học đã lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc
trong các trường đại học (đó không chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ
hổ lốn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau thường
những trường phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại
mà họ đọc một cách không có hệ thống và không phê phán – cho nên dù sao, rút cục lại,
họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học… Những ai phi báng triết học nhiều nhất lại chính
những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết
học tồi tệ nhất”.
Do vậy, Friedrich Engels đã nhấn mạnh rằng: “Dù các nhà khoa học tự nhiên có làm gì
đi nữa thì họ vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ
triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận
dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.
Friedrich Engels vạch ra rằng, sự khinh miệt của những kẻ kinh nghiệm chủ nghĩa đối
với phép biện chứng sẽ bị trừng phạt. Họ tất nhiên phải sa vào chnghĩa duy tâm
phép thần bí: “Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trùng
phạt. người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không
có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên với
nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó...Và như vậy s
khinh thường phép biện chứng theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa sẽ bị trừng phạt như
sau: nó đưa một số người thực nghiệm chủ nghĩa tỉnh táo nhất sa vào chỗ dị đoan ngu
xuẩn nhất, sa vào thần linh học cận đại”.
Theo Friedrich Engels, muốn giải quyết mâu thuẫn ngày càng sâu sắc trong khoa học tự
nhiên thì các nhà khoa học tự nhiên phải tự giác nắm lấy phép biện chứng, phải trthành
những nhà biện chứng tự giác. Khi kêu gọi c nhà khoa học tự nhiên quay trở lại với
lOMoARcPSD| 61622079
14
phép biện chứng, Friedrich Engels viết: “Có thể quay trở lại bằng nhiều con đường khác
nhau. Có thể quay trở lại một cách tự phát, bằng cách chỉ dựa vào sức mạnh của những
phát minh của bản thân khoa học tự nhiên, những phát minh không còn muốn để bị buộc
lên cái giường của Prôquýtxtơ của chủ nghĩa siêu hình nữa. Nhưng đó một quá
trình lâu dài và khó khăn, trong đó cần phải vượt qua rất nhiều sự va chạm vô ích. Đại
bộ phận quá trình ấy đang diễn ra nhất là trong sinh học. Có thể rút ngắn quá trình ấy
đi rất nhiều, nếu các đại biểu của khoa học tự nhiên thuyết muốn m hiểu sát hơn nữa
triết học biện chứng dưới những hình thức lịch sử có sẵn của nó”.
Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels chỉ ra vai trò quan trọng của tư duy
lý luận đối với đời sống xã hội nói chung, đối với sự phát triển của khoa học nói riêng.
Ông khẳng định duy biện chứng chiếc chìa khóa, con đường để dẫn tới sự phát
triển của khoa học, để khoa học làm tròn sứ mệnh cao cả của mình. Friedrich Engels
nhấn mạnh rằng, “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không
thể không duy luận… chỉ phép biện chứng mới thể giúp cho khoa học tự
nhiên vượt khỏi những khó khăn về ly luận… Trên thực tế, đây, ngày nay không còn
một lối thoát, không n một khả năng nào để thể nhìn thấy ánh sáng nếu không từ
bỏ duy siêu hình quay trở lại với duy biện chứng, bằng cách này hay cách
khác”.
như vậy, lịch sử phát triển của triết học đã chứng tỏ rằng, triết học vai trò to lớn
trong việc rèn luyện năng lực duy luận của con người, bởi như Friedrich Engels
khẳng định “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người
ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện
thì cho tới nay, không một cách nào khác hơn nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước”.
Không phải ngẫu nhiên, trong “Lời tự” viết cho ba lần xuất bản tác phẩm “Chống
Dühring”, Friedrich Engels đã khẳng định: “Chỉ khi nào khoa học tự nhiên tiếp thu
được những kết quả của hai nghìn năm trăm năm phát triển của triết học thì nó mới có
thể, một mặt, thoát khỏi mọi thứ triết học tự nhiên đứng tách riêng, đứng ngoài và đứng
trên và, mặt khác, thoát khỏi cái phương pháp duy hạn chế của chính nó, do chủ
nghĩa kinh nghiệm Anh để lại”.
b. Quan điểm của Vladimir Ilyich Lenin
Trên sở kế thừa quan điểm của Karl Marx Friedrich Engels, trong tác phẩm “Về
tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu – Di chúc triết học” của V. I. Lenin, ông khẳng
định: “Ngoài sự liên minh với những người duy vật chủ nghĩa triệt để, không trong
Đảng cộng sản, thì một điều không kém quan trọng, nếu không phải quan trọng hơn
đối với sự nghiệp chủ nghĩa duy vật chiến đấu sẽ phải làm tròn, đó sự liên minh
với những đại biểu của các ngành khoa học tự nhiên hiện đại đang ngả về chủ nghĩa
duy vật, can đảm bảo vệ và truyền bá chủ nghĩa này chống những khuynh hướng triết
học duy tâm chủ nghĩa và hoài nghi chủ nghĩa là những khuynh hướng đang thịnh hành
trong cái mà người ta gọi là “giới có học thức”.
Nhận thức tầm quan trọng của khoa học đối với sự phát triển của hội, V. I. Lenin
đã dành nhiều thời gian quan tâm đến sự phát triển của khoa học, những nhận xét,
đánh giá xác đáng về vai trò ngày càng tăng của khoa học trong đời sống hội. Đồng
lOMoARcPSD| 61622079
15
thời, qua các tác phẩm lý luận và qua sự chỉ đạo thực tiễn, V. I. Lenin đã nêu lên những
nguyên tắc phương pháp luận về sự phát triển của khoa học, về sự lựa chọn phương
hướng nghiên cứu, về quản hoạt động khoa học, về mối quan hệ sự tác động qua
lại giữa các khoa học tnhiên, khoa học kỹ thuật khoa học hội, giữa triết học
các khoa học cụ thể.
Trong tác phẩm này, V. I. Lenin đặt ra nhiệm vụ phát triển triết học duy vật biện chứng
trên cơ sở tổng kết lịch sử hiện đại, củng cố liên minh thống nhất giữa triết học và khoa
học tự nhiên, phê phán chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo trên tinh thần khoa học. V. I. Lenin
chỉ rõ “… chúng ta cần hiểu rằng nếu không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt
nhiên không khoa học tự nhiên nào hay chnghĩa duy vật nào thể tiến hành đấu
tranh chống được sự lấn bước của những tưởng sản sự phục hồi của thế giới
quan sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy đưa đến thành công hoàn
toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ
nghĩa duy vật mà Mác là người đại diện, nghĩa là nhà khoa học tự nhiên ấy phải là một
nhà duy vật biện chứng”.
V. I. Lenin nhận xét: “Triết học của Marx là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị,
cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ
đại”.
V. I. Lenin nhấn mạnh, cần phải theo dõi những vấn đề do khoa học tự nhiên đặt ra
lôi kéo các nhà khoa học tự nhiên tham gia bảo vệ, phát triển chủ nghĩa duy vật chiến
đấu. Bởi vì, theo V. I. Lenin: “Không đặt ra không thực hiện nhiệm vụ ấy một cách
có hệ thống, thì chủ nghĩa duy vật không thể là một chủ nghĩa duy vật chiến đấu được…
Nếu không làm thế, các nhà khoa học tự nhiên lớn cũng lại vẫn sẽ luôn luôn bất lực
trong những kết luận khái quát triết học của họ như trước kia. khoa học tự nhiên
đang tiến bộ nhanh, đang trải qua một thời kỳ đảo lộn cách mạng sâu sắc trong tất
mọi lĩnh vực, đến nỗi nó tuyệt đối không thể không cần đến những kết luận triết học”.
c. Quan điểm của một số nhà kinh điển khác
Triết học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các khoa học qua nhiều giai
đoạn lịch sử. Triết học giúp các nhà khoa học xác định các giả thuyết, các nguyên lý và
các phương pháp nghiên cứu. Nó cũng giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về các vấn đ
đạo đức và xã hội liên quan đến các phát hiện khoa học của họ.
Plato, một nhà triết học và nhà toán học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, cùng với chủ nghĩa
ý niệm xem thế giới vật chất một bản sao của thế giới ý niệm, ý niệm nền tảng
của sự hiểu biết kiến thức. Sự phát triển của khoa học, theo Plato, thể liên quan
chặt chẽ đến việc hiểu biết và nắm bắt về thế giới ý niệm.
Aristotle coi thế giới thực tế đề xuất một phương pháp nghiên cứu dựa trên quan
sát và phân tích tự nhiên. Ông đã phát triển các lĩnh vực như logic và phương pháp phân
loại, cố gắng hệ thống hóa kiến thức trong các lĩnh vực như logic, ngôn ngữ học, vật lý,
hóa học, sinh học, và triết học. Có thể thấy những tác động của Aristotle không chỉ giới
hạn trong lĩnh vực triết học còn mở ra nhiều hướng phát triển trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, từ khoa học tự nhiên đến chính trị tâm học, sự ảnh hưởng này kéo dài
xuyên suốt và có ý nghĩa to lớn trong lịch sử triết học và khoa học.
lOMoARcPSD| 61622079
16
René Descartes, nhà triết học nhà toán học người Pháp, mang đến những đóng góp
quan điểm quan trọng về sự phát triển của khoa học:
Descartes coi việc phát triển khoa học bắt đầu từ một phương pháp nghiên cứu
chặt chẽ ràng. Ông nổi tiếng với phương pháp nghiên cứu "nghi ngờ tuyệt
đối" (method of doubt), trong đó ông cố gắng loại bỏ mọi niềm tin không chắc
chắn và chỉ chấp nhận những điều có thể chắc chắn.
Descartes thực hiện sự tách rời giữa tâm hồn và cơ thể (chủ nghĩa tinh thần học),
coi tâm hồn như một thực thể không vật chất và cơ thể như một thực thể vật chất.
Sự phát triển của khoa học theo Descartes bắt nguồn từ việc hiểu biết về cảm giác
và tư duy, đặt nền tảng cho sự phát triển của nhiều ngành khoa học.
Descartes gắn kết sự phát triển của toán học với sự phát triển của khoa học. Ông
coi toán học ngôn ngcủa tự nhiên sự cơ sở cho thuyết khoa học. Phương
pháp hình học Descartes đã tạo ra sở cho việc kết hợp toán học hình học
trong nghiên cứu tự nhiên.
Descartes quan tâm đến khả năng quyết định và kiểm soát của con người đối với
tự nhiên. Ông coi sự hiểu biết về tự nhiên như là một công cụ để kiểm soát và sử
dụng tối ưu tài nguyên xung quanh.
Descartes tin rằng tự nhiên có thể được hiểu biết bằng ngôn ngữ toán học, và ông
khẳng định rằng toàn bộ trụ thể được tả thông qua các phương trình
toán học.
Quan điểm của Descartes đã định nh nền tảng cho phương pháp khoa học, trong
đó việc phân chia vấn đề thành các thành phần nhỏ hơn, giải quyết từng phần một
và xây dựng kiến thức từ các yếu tố cơ bản là một chiến lược quan trọng.
Những quan điểm của Descartes đã tạo ra ảnh hưởng lâu dài đối với triết học khoa học
và đã đặt nền tảng cho sự phát triển của phương pháp khoa học hiện đại.
Immanuel Kant (1724-1804), một ntriết học người Đức, quan điểm của Kant về sự
phát triển của khoa học có ảnh hưởng lớn, đặc biệt là thông qua tác phẩm nổi tiếng của
ông, “Dựa Trên Nền Tảng Tất Cả Các Kiến Thức Có Thể” (Critique of Pure Reason).
Dưới đây là một số điểm quan trọng về quan điểm của Immanuel Kant về sự phát triển
của khoa học:
Kant Phương Pháp Nghiên Cứu: Kant không phải một nhà khoa học theo
nghĩa hiện đại, nhưng ông quan tâm đến cách kiến thức được xây dựng. Ông đặt
câu hỏi về khả năng và giới hạn của kiến thức, cũng như về phương pháp
chúng ta có thể sử dụng để hiểu biết thế giới.
Khả Năng và Giới Hạn Của Ý Thức: Kant đưa ra ý tưởng về "cấu trúc trước đó"
của ý thức, nơi các khái niệm và khả năng nhận thức đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình hiểu biết. Theo quan điểm này, ý thức không chỉ đơn giản
"gương" của thế giới n ngoài, còn đóng góp tích cực vào quá trình hiểu biết.
Thời Gian Không Gian: Trong "Dựa Trên Nền Tảng Tất Cả Các Kiến Thức
Thể," Kant phát triển lý thuyết về thời gian và không gian như là cấu trúc tiền
định của ý thức. Ông coi chúng không phải đặc điểm của thế giới bên ngoài
mà là điều kiện tiên quyết để có thể có kiến thức.
lOMoARcPSD| 61622079
17
Nguồn Gốc Của Nhận Thức: Kant phân biệt giữa "hiểu biết" (Verstand) "lý
trí" (Vernunft), với hiểu biết chủ yếu đối mặt với sự lẻ tẻ cụ thể, trong khi
trí đối mặt với vấn đề tổng quát hạn. Ông coi trí như nguồn gốc của
những ý tưởng tổng quát nguyên tắc chung, đóng góp vào quá trình sáng tạo
kiến thức.
Chủ Quan Tương Tác Nhưng Không Phải Đồng Đẳng: Kant nhấn mạnh sự
tương tác giữa tâm hồn thế giới bên ngoài, nhưng ông cũng giữ vững quan
điểm rằng có một sự chủ quan trong kiến thức. Ông cho rằng kiến thức không chỉ
phản ánh thế giới còn được xây dựng thông qua các cấu trúc nhận thức của
tâm hồn.
Tóm lại, quan điểm của Immanuel Kant về sự phát triển của khoa học tập trung vào cách
ý thức tương tác với thế giới cách chúng ta hiểu biết về thế giới xung quanh thông
qua các cấu trúc và nguyên tắc của ý thức. Ông đã đặt nền móng cho triết học chủ nghĩa
hiện đại ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả khoa
học và triết học.
Hegel (1770-1831) một nhà triết học người Đức, được coi là một trong những triết gia
quan trọng nhất trong lịch sử triết học phương Tây. Ông không đặc biệt đề cập một cách
chi tiết về sự phát triển của khoa học như nhiều nhà khoa học hay triết gia khoa học hiện
đại. Tuy nhiên, triết của ông một số đặc điểm quan trọng về sự phát triển tiến
triển trong lĩnh vực tri thức duy, thể liên quan đến sự phát triển của khoa
học. Hegel theo đuổi chủ nghĩa điển tính, đặt tưởng ý niệm trung tâm của hiểu
biết. Ông coi sự phát triển của tư tưởng và ý niệm là một quá trình lịch sử không ngừng,
tiến triển qua các giai đoạn và đạt được sự tự hoàn thiện.
Hegel sử dụng phương trình nghịch đảo để mô tả quá trình tiến triển và phát triển
của ý niệm. Theo đó, một ý niệm xuất phát, tiến triển, cuối cùng, bằng cách
nghịch đảo chính nó, trở thành một cấp độ mới. Điều này thể được xem xét
khi nói về sự phát triển của tri thức trong lĩnh vực khoa học.
Hegel cho rằng sự phát triển thường đi kèm với sự trái ngược và xung đột. Trong
quá trình giải quyết sự trái ngược, một cấp độ mới xuất hiện. Điều này có thể liên
quan đến cách mà các thuyết khoa học phát triển thông qua việc giải quyết những
vấn đề và sự trái ngược trong kiến thức hiện có.
Hegel coi xã hội như một phần của quá trình tự nhiên và nhấn mạnh sự tương tác
giữa nhân hội. Việc hội phát triển cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
của kiến thức, bao gồm cả khoa học.
Hegel quan điểm lịch sử về sự tiến triển, với ông coi sự phát triển của nhận
thức và tri thức là một quá trình có thể theo dõi qua lịch sử. Sự tiến bộ của xã hội
và tư duy có thể được hiểu qua việc nghiên cứu các giai đoạn lịch sử.
Tổng hợp lại, thể thấy được rằng các nhà kinh điển như Plato, Aristotle, Descartes,
Kant Hegel đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của triết học khoa học. Họ
đã giúp định hình các quan điểm và giải thích các khái niệm quan trọng trong khoa học
và triết học. Tuy nhiên, các quan điểm của các nhà kinh điển này có thể không phù hợp
với các phát hiện khoa học mới nhất với một số lý do như sau:
Đầu tiên, các nhà kinh điển sống trong các thời kỳ khác nhau giới hạn về
kiến thức so với ngày nay. Các phát hiện công bố khoa học mới đã mở ra
lOMoARcPSD| 61622079
18
những hiểu biết mới về vũ trụ, tự nhiên, và tâm lý con người mà họ không thể dự
đoán được.
Các nhà kinh điển thường sử dụng phương pháp nghiên cứu và tiếp cận triết học
phù hợp với thời đại của họ. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu khoa học đã
phát triển thay đổi theo thời gian, điều này thể dẫn đến sự không phù hợp
của mô hình phương pháp cổ điển với yêu cầu và tiêu chuẩn hiện đại.
Các lĩnh vực khoa học như vật hạt nhân, gen học, nơron học, đã mang lại
những hiểu biết mới và thách thức cho những quan điểm truyền thống. Các khám
phá này thể đòi hỏi sthay đổi điều chỉnh trong quan điểm triết học để phản
ánh chính xác hơn hiểu biết mới.
Những phát hiện mới về sự tự nhiên và xã hội có thể đưa ra thách thức cho những
quan điểm đặt ra bởi các nhà kinh điển. Ví dụ, quan điểm về tâm hồn, con người,
và xã hội có thể cần được điều chỉnh khi có thêm thông tin và hiểu biết mới.
Công nghệ hiện đại đã mở ra các phương tiện nghiên cứu mới, nmáy tính, kính
hiển vi điện tử, công nghệ DNA sequencing, mang lại những ng cụ mạnh
mẽ cho các nhà khoa học để thăm dò và hiểu biết về thế giới xung quanh.
Tổng cộng, quan điểm của các nhà kinh điển quan trọng và giá trị trong việc hiểu
về lịch sử và phương pháp tiếp cận triết học và khoa học. Tuy nhiên, khi áp dụng chúng
vào hiện đại, cần phải xem xét điều chỉnh chúng để phản ánh chính xác hơn những
hiểu biết mới và phát hiện của khoa học hiện đại.
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển
của các khoa học
a. Vai trò thế giới quan của triết học
Triết học là hạt nhân lý luận, là bộ phận quan trọng nhất của thế giới quan triết học, bởi
triết học tả những vấn đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật; nó chi phối các quan niệm còn lại của thế giới quan, như quan niệm về đạo
đức, văn hóa, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, tôn giáo. Hơn nữa, triết học không chỉ nêu
lên các quan điểm của mình, còn chứng minh cho các quan điểm đó bằng tính.
Triết học với cách hạt nhân luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát
triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do
các khoa học mang lại.
Triết học trang bị cho con người những quan niệm về thế giới, về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới ấy, về chính bản thân và cuộc sống của con người và loài người.
Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là sở lý luận của hai thế giới quan triết học
bản đối lập nhau. Chính vậy chúng đóng vai trò hạt nhân, nền tảng thế giới
quan của các hệ tưởng đối lập nhau. Cuộc đấu tranh giữa chnghĩa duy vật chủ
nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa
những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau. Do đó, thế giới quan đúng đắn
tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động;
ngược lại, thế giới quan sai lầm m cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động nói chung, hoạt động khoa học nói riêng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622079
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đề tài
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC
Tên học phần: Triết học
Lớp học phần: Triết học Tự nhiên 4 GVHD: TS. Phạm Quốc Hương
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61622079 1 Lời mở đầu
Trong quá trình biên soạn, mặc dù chúng em đã rất cố gắng nhưng do khả năng còn hạn
chế nên ắt hẳn bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý
của thầy và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 12 năm 2023 Tập thể nhóm 6 lOMoAR cPSD| 61622079 2 Danh sách thành viên Số thứ tự Họ và tên 1 Phạm Hoàng Duy 2 Trần Ánh Dương 3 Nguyễn Nhan Gia Hưng 4 Trần Minh Khôi Phạm Bích Ngọc 5 (nhóm trưởng) 6 Nguyễn Huỳnh Thảo Nhi 7 Hồ Tuyết Nhung 8 Tạ Quốc Văn lOMoAR cPSD| 61622079 Mục lục
I. KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC ............................................................................. 4
1. Khoa học là gì? ..................................................................................................... 4
2. Triết học là gì? ...................................................................................................... 4
3. Khoa học và triết học ............................................................................................ 4
II. VAI TRÒ CỦA CÁC KHOA HỌC ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC ............................. 5
1. Thời kỳ cổ đại ....................................................................................................... 5
2. Thời kỳ Phục hưng ............................................................................................... 7
3. Thời kỳ cận đại ..................................................................................................... 8
4. Thời kỳ hiện đại .................................................................................................... 9
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
KHOA HỌC ............................................................................................................. 13
1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin về vai trò củatriết
học đối với các khoa học ........................................................................................ 13
a. Quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels......................................................... 13
b. Quan điểm của Vladimir Ilyich Lenin ...................................................................... 14
c. Quan điểm của một số nhà kinh điển khác................................................................ 15
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển của
các khoa học ........................................................................................................... 18
a. Vai trò thế giới quan của triết học ............................................................................. 18
b. Vai trò phương pháp luận của triết học ..................................................................... 19
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÁN HỌC VÀ TRIẾT HỌC ................................. 22
1. Toán học là một thế giới vật chất khách quan và gắn liền với phương pháp luận biện
chứng ............................................................................................................................. 22
2. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất trong Toán học ........................ 23
3. Toán học tuân theo ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ................ 23
4. Vận dụng quy luật “Chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay ......................................................................................................................... 24
đổi về chất và ngược lại” vào dạy học Toán ................................................................. 24 lOMoAR cPSD| 61622079 4
I. KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC 1. Khoa học là gì?
Khoa học là một hệ thống các tri thức thế giới quan của con người về những sự vật, hiện
tượng, mọi quy luật hoạt động của vật chất, quy luật trong tự nhiên, xã hội và về tư duy.
Theo Điều 3 trong Luật Khoa học và công nghệ 2013, khoa học bao gồm một hệ thống
các tri thức bao gồm tất cả mọi thứ thuộc về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của
các sự vật, hiện tượng về tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Triết học là gì?
Thuật ngữ triết học (philosophia) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là yêu mến
(philos) sự thông thái (sophia). Triết học được coi là hình thái cao nhất của tri thức, có
thể làm sáng tỏ bản chất của mọi sự vật, hiện tượng.
Khái niệm triết học dù theo quan niệm của phương Đông, hay phương Tây, dù ở thời cổ
đại hay ở thời hiện đại, bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố:
 Một là, yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh, trong đó
có con người, sự giải thích hiện thựuc bằng hệ thống các quy luật của tư duy.
 Hai là, yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động.
Nói một cách khái quát, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.

3. Khoa học và triết học
Thời cổ đại, triết học chưa có đối tượng riêng của nó. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học bao
gồm tất cả các khoa học: siêu hình học, toán học, vật lý học, thiên văn học, chính trị học,
đạo đức học, lôgíc học, mỹ học, v.v.. Nhà triết học đồng thời là nhà khoa học nói chung.
Ở Trung Hoa và Ấn Độ cổ đại, tư tưởng triết học nằm trong các học thuyết chính trị, đạo đức, tôn giáo. lOMoAR cPSD| 61622079 5
Thời Trung cổ, triết học bị coi là “đầy tớ” của tôn giáo, chỉ có nhiệm vụ lý giải, chứng
minh những tín điều tôn giáo.
Thế kỷ XVII-XVIII, triết học duy vật dựa trên khoa học thực nghiệm phát triển mạnh
mẽ và đấu tranh quyết liệt chống lại tư tưởng phong kiến và giáo điều tôn giáo.
Tuy nhiên trong thời kỳ này người ta vẫn còn quan niệm “triết học là khoa học của các khoa học”.
Quan niệm này tồn tại mãi cho đến đầu thế kỷ XIX. Hegel là nhà triết học cuối cùng coi
triết học là một hệ thống hoàn chỉnh của nhận thức trong đó mỗi ngành khoa học chỉ là
một bộ phận hợp thành hệ thống. Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập từng
bước đã làm cho triết học không còn là “khoa học của mọi các khoa học”.
Theo tính quy luật của sự hình thành, phát triển của triết học: sự hình thành và phát triển
của triết học gắn liền với các thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
khoa học xã hội và nhân văn.

Sự hình thành và phát triển của triết học, một mặt, phải khái quát được thành tựu của
các khoa học, mặt khác phải đáp ứng được yêu cầu phát triển của khoa học trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy, với mỗi giai đoạn phát triển của khoa học thì triết
học cũng có một bước phát triển. Đúng như Engels đã nhận định: “Mỗi lần có một phát
minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó.”
Do đó, việc nghiên cứu các tư tưởng triết học không thể tách rời các giai đoạn phát triển
của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC KHOA HỌC ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC
1. Thời kỳ cổ đại
Trong thời kỳ cổ đại, triết học và các khoa học không tách rời nhau. Ở Hy Lạp - La Mã,
triết học gắn liền với các khoa học tự nhiên và gọi là nền triết học tự nhiên. Các nhà triết
học cũng đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên. Khi mới được ra đời, triết học bao quát
mọi lĩnh vực tri thức và xuất hiện quan niệm "triết học là khoa học của các khoa học".
Triết học tự nhiên là hệ thống các quan điểm về thế giới và những hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau của con người, như toán học, vật lý học, thiên văn học, sinh vật học, y học...
Do trình độ của khoa học còn bị hạn chế nên con người thời kỳ cổ đại không có gì để
mà dựa dẫm, do đó buộc họ phải phát huy tối đa vai trò của nhân tố chủ quan, vai trò
của trí tuệ con người, thể hiện trình độ tư duy trừu tượng khái quát hết sức cao của các
nhà triết học thời cổ đại. Điều đó quy định đặc trưng chung của triết học thời kỳ cổ đại
đề cao vai trò của tư duy lý tính, vai trò của trí tuệ con người. Cũng do sự tác động
của khoa học mà chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là chủ nghĩa duy vật thô sơ, chất phác;
phép biện chứng là phép biện chứng tự phát ngây thơ; còn chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy tâm khách quan.
 Chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại là chủ nghĩa duy vật thô sơ, chất phác, bởi vì các
nhà duy vật thời kỳ cổ đại chủ yếu xuất phát từ sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng lOMoAR cPSD| 61622079 6
đoán nên các yếu tố vật thể cụ thể là khởi nguyên của thế giới, chưa có cơ sở khoa học. Chẳng hạn
+ Thales coi khởi nguyên của thế giới là nước,
+ Anaximen coi khởi nguyên của thế giới là không khí,
+ Heraclitus coi khởi nguyên của thế giới là lửa,
+ Leucippus và Democritos coi khởi nguyên của thế giới là nguyên tử (hạt vật chất nhỏ nhất),
+ Thuyết Ngũ hành coi khởi nguyên của thế giới là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Có thể thấy rằng, quan niệm của Leucippus và Democritos về nguyên tử là khởi nguyên
của thế giới, cũng như tính đa dạng của thế giới do trật tự sắp xếp của các nguyên tử
(tức là cấu trúc của sự vật) quyết định mang tính chất vượt thời đại, vì sau này khoa học
mới chứng minh một cách rõ ràng rằng, phương thức tồn tại của sự vật là do cách thức
liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết định.
 Phép biện chứng thời kỳ cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ, bởi vì các nhà
biện chứng thời kỳ cổ đại chủ yếu xuất phát từ sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng
đoán nên các quy luật vận động, phát triển của thế giới, chưa có cơ sở khoa học. Đó chỉ
là những tư tưởng biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán, mới chỉ dừng lại ở sự
mô tả tính biện chứng của thế giới, nên chưa trở thành hệ thống lý luận.
Các nhà biện chứng thời cổ đại xem xét thế giới như một chỉnh thể luôn luôn vận động,
phát triển không ngừng và đi tìm cơ sở của chỉnh thể ấy từ một hoặc một số yếu tố vật
thể cụ thể. Do khoa học chưa phát triển, chưa đi sâu vào việc khám phá cấu trúc vi mô
của thế giới vật chất cho nên các nhà triết học chỉ nhìn thế giới trong một tổng thể mà
chưa đi vào từng chi tiết, từng bộ phận của thế giới, họ chỉ thấy toàn thể mà không thấy
bộ phận, chỉ thấy rừng mà không thấy cây. Chẳng hạn:
+ Heraclitus (tiêu biểu cho phép biện chứng khẳng định trong triết học Hy Lạp cổ đại)
cho rằng, mọi cái cứ trôi đi, chảy đi không bao giờ dừng lại, đã phát biểu một luận điểm
nổi tiếng “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Ông đã phỏng
đoán nên quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Theo Heraclitus, mâu
thuẫn tồn tại phổ biến trong các sự vật, hiện tượng, là nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau và chuyển
hóa cho nhau. Nhờ có sự chuyển hóa mới tạo nên sự biến đổi không ngừng: cái nóng thì
lạnh đi, cái lạnh lại nóng lên, ẩm ướt thành khô ráo và ngược lại….Các mặt đối lập thống
nhất với nhau, bao hàm lẫn nhau: “Cái thiện và cái ác chỉ là một. Ví như bác sĩ mổ xẻ,
bác sĩ mổ làm bệnh nhân đau, đó là việc làm ác; nhưng với mục đích cứu người thì đó
lại là việc thiện”. Heraclitus có tư tưởng về sự nương tựa lẫn nhau của các mặt đối lập:
“Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm
cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ chịu hơn”.

+ Zeno (tiêu biểu cho phép biện chứng phủ định) không giải quyết được các nghịch lý
(apôria) mà ông nêu ra, nhưng ý nghĩa của nó không dừng lại ở việc bảo vệ học thuyết
tồn tại của Parmenides. Công lao của ông đã đặt ra nhiều vấn đề biện chứng sâu sắc. Đó
là các vấn đề về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của thế giới, giữa vận
động và đứng im, giữa tính liên tục và tính gián đoạn của vận động, giữa tính hữu hạn lOMoAR cPSD| 61622079 7
và tính vô hạn của thế giới và về tính phức tạp của quá trình vận động của sự vật vào tư
tưởng, vào lôgích của khái niệm.
+ Socrates (tiêu biểu cho phép biện chứng với tính cách là nghệ thuật tranh luận), đã
nêu lên phương pháp biện chứng để vạch ra mâu thuẫn trong cách lập luận của đối
phương, nhằm đạt đến chân lý.
Cho dù còn hạn chế, nhưng phép biện chứng thời cổ đại đóng vai trò là cơ sở cho sự
phát triển của phép biện chứng sau này. Đúng như Friedrich Engels đã đánh giá: “Cái
thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ
ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật
đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”
.
 Chủ nghĩa duy tâm thời kỳ cổ đại, do tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, của trí tuệ con
người, nên biểu hiện là chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chẳng hạn:
+ Pythagoras xuất phát từ sự nghiên cứu toán học, quan sát thế giới số và thấy rằng,
trong thế giới số có nhiều điều bí ẩn, kỳ diệu, từ đó ông đã thần thánh hóa thế giới số và
cho rằng, con số là khởi nguyên của thế giới.
+ Platon, chính vì tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý tính nên ông cho rằng, ý niệm,
khái niệm là cái có trước và sinh ra thế giới.
2. Thời kỳ Phục hưng
Trước đây các tri thức khoa học tự nhiên còn là bộ phận của triết học. Đến thời kỳ Phục
hưng, do yêu cầu của thực tiễn xã hội, trên cơ sở thực tiễn sản xuất vật chất và những
biến đổi xã hội, những tư tưởng triết học và các khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển. Cụ
thể là, để trở thành một lực lượng chính trị độc lập bước lên vũ đài chính trị thì buộc giai
cấp tư sản phải áp dụng các thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng
cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Đồng thời, giai cấp tư sản cũng cần tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy
tâm, tôn giáo. Chính vì thế, trong thời kỳ Phục hưng chủ nghĩa duy vật được khôi phục
và phát triển
cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Triết học dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên để đấu tranh chống lại thế giới
quan tôn giáo, thần học, thực hiện và củng cố liên minh giữa triết học và khoa học tự
nhiên, chứng minh phương pháp nhận thức tự nhiên bằng thực nghiệm, kinh nghiệm,
phê phán thần học và chủ nghĩa kinh viện. Sự phát triển của các ngành khoa học tự
nhiên, đặc biệt là cơ học đã quyết định mầm mống ra đời của phương pháp siêu hình
trong khoa học tự nhiên, đến thế kỷ XVII – XVIII được áp dụng trong triết học.
Kết quả là, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện trung
cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học
duy vật – tiền đề cho những thành tựu mới của khoa học và triết học trong các thế kỷ tiếp theo.
Thuyết Nhật tâm của Nicolaus Copernicus khẳng định rằng: “Mặt Trời là trung tâm của
vũ trụ, còn các hành tinh khác, kể cả Trái Đất đều quay xung quanh mặt trời, tuân theo
các quy luật khách quan vốn có của nó.
” Điều này có nghĩa là tất cả các hiện tượng tự lOMoAR cPSD| 61622079 8
nhiên và xã hội không phải do thần thánh, thượng đế sinh ra như Thuyết Địa tâm khẳng
định, mà là do chính các quy luật tự nó quyết định.
Riêng đối với con người, các hiện tượng xã hội, như giàu - nghèo, sang- hèn, hạnh phúc
- bất hạnh, thống trị bị trị, áp bức bị áp bức... không phải do thần thánh, thượng đế tạo
ra, mà là do chính con người ta tạo ra. Chính vì thế, theo đánh giá của F.Engels, đây là
một cuộc cách mạng từ trên trời báo trước cuộc cách mạng trong đời sống xã hội.
Có thể nói, cuộc cách mạng này trước hết là cuộc cách mạng về thế giới quan, nó tác
động rất lớn lớn đến khoa học và thực tiễn xã hội. Không phải ngẫu nhiên, từ khi Thuyết
Nhật tâm ra đời, khoa học và thực tiễn xã hội ở Tây Âu phát triển như vũ bão. Khi đánh
giá về ý nghĩa cách mạng của "Thuyết Nhật tâm” của Nicolaus Copernicus, Friedrich
Engels khẳng định: "Hành vi cách mạng mà khoa học tự nhiên dùng để tuyên bố sự độc
lập của mình...chính là việc xuất bản tác phẩm bất hủ trong đó Copernicus tuy với thái
độ rụt rè và có thể nói là chỉ trong khi hấp hối, đã thách thức uy quyền của Giáo hội
trong các vấn đề của giới tự nhiên. Từ đó trở đi, khoa học tự nhiên mới bắt đầu được
giải phóng khỏi thần học...Từ ngày đó, sự phát triển của các ngành khoa học cũng tiến
được những bước khổng lồ và ngày càng mạnh lên..."

3. Thời kỳ cận đại
Sang thời kì cận đại, do yêu cầu phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và để
củng cố địa vị của mình thì buộc giai cấp tư sản cần phải áp dụng các thành tựu của khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Chính vì vậy, các khoa học tự nhiên đã được tách khỏi triết học trở
thành các khoa học tương đối độc lập để có điều kiện nghiên cứu một cách sâu sắc hơn
bản chất và các quy luật của thế giới trong từng lĩnh vực nhất định, nhưng triết học vẫn
gắn liền mật thiết với các khoa học tự nhiên. Khi ấy, những khám phá khoa học với
những chất liệu thực tiễn đã trở thành chỗ dựa vững chắc đối với quá trình giải phóng
triết học ra khỏi ảnh hưởng của thần học, tiếp tục con đường hướng tới chân lý. Triết
học không thể phát triển nếu tách khỏi trình độ nhận thức chung của thời đại, trong đó
có trình độ phát triển của các tri thức khoa học cụ thể.
Đặc biệt, trong khoa học tự nhiên có sự thống trị của cơ học cổ điển của Newton. Mà
đặc trưng cơ bản của cơ học cổ điển của Newton là đề cao và tuyệt đối hóa vai trò của
khối lượng, coi khối lượng là một đại lượng bất biến, khối lượng là nguyên nhân của
mọi tồn tại, của mọi vận động. Chính vì thế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến triết học thời đó
là đồng nhất vật chất với khối lượng. Và cũng chính điều đó đã làm cho phương pháp
thực nghiệm thống trị trong khoa học tự nhiên. Tức là một phương pháp mà đòi hỏi cần
phải xem xét thật chi tiết, tỉ mỉ các sự vật. Muốn vậy, cần phải mổ xẻ các sự vật ấy thành
các bộ phận, tức là tiến hành phân tích chúng và đặt các bộ phận ấy trong trạng thái tách
biệt, ổn định tương đối. Nhưng cũng điều đó làm cho các nhà khoa học có thói quen là
tuyệt đối hóa trạng thái tách biệt và ổn định, để từ đó phương pháp siêu hình trở nên
thống trị trong triết học.
Về vấn đề này, Friedrich Engels chỉ rõ: “Những phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời
cũng để lại cho chúng ta một thói quen là xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự
nhiên trong tại thái biệt lập của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó
không xem xét chúng trong trạng thái vận động biến đổi mà xem xét trong trạng thái
lOMoAR cPSD| 61622079 9
tĩnh, không xem xét chúng trong trạng thái sống mà chỉ xem xét chúng trong trạng thái
chết. Và khi phương pháp nhận thức ấy được Francis Bacon và John Locke đưa từ khoa
học tự nhiên vào triết học thì nó tạo ra tính hạn chế đặc thù của những thế kỷ gần đây -
tức là phương pháp “tư duy siêu hình”
. Phương pháp siêu hình chỉ thấy bộ phận mà
không thấy toàn thể, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
Từ cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, trước đòi hỏi của sự phát triển phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu to lớn:
+ phát hiện ra điện, oxy và bản chất của sự cháy của Lavoisier;
+ phát hiện ra tế bào của Leeuwenhoek;
+ học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Psellos…
Những thành tựu khoa học tự nhiên cùng với điều kiện kinh tế- chính trị - xã hội đã làm
thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức muốn thoát khỏi trật tự khắt khe
của chế độ phong kiến hà khắc lúc bấy giờ. Nhưng vì còn non yếu về số lượng và chất
lượng nên giai cấp tư sản Đức chưa đủ sức làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực xã hội,
trong thực tiễn, nhưng hoàn toàn có khả năng làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng.
Đồng thời, những điều kiện trên đây cũng đòi hỏi triết học phải có một cách nhìn mới –
một cách nhìn biện chứng về toàn bộ thế giới tự nhiên và lịch sử như một quá trình luôn
luôn vận động, phát triển không ngừng. Do vậy, phương pháp tư duy siêu hình từng
thống trị ở thời kì cận đại đã trở nên bất lực và được thay thế bằng phương pháp duy vật
biện chứng. Cũng chính vì thế, phép biện chứng cổ đại đã được khôi phục lại trong triết
học cổ điển Đức và triết học Friedrich Hegel là “cái thai đẻ non” cuối cùng xem triết
học là “khoa học của các khoa học”.
4. Thời kỳ hiện đại lOMoAR cPSD| 61622079 10
Từ giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển như vũ bão với hàng loạt phát minh
mang ý nghĩa vạch thời đại, đưa đến sự biến đổi phong cách thức tư duy của con người.
Ba thành tựu mà Friedrich Engels nhắc đến trong tác phẩm "Ludwig Andreas Feuerbach
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" được gọi là các phát minh vạch thời đại do
tác động quyết định của chúng đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, dẫn đến sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, đó là:
Vật lý học: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
Năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi mà nó chỉ có thể
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Điều đó chứng tỏ thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không có nguyên
nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng. Và như vậy, định luật này bác bỏ quan
điểm duy tâm
khi cho rằng thế giới có nguyên nhân đầu tiên là thực thể tinh thần, ý thức,
cũng như bác bỏ quan điểm tôn giáo coi Thượng Đế là nguyên nhân đầu tiên, tuyệt đối của thế giới.
Mặt khác, định luật này cũng bác bỏ chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật
siêu hình coi thế giới có khởi nguyên từ các yếu tố vật thể cụ thể nào đó. Định luật này
tạo nên chất liệu sống động cho sự lý giải mới về toàn bộ thế giới vật chất, khẳng định
rằng, thế giới vật chất là một quá trình luôn trải qua sự liên hệ, tác động, chế ước, chuyển
hóa lẫn nhau giữa các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Hay nói cách khác, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã khẳng định quan
điểm duy vật biện chứng về sự tồn tại và phát triển của thế giới vật chất.
Sinh vật học: Thuyết tế bào
- Mọi cơ thể sống đều được cấu tạo từ các tế bào.
- Sự vận động và phát triển của các cơ thể sống là quá trình tự nhân đôi, tự phân chiacủa
các tế bào (quá trình phân bào).
Như vậy, thuyết này đã chỉ ra nguyên nhân bên trong, nguyên nhân vật chất của sự tồn
tại, vận động và phát triển của các cơ thể thực vật, động vật. Khẳng định chân lý khoa
học này cũng có nghĩa là bác bỏ quan niệm về nguồn gốc siêu nhiên của sự sống, cũng
như sự giải thích giản đơn, máy móc, siêu hình về thế giới, đặc biệt là thế giới hữu sinh.
Phát minh này đã bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo coi nguyên nhân tồn tại, vận động
và phát triển của thế giới là các yếu tố tinh thần, ý thức, là kết quả của "cái hích" của
thượng để; đồng thời bác bỏ quan điểm duy vật siêu hình khi coi nguyên nhân bên
ngoài là nguyên nhân quyết định của mọi vận động, phát triển.
Thuyết tiến hóa
- Sự vận động, phát triển của thế giới là một quá trình thường xuyên, liên tục, từ thấpđến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, tuân
theo các quy luật khách quan vốn có của nó.
- Sự xuất hiện của con người và xã hội loài người là sản phẩm tất yếu trong quá trìnhphát
triển của giới tự nhiên, trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm. lOMoAR cPSD| 61622079 11
Thuyết tiến hóa của Charles Darwin đã vẽ nên bức tranh vô cùng phong phú, phức tạp,
song tuân theo tính quy luật bên trong, khách quan của mình, trong đó có quy luật chọn
lọc tự nhiên, đấu tranh sinh tồn, tính thích nghi, tự đào thải và cân bằng sinh thái.
Như vậy, phát minh này cũng khẳng định nguyên nhân vật chất của sự vận động, phát
triển của thế giới, bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo, duy vật chất phác, siêu hình về
thế giới và khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
 Như vậy, các thành tựu khoa học tự nhiên đã kích thích các nhà khoa học đào sâu quá
trình tìm hiểu tính thống nhất vật chất của thế giới, tính đa dạng, muôn hình muôn vẻ
của tồn tại, khám phá những bí ẩn của thế giới vật chất, đồng thời góp phần đưa đến sự
hình thành phương pháp tư duy mới. Những thành tựu mới nhất của sinh học, y học, tế
bào học hiện đại tiếp tục soi sáng các vấn đề mà vào thời Darwin mới chỉ là những phác
thảo hoặc chưa đề cập đến. Điều đáng nói là mỗi bước đi, mỗi phát minh tiêu biểu của
các khoa học đều buộc các nhà tư tưởng phải tìm hiểu, khái quát, thẩm định giá trị của
một quan điểm, một học thuyết khoa học.
Những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên cùng với những biến đổi trong
các khoa học lịch sử đã góp phần đưa đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghĩa duy
vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình; nó cần được thay thế bằng hình thức hiện đại của
chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Friedrich Engels viết: "Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong
lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi
hình thức của nó”.

Friedrich Engels cho rằng, để trở thành một nhà triết học chân chính, điều kiện trước
tiên là phải nắm vững kiến thức về khoa học tự nhiên - lịch sử, từ toán học, vật lý đến
các khoa học về con người. Sử mệnh lịch sử đó mà khoa học giao phó đã được đảm
nhiệm bởi Karl Marx và Friedrich Engels. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những
thành tựu khoa học tự nhiên, kế thừa những giá trị tinh hoa của lịch sử triết học nhân
loại, Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập nên một hệ thông triết học vĩ đại nhất trong
lịch sử - Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là thế giới quan và phương
pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn.
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã diễn ra cuộc khủng hoảng
vật lý học, mà những thành tựu của nó đòi hỏi triết học phải có một cách nhìn mới sâu
sắc hơn về thế giới vật chất. Cụ thể là:
+ Năm 1895, Wilhelm Conrad Röntgen phát hiện ra tia X;
+ Năm 1896, Antoine Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ;
+ Năm 1897, Joseph John Thomson phát hiện ra điện tử;
+ Năm 1901, Walter Kaufmann chứng minh khối lượng của điện tử cũng biến đổi cùng
với vận tốc chuyển động của nó;
+ Năm 1905, Albert Einstein phát minh ra thuyết tương đối hẹp.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những thành tựu của khoa học tự nhiên, kế thừa
quan điểm biện chứng của Karl Marx và Friedrich Engels, phê phán quan điểm duy tâm,
siêu hình về vật chất, Vladimir Ilyich Lenin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật lOMoAR cPSD| 61622079 12
chất. Định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin về vật chất có ý nghĩa thế giới quan và
phương pháp luận hết sức to lớn đối sự phát triển của triết học và các khoa học. Những
thành tựu ấy của khoa học tự nhiên càng khẳng định tính thống nhất vật chất và tính đa
dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới.
Như vậy, những thành tựu của khoa học có nhu cầu tự thân đòi hỏi phải được giải thích
lý luận, tất yếu dẫn tới các kết luận chung về lý thuyết, những khái quát triết học định
hướng. Thiếu kiến thức khoa học và dữ liệu đời sống cập nhật, nhà triết học không thể
có tư duy triết học hợp lý, đúng đắn; triết học trở nên xa rời thực tiễn. Các khoa học cụ
thể đem đến cho triết học chất liệu sống
, nhờ đó các nhà triết học đưa ra những giải
thích về sự vật, hiện tượng một cách hợp lý, có căn cứ, đồng thời, từ các dữ liệu của quá
khứ, hiện tại, họ cùng các nhà khoa học gợi mở, dự báo về những vấn đề của tương lai.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học Marx đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ thể. Ngày
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học MarxLenin không
thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình. lOMoAR cPSD| 61622079 13
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC KHOA HỌC
1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin về vai trò của
triết học đối với các khoa học
a. Quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels nhấn mạnh rằng, “chính
phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện
đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp
giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, giải thích những mối liên
hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác”.

Friedrich Engels đã từng phê phán một số nhà khoa học tự nhiên lệ thuộc rất nhiều vào
tư duy lý luận, nhưng thường lại là tư duy sai lầm được rút ra từ những học thuyết triết
học “tồi tệ nhất”. Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels viết: “Những nhà
khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc
phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và
muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù logic, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một
cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người
gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết
học đã lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc
trong các trường đại học (đó không chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ
hổ lốn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường
là những trường phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại
mà họ đọc một cách không có hệ thống và không phê phán – cho nên dù sao, rút cục lại,
họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học… Những ai phi báng triết học nhiều nhất lại chính là
những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết
học tồi tệ nhất”.

Do vậy, Friedrich Engels đã nhấn mạnh rằng: “Dù các nhà khoa học tự nhiên có làm gì
đi nữa thì họ vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ
triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận
dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.

Friedrich Engels vạch ra rằng, sự khinh miệt của những kẻ kinh nghiệm chủ nghĩa đối
với phép biện chứng sẽ bị trừng phạt. Họ tất nhiên phải sa vào chủ nghĩa duy tâm và
phép thần bí: “Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trùng
phạt. Dù người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không
có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên với
nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó...Và như vậy sự
khinh thường phép biện chứng theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa sẽ bị trừng phạt như
sau: nó đưa một số người thực nghiệm chủ nghĩa tỉnh táo nhất sa vào chỗ dị đoan ngu
xuẩn nhất, sa vào thần linh học cận đại”.

Theo Friedrich Engels, muốn giải quyết mâu thuẫn ngày càng sâu sắc trong khoa học tự
nhiên thì các nhà khoa học tự nhiên phải tự giác nắm lấy phép biện chứng, phải trở thành
những nhà biện chứng tự giác. Khi kêu gọi các nhà khoa học tự nhiên quay trở lại với lOMoAR cPSD| 61622079 14
phép biện chứng, Friedrich Engels viết: “Có thể quay trở lại bằng nhiều con đường khác
nhau. Có thể quay trở lại một cách tự phát, bằng cách chỉ dựa vào sức mạnh của những
phát minh của bản thân khoa học tự nhiên, những phát minh không còn muốn để bị buộc
lên cái giường của Prôquýtxtơ của chủ nghĩa siêu hình cũ nữa. Nhưng đó là một quá
trình lâu dài và khó khăn, trong đó cần phải vượt qua rất nhiều sự va chạm vô ích. Đại
bộ phận quá trình ấy đang diễn ra nhất là trong sinh học. Có thể rút ngắn quá trình ấy
đi rất nhiều, nếu các đại biểu của khoa học tự nhiên lý thuyết muốn tìm hiểu sát hơn nữa
triết học biện chứng dưới những hình thức lịch sử có sẵn của nó”.

Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Friedrich Engels chỉ ra vai trò quan trọng của tư duy
lý luận đối với đời sống xã hội nói chung, đối với sự phát triển của khoa học nói riêng.
Ông khẳng định tư duy biện chứng là chiếc chìa khóa, là con đường để dẫn tới sự phát
triển của khoa học, để khoa học làm tròn sứ mệnh cao cả của mình. Friedrich Engels
nhấn mạnh rằng, “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không
thể không có tư duy lý luận… chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học tự
nhiên vượt khỏi những khó khăn về ly luận… Trên thực tế, ở đây, ngày nay không còn
một lối thoát, không còn một khả năng nào để có thể nhìn thấy ánh sáng nếu không từ
bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác”.

Và như vậy, lịch sử phát triển của triết học đã chứng tỏ rằng, triết học có vai trò to lớn
trong việc rèn luyện năng lực tư duy lý luận của con người, bởi như Friedrich Engels
khẳng định “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người
ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó
thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”.

Không phải ngẫu nhiên, trong “Lời tự” viết cho ba lần xuất bản tác phẩm “Chống
Dühring”, Friedrich Engels đã khẳng định: “Chỉ có khi nào khoa học tự nhiên tiếp thu
được những kết quả của hai nghìn năm trăm năm phát triển của triết học thì nó mới có
thể, một mặt, thoát khỏi mọi thứ triết học tự nhiên đứng tách riêng, đứng ngoài và đứng
trên nó và, mặt khác, thoát khỏi cái phương pháp tư duy hạn chế của chính nó, do chủ
nghĩa kinh nghiệm Anh để lại”.

b. Quan điểm của Vladimir Ilyich Lenin
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels, trong tác phẩm “Về
tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu – Di chúc triết học” của V. I. Lenin, ông khẳng
định: “Ngoài sự liên minh với những người duy vật chủ nghĩa triệt để, không ở trong
Đảng cộng sản, thì một điều không kém quan trọng, nếu không phải là quan trọng hơn
đối với sự nghiệp mà chủ nghĩa duy vật chiến đấu sẽ phải làm tròn, đó là sự liên minh
với những đại biểu của các ngành khoa học tự nhiên hiện đại đang ngả về chủ nghĩa
duy vật, có can đảm bảo vệ và truyền bá chủ nghĩa này chống những khuynh hướng triết
học duy tâm chủ nghĩa và hoài nghi chủ nghĩa là những khuynh hướng đang thịnh hành
trong cái mà người ta gọi là “giới có học thức”.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của khoa học đối với sự phát triển của xã hội, V. I. Lenin
đã dành nhiều thời gian quan tâm đến sự phát triển của khoa học, có những nhận xét,
đánh giá xác đáng về vai trò ngày càng tăng của khoa học trong đời sống xã hội. Đồng lOMoAR cPSD| 61622079 15
thời, qua các tác phẩm lý luận và qua sự chỉ đạo thực tiễn, V. I. Lenin đã nêu lên những
nguyên tắc phương pháp luận về sự phát triển của khoa học, về sự lựa chọn phương
hướng nghiên cứu, về quản lý hoạt động khoa học, về mối quan hệ và sự tác động qua
lại giữa các khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, giữa triết học và các khoa học cụ thể.
Trong tác phẩm này, V. I. Lenin đặt ra nhiệm vụ phát triển triết học duy vật biện chứng
trên cơ sở tổng kết lịch sử hiện đại, củng cố liên minh thống nhất giữa triết học và khoa
học tự nhiên, phê phán chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo trên tinh thần khoa học. V. I. Lenin
chỉ rõ “… chúng ta cần hiểu rằng nếu không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt
nhiên không có khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu
tranh chống được sự lấn bước của những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế giới
quan tư sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến thành công hoàn
toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ
nghĩa duy vật mà Mác là người đại diện, nghĩa là nhà khoa học tự nhiên ấy phải là một
nhà duy vật biện chứng”.

V. I. Lenin nhận xét: “Triết học của Marx là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó
cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
V. I. Lenin nhấn mạnh, cần phải theo dõi những vấn đề do khoa học tự nhiên đặt ra và
lôi kéo các nhà khoa học tự nhiên tham gia bảo vệ, phát triển chủ nghĩa duy vật chiến
đấu. Bởi vì, theo V. I. Lenin: “Không đặt ra và không thực hiện nhiệm vụ ấy một cách
có hệ thống, thì chủ nghĩa duy vật không thể là một chủ nghĩa duy vật chiến đấu được…
Nếu không làm thế, các nhà khoa học tự nhiên lớn cũng lại vẫn sẽ luôn luôn bất lực
trong những kết luận và khái quát triết học của họ như trước kia. Vì khoa học tự nhiên
đang tiến bộ nhanh, đang trải qua một thời kỳ đảo lộn cách mạng sâu sắc trong tất cà
mọi lĩnh vực, đến nỗi nó tuyệt đối không thể không cần đến những kết luận triết học”.

c. Quan điểm của một số nhà kinh điển khác
Triết học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các khoa học qua nhiều giai
đoạn lịch sử. Triết học giúp các nhà khoa học xác định các giả thuyết, các nguyên lý và
các phương pháp nghiên cứu. Nó cũng giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về các vấn đề
đạo đức và xã hội liên quan đến các phát hiện khoa học của họ.
Plato, một nhà triết học và nhà toán học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, cùng với chủ nghĩa
ý niệm xem thế giới vật chất là một bản sao của thế giới ý niệm, và ý niệm là nền tảng
của sự hiểu biết và kiến thức. Sự phát triển của khoa học, theo Plato, có thể liên quan
chặt chẽ đến việc hiểu biết và nắm bắt về thế giới ý niệm.
Aristotle coi thế giới là thực tế và đề xuất một phương pháp nghiên cứu dựa trên quan
sát và phân tích tự nhiên. Ông đã phát triển các lĩnh vực như logic và phương pháp phân
loại, cố gắng hệ thống hóa kiến thức trong các lĩnh vực như logic, ngôn ngữ học, vật lý,
hóa học, sinh học, và triết học. Có thể thấy những tác động của Aristotle không chỉ giới
hạn trong lĩnh vực triết học mà còn mở ra nhiều hướng phát triển trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, từ khoa học tự nhiên đến chính trị và tâm lý học, sự ảnh hưởng này kéo dài
xuyên suốt và có ý nghĩa to lớn trong lịch sử triết học và khoa học. lOMoAR cPSD| 61622079 16
René Descartes, nhà triết học và nhà toán học người Pháp, mang đến những đóng góp
quan điểm quan trọng về sự phát triển của khoa học: •
Descartes coi việc phát triển khoa học bắt đầu từ một phương pháp nghiên cứu
chặt chẽ và rõ ràng. Ông nổi tiếng với phương pháp nghiên cứu "nghi ngờ tuyệt
đối" (method of doubt), trong đó ông cố gắng loại bỏ mọi niềm tin không chắc
chắn và chỉ chấp nhận những điều có thể chắc chắn. •
Descartes thực hiện sự tách rời giữa tâm hồn và cơ thể (chủ nghĩa tinh thần học),
coi tâm hồn như một thực thể không vật chất và cơ thể như một thực thể vật chất.
Sự phát triển của khoa học theo Descartes bắt nguồn từ việc hiểu biết về cảm giác
và tư duy, đặt nền tảng cho sự phát triển của nhiều ngành khoa học. •
Descartes gắn kết sự phát triển của toán học với sự phát triển của khoa học. Ông
coi toán học là ngôn ngữ của tự nhiên và sự cơ sở cho lý thuyết khoa học. Phương
pháp hình học Descartes đã tạo ra cơ sở cho việc kết hợp toán học và hình học
trong nghiên cứu tự nhiên. •
Descartes quan tâm đến khả năng quyết định và kiểm soát của con người đối với
tự nhiên. Ông coi sự hiểu biết về tự nhiên như là một công cụ để kiểm soát và sử
dụng tối ưu tài nguyên xung quanh. •
Descartes tin rằng tự nhiên có thể được hiểu biết bằng ngôn ngữ toán học, và ông
khẳng định rằng toàn bộ vũ trụ có thể được mô tả thông qua các phương trình toán học. •
Quan điểm của Descartes đã định hình nền tảng cho phương pháp khoa học, trong
đó việc phân chia vấn đề thành các thành phần nhỏ hơn, giải quyết từng phần một
và xây dựng kiến thức từ các yếu tố cơ bản là một chiến lược quan trọng.
Những quan điểm của Descartes đã tạo ra ảnh hưởng lâu dài đối với triết học khoa học
và đã đặt nền tảng cho sự phát triển của phương pháp khoa học hiện đại.
Immanuel Kant (1724-1804), một nhà triết học người Đức, quan điểm của Kant về sự
phát triển của khoa học có ảnh hưởng lớn, đặc biệt là thông qua tác phẩm nổi tiếng của
ông, “Dựa Trên Nền Tảng Tất Cả Các Kiến Thức Có Thể” (Critique of Pure Reason).
Dưới đây là một số điểm quan trọng về quan điểm của Immanuel Kant về sự phát triển của khoa học: •
Kant và Phương Pháp Nghiên Cứu: Kant không phải là một nhà khoa học theo
nghĩa hiện đại, nhưng ông quan tâm đến cách kiến thức được xây dựng. Ông đặt
câu hỏi về khả năng và giới hạn của kiến thức, cũng như về phương pháp mà
chúng ta có thể sử dụng để hiểu biết thế giới. •
Khả Năng và Giới Hạn Của Ý Thức: Kant đưa ra ý tưởng về "cấu trúc trước đó"
của ý thức, nơi các khái niệm và khả năng nhận thức đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình hiểu biết. Theo quan điểm này, ý thức không chỉ đơn giản là
"gương" của thế giới bên ngoài, mà còn đóng góp tích cực vào quá trình hiểu biết. •
Thời Gian và Không Gian: Trong "Dựa Trên Nền Tảng Tất Cả Các Kiến Thức
Có Thể," Kant phát triển lý thuyết về thời gian và không gian như là cấu trúc tiền
định của ý thức. Ông coi chúng không phải là đặc điểm của thế giới bên ngoài
mà là điều kiện tiên quyết để có thể có kiến thức. lOMoAR cPSD| 61622079 17 •
Nguồn Gốc Của Nhận Thức: Kant phân biệt giữa "hiểu biết" (Verstand) và "lý
trí" (Vernunft), với hiểu biết chủ yếu đối mặt với sự lẻ tẻ và cụ thể, trong khi lý
trí đối mặt với vấn đề tổng quát và vô hạn. Ông coi lý trí như là nguồn gốc của
những ý tưởng tổng quát và nguyên tắc chung, đóng góp vào quá trình sáng tạo kiến thức. •
Chủ Quan và Tương Tác Nhưng Không Phải Đồng Đẳng: Kant nhấn mạnh sự
tương tác giữa tâm hồn và thế giới bên ngoài, nhưng ông cũng giữ vững quan
điểm rằng có một sự chủ quan trong kiến thức. Ông cho rằng kiến thức không chỉ
phản ánh thế giới mà còn được xây dựng thông qua các cấu trúc nhận thức của tâm hồn.
Tóm lại, quan điểm của Immanuel Kant về sự phát triển của khoa học tập trung vào cách
ý thức tương tác với thế giới và cách chúng ta hiểu biết về thế giới xung quanh thông
qua các cấu trúc và nguyên tắc của ý thức. Ông đã đặt nền móng cho triết học chủ nghĩa
hiện đại và có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả khoa học và triết học.
Hegel (1770-1831) là một nhà triết học người Đức, được coi là một trong những triết gia
quan trọng nhất trong lịch sử triết học phương Tây. Ông không đặc biệt đề cập một cách
chi tiết về sự phát triển của khoa học như nhiều nhà khoa học hay triết gia khoa học hiện
đại. Tuy nhiên, triết lý của ông có một số đặc điểm quan trọng về sự phát triển và tiến
triển trong lĩnh vực tri thức và tư duy, mà có thể liên quan đến sự phát triển của khoa
học. Hegel theo đuổi chủ nghĩa điển tính, đặt tư tưởng và ý niệm ở trung tâm của hiểu
biết. Ông coi sự phát triển của tư tưởng và ý niệm là một quá trình lịch sử không ngừng,
tiến triển qua các giai đoạn và đạt được sự tự hoàn thiện. •
Hegel sử dụng phương trình nghịch đảo để mô tả quá trình tiến triển và phát triển
của ý niệm. Theo đó, một ý niệm xuất phát, tiến triển, và cuối cùng, bằng cách
nghịch đảo chính nó, trở thành một cấp độ mới. Điều này có thể được xem xét
khi nói về sự phát triển của tri thức trong lĩnh vực khoa học. •
Hegel cho rằng sự phát triển thường đi kèm với sự trái ngược và xung đột. Trong
quá trình giải quyết sự trái ngược, một cấp độ mới xuất hiện. Điều này có thể liên
quan đến cách mà các thuyết khoa học phát triển thông qua việc giải quyết những
vấn đề và sự trái ngược trong kiến thức hiện có. •
Hegel coi xã hội như một phần của quá trình tự nhiên và nhấn mạnh sự tương tác
giữa cá nhân và xã hội. Việc xã hội phát triển cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
của kiến thức, bao gồm cả khoa học. •
Hegel có quan điểm lịch sử về sự tiến triển, với ông coi sự phát triển của nhận
thức và tri thức là một quá trình có thể theo dõi qua lịch sử. Sự tiến bộ của xã hội
và tư duy có thể được hiểu qua việc nghiên cứu các giai đoạn lịch sử.
Tổng hợp lại, có thể thấy được rằng các nhà kinh điển như Plato, Aristotle, Descartes,
Kant và Hegel đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của triết học và khoa học. Họ
đã giúp định hình các quan điểm và giải thích các khái niệm quan trọng trong khoa học
và triết học. Tuy nhiên, các quan điểm của các nhà kinh điển này có thể không phù hợp
với các phát hiện khoa học mới nhất với một số lý do như sau: •
Đầu tiên, các nhà kinh điển sống trong các thời kỳ khác nhau và có giới hạn về
kiến thức so với ngày nay. Các phát hiện và công bố khoa học mới đã mở ra lOMoAR cPSD| 61622079 18
những hiểu biết mới về vũ trụ, tự nhiên, và tâm lý con người mà họ không thể dự đoán được. •
Các nhà kinh điển thường sử dụng phương pháp nghiên cứu và tiếp cận triết học
phù hợp với thời đại của họ. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu khoa học đã
phát triển và thay đổi theo thời gian, điều này có thể dẫn đến sự không phù hợp
của mô hình phương pháp cổ điển với yêu cầu và tiêu chuẩn hiện đại. •
Các lĩnh vực khoa học như vật lý hạt nhân, gen học, và nơron học, đã mang lại
những hiểu biết mới và thách thức cho những quan điểm truyền thống. Các khám
phá này có thể đòi hỏi sự thay đổi và điều chỉnh trong quan điểm triết học để phản
ánh chính xác hơn hiểu biết mới. •
Những phát hiện mới về sự tự nhiên và xã hội có thể đưa ra thách thức cho những
quan điểm đặt ra bởi các nhà kinh điển. Ví dụ, quan điểm về tâm hồn, con người,
và xã hội có thể cần được điều chỉnh khi có thêm thông tin và hiểu biết mới. •
Công nghệ hiện đại đã mở ra các phương tiện nghiên cứu mới, như máy tính, kính
hiển vi điện tử, và công nghệ DNA sequencing, mang lại những công cụ mạnh
mẽ cho các nhà khoa học để thăm dò và hiểu biết về thế giới xung quanh.
Tổng cộng, quan điểm của các nhà kinh điển là quan trọng và có giá trị trong việc hiểu
về lịch sử và phương pháp tiếp cận triết học và khoa học. Tuy nhiên, khi áp dụng chúng
vào hiện đại, cần phải xem xét và điều chỉnh chúng để phản ánh chính xác hơn những
hiểu biết mới và phát hiện của khoa học hiện đại.
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển của các khoa học
a. Vai trò thế giới quan của triết học
Triết học là hạt nhân lý luận, là bộ phận quan trọng nhất của thế giới quan triết học, bởi
vì triết học mô tả những vấn đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật; nó chi phối các quan niệm còn lại của thế giới quan, như quan niệm về đạo
đức, văn hóa, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, tôn giáo. Hơn nữa, triết học không chỉ nêu
lên các quan điểm của mình, mà còn chứng minh cho các quan điểm đó bằng lý tính.
Triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát
triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học mang lại.
Triết học trang bị cho con người những quan niệm về thế giới, về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới ấy, về chính bản thân và cuộc sống của con người và loài người.
Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan triết học
cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là hạt nhân, là nền tảng thế giới
quan của các hệ tư tưởng đối lập nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa
những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau. Do đó, thế giới quan đúng đắn là
tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động;
ngược lại, thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động nói chung, hoạt động khoa học nói riêng.