



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622044 BÀI LÀM
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, VC và YT có MQH BC, trong đó VC quyết định YT,
còn YT tác động tích cực trở lại VC.
Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. VC tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể
hiện sự tồn tại của mình, không thể có VC không vận động và không có vận động ở ngoài VC.
VC vận động trong không gian và thời gian. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của
VC, là thuộc tính chung vốn có của các dạng VC cụ thể.
Ý thức: là sp từ QT phát triển của TN và LS-XH. Bản chất của YT là hình ảnh chủ quan
của TGKQ, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo TGKQ và bộ não người thông
qua hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc,
càng không thể coi YT (bao gồm cảm xúc, ý chí, tri thức,…) là cái có trước, cái sinh ra và
quyết định sự tồn tại, phát triển của thế giới VC.
#Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT:
*Vật chất quyết định ý thức:
+ Thứ nhất, VC quyết định nguồn gốc của YT. VC “sinh” ra YT, vì YT xuất hiện gắn liền với
sự xuất hiện của con người cách đây từ 3-7tr năm, mà con người là kết quả của một QT phát
triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới TN, của TG VC. Con người do giới TN, VC sinh ra,
cho nên lẽ tất nhiên, YT là 1 thuộc tính bộ phận của con người, cũng do giới TN, VC sinh ra.
Các thành tựu của KHTN hiện đại đã chứng minh rằng VC là cái có trước, còn YT là cái có
sau. VC tồn tại khách quan, độc lập với YT và là nguồn gốc sinh ra YT. Bộ óc người là một
dạng VC có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành YT. Sự vận động của TG VC
là yếu tố quyết định sự ra đời của cái VC có tư duy là bộ óc người.
+ Thứ hai, VC quyết định nội dung của YT. YT dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều
là phản ánh hiện thực khách quan. YT là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong đầu óc con người. TGKQ, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính XH-
LS của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà YT phản ảnh. YT chỉ là hình ảnh của TGKQ.
+ Thứ ba, VC quyết định bản chất của YT. Phản ánh và sáng tạo là 2 thuộc tính không tách
rời trong bản chất của YT. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp
ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông
qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động VC có tính cải biến thế giới của con người là cơ sở
để hình thành, phát triển YT, trong đó YT của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo. + Thứ
tư, VC quyết định sự vận động, phát triển của YT. Mọi sự tồn tại, phát triển của YT đều gắn
liền với QT biến đổi của VC; VC thay đổi thì sớm hay muộn YT cũng phải thay đổi theo. lOMoAR cPSD| 61622044
*YT có tính độc lập tương đối và tác động trở lại VC
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của YT thể hiện ở chỗ, YT là sự phản ánh TG VC vào
trong đầu óc con người, do VC sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì YT đã có quy luật vận động,
phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào VC. YT 1 khi ra đời thì có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại TG VC. YT có thể thay đổi nhanh, chậm, song song với hiện thực,
nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của TG VC.
+ Thứ hai, sự tác động của YT đối với VC phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ hoạt đông thực tiễn, YT có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh VC phục vụ cho
CS của con người. Còn tự bản thân YT thì không thể biến đổi được hiện thực.
+ Thứ ba, vai trò của YT thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó
có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi
phản ánh đúng hiện thực, YT có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, hình
thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức
mạnh VC được nhân lên gấp bội. Ngược lại, YT cũng có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh
sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của YT ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày
nay, thời đại thông tin, KT tri thức, thời đại của cuộc CMKH&CN hiện đại, khi mà tri thức KH
đã trở thành LLSX trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức KH, của tư tưởng
CTrị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Tính năng động, sáng tạo của YT mặc dù rất to
lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề VC đã xác định, phải dựa
vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều
đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và
tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa và phương pháp luận: (Tr.74)
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào *Cuộc
sống học tập của bản thân:
Là sinh viên năm nhất, bản thân cần phải xác định rõ các nhân tố vật chất như điều kiện
vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật khách quan. Trong học tập, nếu em được tiếp xúc với cơ sở
vật chất, phương pháp dạy tốt thì sẽ học tập, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn. Cụ thể hơn, trong tiết
học Triết của một giảng viên tâm huyết, truyền đạt bài thú vị, dễ hiểu sẽ khiến bản thân sv yêu
môn Triết và không sợ nó, thúc đẩy sv tìm hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng viên môn
Triết thiếu tâm huyết, truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó hiểu thì sinh viên sẽ sinh ra
tâm lý chán nản, không thích học môn Triết. Đó chính là vật chất quyết định ý thức. Nâng cao
năng suất học tập của bản thân bằng cách tạo ra cơ sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần học
như: xây dựng phương pháp học tập phù hợp bản thân, sắp xếp góc học tập gọn gàng,… Bên
cạnh đó chú ý tôn trọng và hành động theo các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua
một số hành động: tham gia đầy đủ các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn, … Thường
xuyên dành thời gian tự học, đọc thêm sách về phần mình chưa hiểu. Tự ý thức được rằng cần
chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, cụ thể là cần tiếp thu những lOMoAR cPSD| 61622044
cái mới nhưng tiếp thu có chọn lọc, học hỏi và lắng nghe ý kiến của mọi người xung quanh.
Ví dụ, trong làm việc nhóm để thuyết trình môn Triết em đã ngồi lại với bạn bè, bàn bạc để
mỗi người đưa ra ý kiến cá nhân và sau đó tổng hợp lại để hoàn thiện bài thuyết trình đúng
theo ý của tất cả các thành viên. Trước đây khi đăng kí nguyện vọng vào các trường đại học.
Việc quan trọng nhất cần xét đến chính là năng lực của bản thân và điều kiện tài chính của gia
đình để sắp xếp nguyện vọng một cách thông minh và hợp lí nhất. Tránh trường hợp ngành
học không phù hợp với bản về cả năng lực lẫn tài chính. Và em đã có một lựa chọn đúng đắn
là Trường đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh. *Cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Tại đại hội Đảng XII, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Năm năm qua, bên cạnh những
thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới
phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày
càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phứctạp trên Biển Đông,... đã tác động
bất lợi đến nước ta. Đảng và nhà nước đã phát huy tính tích cực, sáng tạo của ý thức: Đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung
thực hiện bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá,
xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo
đảm. Qua các dẫn chứng trên ta thấy Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước. Đó là yếu tố quan trọng giúp chúng ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020. * Vận dụng vào covid
Như chúng ta đã biết, năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất
cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu
rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng
đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Trước tình hình kinh tế đó, Đảng và nhà nước đã đi sâu vào nghiên cứu phân tích tình
hình, phân tích các nhân tố khách quan, lấy ý kiến nhân dân. Đặc biệt là đổi mới tư duy. So
với nhiệm kỳ trước, kinh tế chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô
ổn định, lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp, mặc dù năm cuối nhiệm kỳ bị ảnh hưởng
nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020
vẫn đạt khoảng 5,9%/năm. Ta có thể thấy, tuy ảnh hưởng của dịch Covid, nhưng Đảng và Nhà
nước đã phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức đề ra những biện pháp để hạn chế ảnh
hưởng xấu của Covid về mọi mặt (kinh tế, giáo dục,..) như: đẩy mạnh học online, đẩy mạnh
giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, giải quyết vướng mắc trong thủ tục
hành chính, đẩy nhanh thủ tục phê duyệt, điều chỉnh các chính sách mới. Qua các dẫn chứng
trên ta thấy Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước.
Câu 2: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật *Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh TG trong những mối liên hệ
chằng chịt giữa các SVHT của nó. Tính vô hạn của TG, cũng như tính vô lượng các
SVHT đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng các
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau Mỗi SVHT tồn tại trong nhiều mối liên hệ,
tác động qua lại với nhau; do vậy, khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên lOMoAR cPSD| 61622044
tắc toàn diện. Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái
quát thành NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động
nhận thức và thực tiễn như sau:
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống
nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó.
+ Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó
và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức
mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ, QH và tác động qua lại của đối tượng.
+ Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không
gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong
quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
+ Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy
mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải,
không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các
mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp
ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
*Nguyên lý về sự phát triển
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm
được bản chất, nắm được khuynh hướng phát triển của SVHT thì phải tự giác tuân thủ
NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng
biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
+ Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là QT trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp
tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
+ Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho
nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
+ Thứ tư, trong QT thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các
yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
*Sự vận dụng nội dung của 2 nguyên lý BCDV nêu trên vào hoạt động nhận thức và thực tiễn
cần tuân theo NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ xuất phát đồng thời từ chúng. Nói cách
khác, cơ sở LL của nguyên tắc này là đồng thời nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
* Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử-cụ thể, quan điểm phát triển (dựa vào lOMoAR cPSD| 61622044
ý nghĩa PPL tr.68, tr.70)
Trong công cuộc đổi mới của ĐCSVN không những chú ý đến mối liên hệ nội tại mà
còn chú đến mối liên hệ giữa SV này với SV khác. Hơn 20 năm đổi mới Đảng ta đã sử dụng
đồng bộ các phương tiện cũng như biện pháp khác nhau để mang lại hiệu quả đổi mới cao nhất.
Không những cần vận dụng được nguồn lực đất nước mà còn cần tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước khác. Vừa tận dụng được yếu tố chủ quan vừa tận dụng được yếu tố khách quan từ bên ngoài.
Quan điểm toàn diện còn được vận dụng trong học tập. Một cá nhân để đạt được kết
quả tốt trong học tập cần đến nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động. SV không những
cần đến nỗ lực và trí tuệ của bản thân mà còn cần học thêm các kiến thức từ sách vở và cuộc
sống. Kiến thức cần bồi đắp từ cả lý thuyết và thực tiễn thì mới có thể trở nên hoàn thiện. Một
cá nhân không thể toàn diện nếu chỉ học tập tốt mà còn cần đến lao động tốt và sống tốt, phẩm
chất tốt, đạo đức tốt. Khi nhận xét về một người nào đó thì không thể có cái nhìn phiến diện ở
vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con người, các MQH của người này
với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Chỉ khi hiểu hết về
người đó mới có thể đưa ra các nhận xét. Trong quan hệ giữa người với người, cần phải biết
ứng xử sao cho phù hợp với từng người. Phải luôn cư xử lễ phép, tôn trọng đối với người bề
trên. Còn đối với bạn bè thì luôn tôn trọng, chân thành, thoải mái, TN. Khi nhìn nhận 1 người
không nên chỉ xét ở quá khứ họ tốt hay xấu mà cần xem xét QT thay đổi họ theo hướng tiến
bộ hay thụt lùi. Khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần
xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý
tốt. Khi ta học kém đi, điểm số giảm, cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân
cụ thể, chủ yếu thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn. Trong học tập bao giờ cũng xác định
mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả cao. Học hỏi, tìm tòi, khiêm tốn, trau
dồi kiến thức, kinh nghiệm, học đi đôi với hành, vận dụng vào thực tiễn. Ngoài ra cần phải rèn
luyện cả về phẩm chất, đạo đức, “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Trong công cuộc đổi mới đất nước cần quán triệt quan điểm toàn diện trong nhận thức
và thực tiễn: đổi mới mọi mặt lĩnh vực KT-CT-XH-ĐSTT; quan điểm LSCT: Đảng xác định
lấy đổi mới KT là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, nhà nước ta luôn thực hiên mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh, đã đề ra đường lối xây dựng và phát
triển nền KTTT định hướng XHCN, ưu tiên phát triển LLSX, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng
QHSX phù hợp, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
KT quốc tế để phát triển nhanh, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển KT-XH với
tăng cường ANQP, xây dựng hệ thống CTrị vững mạnh, con đường đi lên CNXH không theo
công thức có sẵn mà được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo.
Câu 3: Quy luật lượng chất *Cơ sở thực hiện bước nhảy (tr.83)
- Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với nhiều hình thức
khác nhau. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành nhiều hình lOMoAR cPSD| 61622044
thức (bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần, bước nhảy chậm và bước nhảy nhanh, bước
nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ…)
Bước nhảy đột biến, chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các bộ phận
cơ bản, cấu thành sự vật. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng
con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân
tố của chất cũ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các
bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một
số mặt, một số yếu tố, bộ phận của sự vật đó. Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về lượng
được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về chất được gọi là “cách mạng”.
*Cơ sở lý luận tư duy trừu tượng (tr.123) -
Cơ sở TN của tư duy đó là bộ óc con người và QT phản ánh hiện thực khách quan bởi
bộ óc con người. Còn cơ sở XH của tư duy đó là LĐ và ngôn ngữ. Trong đó, cơ sở XH đóng
vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển của tư duy. -
Ở thời kỳ đầu, khi ĐS của con người còn phụ thuộc vào giới TN bên ngoài, hiểu biết
của con người về TG xung quanh còn hạn chế thì con người chỉ có thể hình thành được một ít
kinh nghiệm về một số lĩnh vực nào đó có liên quan trực tiếp đến CS hàng ngày của họ mà
thôi. Do đó YT của con người lúc này “cũng mang tính động vật như chính ĐS XH ở giai đoạn
ấy; đó là một YT quần cư đơn thuần”. Nhưng khi LLSX phát triển (CCLĐ đã có những cải tiến
nhất định), năng suất LĐ XH ngày một cao, sp XH đã có dư thừa, PCLĐ xuất hiện, XH hình
thành lớp người chuyên LĐ trí óc, đó cũng là lúc tư duy loài người từng bước phát triển, con
người có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật hiện tượng riêng lẻ để xây dựng
nên hệ thống khái niệm, phạm trù, rút ra những quy luật. So với giai đoạn thấp của thời đại
mông muội, nhận thức của con người đã đạt đến một trình độ cao hơn về chất, tư duy LL, tư duy KH ra đời. -
Tư duy lý luận là QT con người phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp,
mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó,
chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang
tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức của con
người. Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản:
+ Thứ nhất, sự xuất hiện của tư duy LL gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Cùng
với sự phát triển của SX, trao đổi và các MQH XH khác, các hành động và thao tác trí óc của
con người ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn, nhờ đó tư duy LL từng bước xuất
hiện và phát triển năng lực của mình.
+ Thứ hai, tư duy LL phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, là sự sản sinh ra
những tri thức mới trên cơ sở những tri thức kinh nghiệm đã tích lũy được trong QT nhận thức.
Những tri thức LL được duy trì và hoạt động thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật lôgic. lOMoAR cPSD| 61622044
+ Thứ ba, tư duy LL sử dụng các phương pháp nhận thức: lịch sử và lôgic; phân tích và tổng
hợp; quy nạp và diễn dịch; trừu tượng hóa và cụ thể hóa v.v…làm cho các phương pháp này
trở thành nội dung lôgic bên trong của sự vận động tri thức để nhận thức hiện thực khách quan.
+ Thứ bốn, đối tượng mới của tư duy LL là những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra. Tư duy LL
phải có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi, đặc biệt là những vấn đề bức xúc mà CS đặt ra cho
con người và XH loài người. -
So với tư duy kinh nghiệm, tư duy LL đóng một vai trò hết sức to lớn trong nhận thức
và cải tạo thế giới. Nhờ có tư duy LL KH mà con người mới phát hiện ra được các quy luật
vận động và phát triển của hiện thực khách quan, hướng sự vận động đó vào phục vụ lợi ích
của con người. Tư duy LL có thể là KH nhưng cũng có thể không KH. Chỉ những tri thức LL
nào phản ánh đúng bản chất, vạch ra được mối liên hệ giữa các SVHT; chỉ ra được quy luật,
xu hướng vận động, phát triển v.v…của hiện thực khách quan (của TN,XH) thì đó mới là tư duy LL KH. -
Trong thời đại ngày nay, tư duy LL KH là tư duy LL mácxít. Về thực chất, tư duy LL
mácxít là tư duy BCDV KH (cả trong TN lẫn XH)-1 hình thái tư duy được hình thành trên cơ
sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức KH mà loài người đã đạt được từ xưa
đến nay và luôn luôn được vận dụng một cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để
không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Vận dụng quy luật lượng chất (dựa vào ý nghĩa PPL tr.83) -
Là SV, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học PT kéo dài trong suốt 12
năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi HS đều được trang bị những kiến thức cơ
bản của các môn học thuộc 2 lĩnh vực cơ bản là KHTN và KHXH. Bên cạnh đó, mỗi HS lại
tự trang bị những kĩ năng, hiểu biết riêng về CS, TN, XH. QT tích lũy về lượng (tri thức) của
mỗi HS là một QT dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía GĐ, nhà trường mà còn chính từ sự
nỗ lực và khả năng của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi HS dần
tích lũy cho mình 1 lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc
giải BT ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là các kì thi học
kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp HS vượt qua
các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong QT học tập,
rèn luyện của HS thì QT học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút,
việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của HS bước sang
giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước
nhảy vọt về chất và lượng mà HS nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì
thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn
là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ HS đã có sự tích lũy đầy đủ
về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ HS chuyển thành SV. -
Để có được tấm bằng ĐH thì SV cũng phải tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy
nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc ĐH có sự khác biệt về chất so với học PT. Sự khác biệt lOMoAR cPSD| 61622044
nằm ở chỗ SV không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà phải tự tìm tòi nghiên cứu,
dựa trên những kĩ năng mà GV đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc ĐH, việc học tập của SV
khác hẳn về chất so với HS ở PT. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng
và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay
đổi về chất do sự tich lũy về lượng trước đó (ở bậc học PT) tạo nên, chất mới cũng tác động
trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của SV cũng thay đổi,
tiếp tục hướng SV lên tầm tri thức cao hơn. QT tích lũy các học phần của SV chính là độ, các
kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy
quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển
sang một giai đoạn mới, khác về chât so với giai đoạn trước. QT đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo
nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động
lực không nhỏ cho sự phát triển của XH. -
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực
hiện những cải cách quan trọng trong GD. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành tích trong
GD vẫn tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương hướng GD ở bậc PT và
đào tạo ĐH. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được
học vượt tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người. -
“tích tiểu thành đại”, “góp gió thành bão”, “năng nhặt, chặt bị”, không nôn nóng, đốt
cháy giai đoạn. Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể thay đổi về chất, tránh tư tưởng
nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng đã muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã muốn đi làm
công việc mình đang học) hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng nhưng lại không
muốn thay đổi về chất (học xong rồi nhưng lại không muốn đi làm)
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập -
CNDVBC có 3 quy tắc cơ bản là quy tắc sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chấtvà ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định
của phủ định. QLTNVĐTCCMĐL là hạt nhân của phép biện chứng, là nguồn gốc, động lực
cơ bản, phổ biến của quá trình vận động và phát triển. -
Mâu thuẫn dùng để chỉ sự liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của CMĐL của
mỗi SVHT hoặc giữa các SVHT với nhau. -
MĐL dùng để chỉ những mặt, những khuynh hướng, những thuộc tính vận động trái
ngược nhau nhưng đồng thời lại là tiền đề để tồn tại của nhau. VD: điện tích âm và điện tích
dương trong 1 nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của 1 cơ thể sống… - Các tính chất chung của MĐL:
+ Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất. VC tồn
tại khách quan nên mâu thuẫn cũng tồn tại khách quan. Nó là cái vốn có trong SV,
không lệ thuộc vào ý thức con người và các lực lượng siêu nhiên.
+ Tính phổ biến: trong bất kể SVHT nào, ở bất cứ địa điểm, thời gian nào cũng tồn tại những MĐL.
+ Tính đa dạng, phong phú: thế giới vật chất có vô vàn các dạng, không gian, thời gian,
mối liên hệ khác nhau nên chúng có những mâu thuẫn khác nhau, không có dạng mâu lOMoAR cPSD| 61622044
thuẫn nào trùng lặp với dạng mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong TN, trong XH, trong
tư duy, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản..VD: thống trị >< bị
trị, sản xuất >< tiêu thụ, hít vào >< thở ra, tiếp nhận dinh dưỡng >< thải ra, thành công
>< thất bại, lực hấp dẫn >< lực li tâm, VC >< phản VC. -
Mâu thuẫn là 1 chỉnh thể, trong đó 2 MĐL vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Thống nhất dùng để chỉ sự liên hệ ràng buộc không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các
MĐL, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và ngược lại. Sự thống nhất của các MĐL bao
hàm cả sự thống nhất của các mặt đó. VD: GCVSản và sự giàu có là 2 MĐL, chúng hợp thành
1 chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy trì
vĩnh viễn ngay cả khi sự tồn tại của MĐL của nó là GCVSản. Do có sự “đồng nhất” của các
MĐL mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến 1 lúc nào đó, các MĐL có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Các MĐL không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đó là sự tác động
qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của
các MĐL hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối liên hệ qua lại giữa các
MĐL và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. -
Sự phát triển của SVHT gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu
thuẫn. Do đó sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) chỉ là tương đối, còn
đấu tranh là tuyệt đối. VD: Trong XHCXNThủy, con người phải đấu tranh với TN, trình độ
LĐ rất sơ khai. Để tồn tại, loài người phát minh ra nhiều công cụ: rìu đá, lao, chăn nuôi…tức
là giải quyết mâu thuẫn giữa sống và chết đói. Nhờ công cụ cải tiến, của cải làm ra nhiều hơn
mức tiêu thụ, dẫn đến của cải dư thừa tập trung vào 1 số người, hình thành mâu thuẫn mới
giữa người có của cải và không có của cải. Loài người bước sang XH phân biệt GC (chiếm
hữu nô lệ, PK, TBản). Khi GC bị áp bức tiêu diệt GC áp bức (những người không có của cải
tiêu diệt người có của cải) loài người bước sang XH mới: XHCN -
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của SV và là khách
quan trong bản thân SV nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của SV bằng cách phân tích SV
để tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau
giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể 1 mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết
cụ thể, phù hợp với trình độ phát triển của từng mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn.
Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi. Vận dụng:
Rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật, xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và
phương pháp học tập, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên tự kiểm tra dưới
nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống để nâng cao năng lực tư duy. Không
biết thì phải học. Nhiệm vụ ngày càng lớn nhưng đầu tư chưa theo kịp. Số lượng ngày càng
tăng gây nguy cơ cao giảm chất lượng. Điều kiện dạy và học: thấp kém; trong khi nhiệm vụ cứ lOMoAR cPSD| 61622044
nặng lên. (3 nhiệm vụ trước đó: bản thân ngành GD không thể tự giải quyết, đó là trách nhiệm
của nhà nước và toàn XH, nên chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả nhất ngân khoản khiêm tốn được
cấp và số tiền đóng góp chắt chiu của XH, dè sẻn minh bạch, không tham ô, thay đổi mục tiêu,
chương trình, cách học, cách dạy để phù hợp nhưng vẫn đạt hiệu quả nhất đối với nguồn lực
eo hẹp hiện có). Sự mất cân đối nặng nề giữa nguồn lực (ít ỏi) với nhiệm vụ (nặng nể) khiến
người ta không biết nên coi đâu là những điểm nút để tập trung tháo gỡ. Ấn tượng chung là
càng gỡ, càng rối. Dạy cụ thể có xu hướng tăng lên, khiến dễ lơ là dạy phương pháp. Sự nhồi
nhét khiến người học mất năng lực tự học, trở thành thụ động. Khoa học tiến nhanh nhưng
năng lực thầy có hạn, không kịp cập nhật. Nội dung cần học: ngày càng nhiều, nhưng khoá học
không thể kéo dài. Chương trình muốn toàn diện, nhưng trò đã quá tải. Sức ỳ giáo dục lớn,
trong khu xã hội cứ phát triển nhanh. Học ở trường thì “một đường”; nhưng thực tế khi ra
trường lại... “một nẻo”. Riêng với Việt nam, liệu có nên kể thêm một mâu thuẫn: Nhiều thứ
buộc phải học nhưng không có ích khi ra đời, và càng vô dụng khi hoà nhập. (ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng và hiệu quả GD, phải giải quyết thỏa đáng, không để chúng trở nên gay
gắt, gây lo lắng và bức xúc chung, cải cách, đồng bộ “toàn diện, triệt để”, dự trù ngân sách
“tạm đủ”, “liệu cơm gắp mắm”, tránh sự lãng phí không cần thiết, chống bệnh thành tích, dạy
nhồi nhét cho HS, quá tải, thay đổi cách giảng dạy, nhóm, tranh ảnh trực quan, thuyết trình,
đọc trước bài ở nhà, kiểm tra bài học bằng thí nghiệm, đặt câu hỏi tại sao cho những hiện tượng
thường gặp, học đủ, hệ thống nhưng không thừa, không nhồi nhét.
Câu 5: Quy luật phủ định của phủ định -
Qua 2 lần phủ định biện chứng, sự vật mới dường như quay trở về điểm ban đầu
nhưng cao hơn về chất. Nếu chỉ một lần phủ định thì chưa hoàn thành một chu kỳ phát triển của sự vật. -
Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa cái cũ. Cái mới này
trong QT phát triển tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi một
cái mới cao hơn. Cứ như thế mà thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà SVHT sẽ
phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc. Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ
ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa,
tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại,
nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển
từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc". -
YNPPL: Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một
cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của SVHT. QT đó không diễn ra theo
đường thằng, mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều QT khác
nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của QT phát triển chỉ là sự biểu hiện của
khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc
điểm, bản chất, các mối liên hệ của SVHT để tác động đến sự phát triển, phù hợp với
yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của TGQ KH và nhân sinh quan CM trong mọi
hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu
là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của TGQ KH và nhân sinh quan
CM. Theo quy luật phủ định của phủ định, trong TGKQ, cái mới tất yếu ra đời để thay lOMoAR cPSD| 61622044
thế cái cũ. Trong TN, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật khách quan. Trong
ĐSXH, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, YT tự giác và sáng tạo của con
người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có
niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng
lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của
cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định. Quan điểm BC về sự phát triển
đòi hỏi trong QT phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa
những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm
thúc đẩy theo hướng tiến bộ.
Vận dụng: Cái mới ra đời là tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa trên nền
tảng cái cũ, tránh phủ định sạch trơn cái cũ hoặc không đón nhận sự ra đời của cái mới.
Nghề GV có mâu thuẫn (được tôn trọng và không), vậy nên SV phải học tập, đổi mới,
tự phát triển mình, trau dồi chuyên môn thực tế…nhận thức đúng đắn và có hướng giải
quyết hiệu quả SVHT bằng những cái mới nhưng có chọn lọc, cái sau phải tiến bộ và
có hiệu quả hơn cái trước, nâng cao tính tích cực, lạc quan, ủng hộ và đấu tranh cho cái
mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển, kế thừa phải
có phê phán, lọc bỏ những cái tiêu cực trái quy luật. Đội ngũ GV, SV tiếp cận các
phương pháp dạy học mới, CNTT, nghiên cứu KH, thí nghiệm bài học, giảng dạy bằng
tranh vẽ của HS, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, thể lực, trau chuốt văn thể mỹ, trau đồi
kinh nghiệm, cải tiến các cơ sở GD, trường học theo phương thức hiện đại, tiện nghi,
tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của HS
Câu 7: Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX (tr.160) -
Để tạo ra 1 sp bất kì cung cấp cho thị trường thì cần có hình thức XH của quá trình SX
và những yếu tố về VC, TT. LLSX và QHSX là 2 mặt cơ bản, tất yếu của QTSX, còn QHSX
là hình thức XH của quá trình đó. -
LLSX là tổng hợp tất cả các yếu tố VC và TT để tạo thành sức mạnh cải biến TG TN
phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, được cấu thành từ 2 yếu tố: người LĐ
và TLSX (CCLĐ, các yếu tố phụ trợ trong QTSX…) trong đó nhân tốc người LĐ giữ vai trò quyết định. -
QHSX là QH giữa người với người trong QTSX, bao gồm: các QHSH đối với TLSX,
các QH trong tổ chức QL và SX, các QH trong phân phối sp SX. -
MQH giữa LLSX và QHSX là MQH thống nhất biện chứng trong đó LLSX quyết định
QHSX và QHSX tác động ngược lại LLSX. Sự biến đổi của SX luôn theo chiều tiến bộ, bắt
đầu từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là CCLĐ. Cùng với sự phát triển đó,
QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của LLSX. Đương nhiên, khi
trình độ LLSX phát triển thì tính chất của nó cũng phát triển. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến
diễn ra trong mọi QTSX hiện thực của XH. LLSX phát triển thì QHSX biến đổi theo phù hợp
với tính chất và trình độ LLSX, làm cho LLSX tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ
LLSX đến phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với QHSX hiện có, đòi hỏi xóa bỏ QHSX
cũ để hình thành QHSX mới phù hợp với LLSX đang phát triển, làm phương thức SX cũ mất lOMoAR cPSD| 61622044
đi, phương thức SX mới xuất hiện… VD: Khi SX dựa trên công cụ thủ công, phân công LĐ
kém phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi SX đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại,
phân công LĐ XH phát triển thì LLSX có tính chất XH hóa. Quy luật này là quy luật phổ biến
tác động trong mọi XH, làm cho XH loài người phát triển từ thấp đến cao. Sự thay thế, phát
triển của lịch sử nhân loại từ chế độ CXNT, qua chế độ CHNL, chế độ PK, chế độ TBCN và
đến XHCS tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật XH, trong đó quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất. -
QHSX phù hợp với tính chất và trình độ LLSX sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển
của LLSX, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Ngược lại,
khi QHSX đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tính chất và trình độ LLSX thì nó sẽ trở
thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của LLSX. -
QHSX sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của LLSX vì nó quy
định mục đích của SX, ảnh hưởng thái độ LĐ của quảng đại quần chúng, kích thích hoặc hạn
chế việc cải tiến công cụ, áp dụng thành tựu KH-KT vào SX, hợp tác và phân công LĐ… -
Trong thời kì quá độ đi lên CNXH, đặc biệt ở các nước tiểu nông, do trình độ phát triển
LLSX còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu,
nhiều thành phần KT: hơn nữa, 1 số thành phần KT của phương thức SX cũ còn có tác dụng
tích cực nhất định đối với sự phát triển của LLSX. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải thích rất rõ tại sao phải phát triển nền KT nhiều thành phần trong
thời kì quá độ lên CNXH. Nền KT nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sp của quá trình
Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, thể hiện tư duy mới
của chúng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH.
Đề xuất giải pháp phát triển LLSX - Vận dụng quy luật ở VN -
Ứng dụng thành tựu của KHCN hiện đại: cải biến CCLĐ (CCLĐ giản đơn được thay
thế bằng dây chuyền máy móc, sức LĐ của con người được giải phóng, LĐ chân tay dần được
thay thế bằng LĐ trí óc, LĐ giản đơn dần được thay thế bằng LĐ có chuyên môn hóa ngày
càng cao), khai thác hiệu quả các thế mạnh như dệt may, da giày, khoáng sản… -
Nâng cao kết cấu hạ tầng, khắc phục tình trạng thiếu tính đồng bộ và mất cân đối giữa
các vùng miền: giúp cho việc lưu thông hàng hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất mà còn là
động lực thúc đẩy quá trình sản xuất và hội nhập quốc tế, đảm bảo nhu cầu thông tin liên lạc… -
Cải thiện đội ngũ người LĐ: đầu tư GD, nâng cao tay nghề, công tác y tế, giải quyết
việc làm cho người dân..
Câu 8: Biện chứng của CSHT và KTTT -
CSHT: là toàn bộ các QHSX tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu KT của
XH đó. Bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của XH trước và QHSX mầm mống,
trong đó QHSX thống trị đóng vai trò quyết định, chi phối các QHSX còn lại. - KTTT:
là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái YT XH (YT CTrị, pháp quyền, tôn giáo) cùng lOMoAR cPSD| 61622044
với các thiết chế CTrị XH (nhà nước, đảng phái, giáo hội) tương ứng được hình thành
trên cơ sở KTTTầng nhất định. -
CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của ĐSXH — đó là phương diện KT
và phương diện CT-XH. Chúng tồn tại trong MQH thống nhất BC với nhau, tác động
lẫn nhau, trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTTầng, đồng thời
KTTTầng thường xuyên có sự tác động trở lại CSHT.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định
như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v. và các quan hệ; các thể chế tương
ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy.
- Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó xảy ra
trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, cũng như từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác.Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra
thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết
ở chức năng chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố
và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
- Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác
động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
- Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi
nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với
cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả; ngược lại, quá trình đó không theo cùng chiều với quy
luật vận động của cơ sở hạ tầng thì nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
- Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể hiện
với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhấn
mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu
kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy y chí.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
- Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền
với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối
lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta đã khẳng định:
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt lOMoAR cPSD| 61622044
động tinh thần của xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa mang tính
chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
bảo đảm cho nhân dân thực sự là người chủ của xã hội. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ
thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người,
thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
- Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết
mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố
các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
- Sự định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì hoạt động
định hướng của kiến trúc thượng tầng chính trị không chỉ bó hẹp trong kinh tế quốc doanh
mà phải hoạt động bao quát cả trong những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm
từng bước xã hội hoá nền sản xuất với những hình thức và bước đi thích hợp theo hướng:
kinh tế quốc doanh được
- Củng cố và phát triển ở những vị trí chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần
lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ
phần phát triển mạnh,kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng, các tập
đoàn kinh doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế được hình thành. Vai trò của nhà
nước đối với CSHT, ổn định nền KT vĩ mô
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có được nền tảng là
một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền
kinh tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do
các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong
muốn vì nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước phải duy trì sự ổn định đó.
Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, sử
dụng ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các công trình; xây dựng các dự án cơ sở
hạ tầng dựa trên căn cứ và tiêu chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng
chi phí của ngân sách nhà nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi tiêu
công và tiền vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn định nền kinh tế.
Một thực tế hiện nay là các cơ quan hoạch định chính sách của nhà nước ta phân quyền
quá tản mạn nên khó thực hiện được giải pháp đồng bộ trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để bảo đảm việc điều tiết nền kinh tế được hiệu quả, đòi hỏi
nhà nước phải thực hiện những cải cách cơ bản để đơn giản hoá bộ máy hành chính và
phải tiến hành quản lý, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công. Với tư cách chủ đầu tư, nhà
nước hướng các chương trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia.
Phát triển KTTT theo hướng XHCN:
- Nhà nước kiến tạo phát triển tại VN: Xây dựng “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính,
hành động quyết liệt phục vụ người dân và doanh nghiệp” là một định hướng của Chính
phủ nhận được sự đồng tình, ủng hộ của XH. Việc xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển
hay Nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp việc xây dựng KTTT định hướng XHCN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. lOMoAR cPSD| 61622044
- Vai trò phù hợp cho doanh nghiệp nhà nước: Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
vẫn đang là trụ cột hàng đầu của nền KT, đóng góp tới 28,8% GDP. Vấn đề sắp xếp, đổi
mới DNNN, hay gần đây được sử dụng với thuật ngữ là tái cơ cấu DNNN đang được đặt
ra. Tái cơ cấu là để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, đặt DNNN ở một vị trí phù
hợp trong nền KT, từ đó góp phần tạo ra động lực phát triển cho chính DNNN và cho các
loại hình doanh nghiệp khác, với mục đích cuối cùng là thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển
đất nước, đồng thời bảo đảm công bằng XH.
- Tạo bệ phóng cho KT tư nhân: KT tư nhân được dùng để chỉ các thành phần KT dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân về TLSX, bao gồm KT cá thể, tiểu chủ và KT TB tư nhân. KT VN
muốn phát triển vững mạnh không thể thiếu khu vực KT tư nhân trong nước tăng trưởng
hiệu quả và lớn mạnh. Thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp (DN) trong nước mà chủ
yếu là DN tư nhân cả về số lượng và chất lượng cũng chính là thúc đẩy sự phát triển KT đất nước.
Chống chệch hướng sang CNTB thân hữu-Yêu cầu sống còn: "CNTB thân hữu" là thuật ngữ
được dùng để mô tả nền KT mà trong đó thành quả kinh doanh phụ thuộc vào các MQH thân
thiết giữa các doanh nhân và các quan chức chính quyền, cần phải ngăn chặn sự xâm lấn của CNTB thân hữu
Câu 9: Sự phát triển các hình thái KT-XH là một quá trình LS-TN (tr.166) -
XH phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát triển
là một hình thái KT-XH. Đứng trên lập trường DV LS, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định:
“Sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình LS-TN”. Luận điểm đó được phân
tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:
+ Một là, SX VC là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và phát triển của các hình
thái KT-XH. Sự vận động và phát triển của XH không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu
trúc hình thái KT-XH. Nói cách khác, con người không được tự do lựa chọn hình thái
KT-XH của mình. Mối quốc gia đều phải dựa trên cơ sở nền tảng SX VC trong nước
và TG mà xây dựng chọn hình thái KT-XH cho phù hợp.
+ Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của XH, của LS nhân loại, của mọi
lĩnh vực KT, CT, VH… của XH, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián
tiếp từ sự phát triển của LLSX của XH đó.
+ Ba là, sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH, tức là quá trình thay thế lẫn
nhau của các hình thái KT-XH trong LS nhân loại và đó là sự phát triển của LS XH loài
người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò
quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. -
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà LS nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ
của nó, là QT thay thế tuần tự của các hình thái KT-XH: Nguyên thủy, nô lệ, PK, TBCN và
tương lai nhất định thuộc về hình thái KT-XH CS CN. Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối
với tiến trình phát triển của lịch sử? Trong khi khẳng định tính chất LS-TN, tức tính quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển XH, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đồng thời khẳng định lOMoAR cPSD| 61622044
vai trò của các nhân tố khác đối với QT phát triển của LS nhân loại nói chung và LS mỗi cộng
đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương
quan lực lượng chính trị của các GC, tầng lớp XH, truyền thống VH của mỗi cộng đồng người,
điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong LS… -
Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng
người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong
phú đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng trong tiến
trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ
qua” một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như
vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Như vậy, lịch sử nhân loại
nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy
luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố
hoạt động chủ quan của con người, nó đóng vai trò là các nhân tố thuộc cơ chế vận động, phát
triển của lịch sử nhân loại. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống
nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
* YNPPL: Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong KHXH. Với sự ra đời của
CNDVLS, trong đó hạt nhân là LL hình thái KT-XH đã cung cấp một PPL thực sự KH trong
nghiên cứu về lĩnh vực XH.
Thứ nhất, theo LL hình thái KT-XH, SX VC chính là cơ sở của ĐSXH, phương thức SX
quyết định trình độ phát triển của nền SX và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát
triển của ĐSXH và LS nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ YT, tư tưởng hoặc từ ý chí
chủ quan của con người để giải thích các HT trong ĐSXH, mà phải xuất phát từ bản thân thực
trạng phát triển của nền SX XH, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức SX XH với
cốt lõi là trình độ phát triển của LLSX hiện thực.
Thứ hai, theo LL hình thái KT-XH, XH không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy
móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương tiện của ĐSXH tồn tại trong
một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó QHSX đóng vai
trò là QH cơ bản nhất, quyết định các QH XH khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ XH khác nhau.
Thứ ba, theo LL hình thái KT-XH, sự vận động, phát triển của XH là một QT LS-TN, tức
là QT diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy
muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của ĐSXH thì phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của XH. Những giá trị KH trên đây của LL hình
thái KT-XH là những giá trị về mặt PPL chung nhất của việc nghiên cứu về XH và LS nhân
loại, LS các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong
các QT nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của XH. lOMoAR cPSD| 61622044
Câu 10: Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
- Tính tất yếu: tr.208
- Mục tiêu: tr.209 - Nội dung: - Vai trò:
Trước xu thế hoà bình-hợp tác, toàn cầu hóa, khu vực hóa và quá trình hội nhập quốc tế
sâu rộng, nhiều người dường như lãng quên vấn đề GC và đấu tranh GC. Ai nói đến đấu tranh
GC liền bị quy là "bảo thủ", "giáo điều". Ai nhắc nhở phải cảnh giác với âm mưu "diễn biến
hòa bình" thì cho là "thiếu thức thời", "tư duy cũ". Hóa ra là, vấn đề GC vẫn còn nguyên đó.
Nó tồn tại tới khi nào không còn GC đối kháng về lợi ích KT và lập trường CTrị. Vấn đề GC
thể hiện ra ở tất cả các khía cạnh: KT, CT, XH; thể hiện trong các cuộc đấu tranh tư tưởng,
trong chính sách và hành động trước các sự kiện diễn ra trên TG.
Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh GC vẫn tiếp tục diễn ra theo đúng quy luật phát triển
của XH loài người; vẫn là cuộc đấu tranh "ai thắng ai" trên bình diện quốc tế, cũng như trong
điều kiện cụ thể của từng nước. Bất kì ở đâu, bất kể thời điểm nào, khi cố tình coi nhẹ hoặc
không đếm xỉa đến tính phức tạp của cuộc đấu tranh GC trên mặt trận tư tưởng; trên các lĩnh
vực KT, CT, XH, tư tưởng và VH, thì chính lúc đó, CM sẽ phải trả giá đắt.
- Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh GC vẫn diễn ra ở tất cả các chế độ XH,
biểu hiện ra nhiều mức độ khác nhau. Với chế độ TBCN, đấu tranh GC vẫn tiềm ẩn với sự
bất công, phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc; thất nghiệp ngày càng đông; tính mạng, an
ninh và trật tự XH luôn bị đe dọa; sự phá hủy và suy đồi đạo đức XH ngày càng gia tăng vì
cơn lốc của lợi nhuận. Nếu đi sâu thêm, ta thấy rằng, nguồn gốc của sự xung đột GC trong
XH TBản là do lôgic phát triển trong điều kiện bất bình đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và
quyền lực của thiểu số; đồng thời, đó là sự vận hành trên cơ sở QH bóc lột và bị bóc lột giữa
GCTS và người LĐ. Mặc dù GCTS đã có sự mềm dẻo nhất định trong việc làm dịu mâu
thuẫn giữa TB và LĐ, nhưng đấy vẫn chỉ là ở từng nơi, từng lúc, còn về cơ bản, mâu thuẫn
giữa TB và LĐ vẫn ngày càng gay gắt; thuế khóa, thất nghiệp, các tệ nạn XH luôn đeo đẳng
người nghèo. Điều đó, sẽ đẩy những mâu thuẫn XH lên đỉnh điểm, dẫn đến bùng nổ XH.
Cùng với QT toàn cầu hóa ngày càng tăng, những biện pháp điều chỉnh các QH KT và sở
hữu theo hướng công cộng hóa cũng ngày càng tăng; bảo đảm cho các cổ đông, các tổ chức
công đoàn và người LĐ ngày càng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý KT-XH. Những
biến đổi trên, vô hình dung đã trở thành những tiền đề của chế độ XH mới trong lòng CNTB.
- "Diễn biến hòa bình", “CM nhung”, “CM màu”... là những chiến lược tổng thể của chủ
nghĩa đế quốc, nhằm thực hiện mục tiêu nói trên. TG gọi đó là "cuộc chiến tranh không có
khói súng". Đây thực chất là kế sách phá vỡ thành lũy của CNXH từ bên trong, là chiến thuật
"mối xông nhà", nhằm phá ruỗng cơ cấu KT-CT-XH của các nước XHCN. Các chính trị gia
đề xuất chiến lược "Diễn biến hòa bình" đã tổng kết: muốn xoá bỏ chế độ XHCN, không thể
dùng vũ lực tấn công từ bên ngoài. Thực tiễn diễn ra đúng như vậy. Để thực hiện điều đó, họ
đã tìm mọi thủ đoạn phá hoại các đảng đó về mặt tư tưởng và tổ chức. Nhằm phá hoại ĐCS
cầm quyền về tư tưởng, họ lấy tư tưởng XH-dân chủ thay cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Để thực lOMoAR cPSD| 61622044
hiện "diễn biến hòa bình" ở các nước không theo con đường TBCN, các thế lực chống cộng
còn dùng thủ đoạn từng bước mua chuộc, lôi kéo các phần tử dao động, bất mãn, gây dựng
các tổ chức chống cộng ngay trong nội bộ ĐCS và các tổ chức XH ở các nước đó.
- Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước XHCN
cũng như đối với GC những người LĐ trên toàn TG cho thấy, cuộc đấu tranh GC hiện nay so
với trước đây không kém phần gay go, quyết liệt, phức tạp. Đối với các nước XHCN, nó thể
hiện cả trong việc bảo vệ lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin và trong việc giữ vững
định hướng XHCN. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập với TG, sử dụng công cụ KT của
CNTB để xây dựng CNXH, ĐCS cầm quyền càng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí CM,
kiên định lập trường GC, nhận dạng thật rõ các hành động và âm mưu thù địch để có biện
pháp đấu tranh có hiệu quả.
Câu 12: Quan điểm của CNDVLS về bản chất con người 1/
Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội
- Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống củathể
xác Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp
tục phát triển của tự nhiên. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh
học như: quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa …
- Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội
Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua đó tạo
thành các mối quan hệ xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với tính cách
là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Sự tồn tại xã hội của
con người gắn liền với sự tồn tại của ý thức.
- Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệthống
nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy
luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần)
Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn
tại và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó;
trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định.
Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã hội,
đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm tra
các nhu cầu và hoạt động của mình.
Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là
chủ thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người. lOMoAR cPSD| 61622044
b. Con người là chủ thể của lịch sử -
Triết học Mac-Lênin cho rằng, con người là sản phẩm của lịch sử (sản phẩm của điều
kiệntự nhiên và điều kiện xã hội) đồng thời chính là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử ấy-
lịch sử của con người. Đó là quá trình hoạt động có ý thức của con người nhằm mục đích cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người. -
Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khảo sát bản chất con người
bắtđầu từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể. -
“Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, luận điểm này cho thấy, con
ngườilà một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người.
Tính người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người, trong đó có ba thuộc tính
cơ bản nhất đó là : thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy. -
“Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, quan hệ xã hội ở đây được
hiểu làtổng thể các quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó còn bao
hàm cả những quan hệ trong tương lai. -
Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nhưng con người bao giờ cũng là
conngười riêng biệt, con người cụ thể, ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất
định, với từng tập đoàn người, đồng thời nó cũng mang bản chất chung của nhân loại, phát
triển trong toàn bộ lịch sử loài người.
2/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về giải phóng con người -
Triết học Mac-Lênin là triết học vì con người. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản”,C.Mac và Ph.Aêngghen đã viết : “vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột,
ách áp bức” song “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho
mỗi cá nhân riêng biệt”. Như vậy, tư tưởng giải phóng con người, giải phóng nhân loại là tư
tưởng xuyên suốt, là cái cốt lõi của Triết học Mac- Lênin. -
Triết học Mac-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng
conngười. Vấn đề giải phóng con người đã được nhiều học thuyết triết học đề cập đến, nhưng
do hạn chế bởi lịch sử , do chưa hiểu đúng về con người, về bản chất con người, cho nên khi
xác định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào, bằng các nào, giải phóng như thế
nào … các học thuyết triết học trong lịch sử đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng chưa
có được câu trả lời thích đáng. -
Triết học Mac-Lênin, trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về con người, về bản
chấtcon người, đã xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới
con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người”, “là giải phóng người lao
động thoát khoải lao động bị tha hóa”. Có thể nói rằng , vấn đề “tha hóa con người” và giải
phóng con người chiếm vị trí trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha
hóa” là biến thành cái bản chất khác với bản chất ban đầu. “Tha hóa con người”, theo C.Mác lOMoAR cPSD| 61622044
là con người không còn là chính mình mà trở thành tồn tại khác, cái đối lập với mình. Và
nguyên nhân của sự “tha hóa con người” là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự nô dịch
nhiều mặt đối với con người gây ra. -
Theo triết học Mac-Lênin, sự “tha hóa con người” là do hoạt động của chính con người
tạora, vì thế, con người bằng hoạt động tích cực của mình, có thể xoá bỏ được sự “tha hóa” cho mình.
+ Cần phải xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” thứ “ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực
tư bản và lao động” nó chính là nguồn gốc sinh ra mọi nô dịch con người trong xã hội tư bản.
+ Sự nghiệp xóa bỏ “tha hóa”, giải phóng cho con người là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân lao động, trong đó, giai cấp vô sản là lực lượng nòng cốt và quyết định. Bởi vì chỉ có giai
cấp vô sản mới có khả năng đem lại tự do và bình đẳng thực sự cho mọi người.
+ Sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình lâu dài. Nó phụ thuộc
chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào các điều kiện vật chất tất yếu cho
sự nghiệp giải phóng ấy.
Vận dụng để hoàn thiện nhân cách -
Miệt mài, năng nổ, sáng tạo, chủ động trong mọi việc -
Làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM -
Rèn luyện từ việc nhỏ nhất -
Gương mẫu trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí -
Tranh thủ mọi thời gian để xử lý công việc, bài học, chủ động ghi chép, lưu lại
những việc đã làm để chưa thực hiện tốt thì rút kinh nghiệm lần sau -
Tận tụy với công việc, có tinh thần cầu thị, tiến lên -
Gương mẫu tác phong, nói đi đôi với làm, sâu sắc thực tế, luôn học hỏi, ý thức
rõ trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ -
Nhận thức đúng vị trí, vai trò trong XH (nhà giáo tương lai) suy ra…
Phát huy nguồn nhân lực
- Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì con người, nguồn nhân lực được coi
là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại, tính hiệu quả của
quá trình này. Để đạt được sự phát triển, tính hiệu quả của quá trình CNH –HĐH thì cần
phải có những chính sách phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động và
cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta con người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm,
lợi thế song cũng có những mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại
chưa thực sự hợp lý. Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một điều hết sức cần thiết
và cần có những sự quan tâm đúng mức. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các
nguồn lực khác phục vụ cho quá trình CNH –HĐH . Các nguồn lực khác là có hạn, có