-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa duy vật biện chứng; Ý nghĩa vận dụng giải quyết mối quan hệ vật chất và ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tậo và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Triết học (7860220) 14 tài liệu
Học viện kỹ thuật quân sự 90 tài liệu
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa duy vật biện chứng; Ý nghĩa vận dụng giải quyết mối quan hệ vật chất và ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tậo và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Triết học (7860220) 14 tài liệu
Trường: Học viện kỹ thuật quân sự 90 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện kỹ thuật quân sự
Preview text:
lOMoARcPSD| 50016789
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY MỞ ĐẦU
Với tư cách là thế giới quan và phương pháp luận, triết học có nhiệm vụ giải
thích thế giới, nó cung cấp cho ta cách nhìn nhận xem xét thế giới từ đó chỉ đạo hoạt
động trực tiếp của con người. Trong thời đại ngày nay triết học ngày càng có vị trí
đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Trong đó triết học Mác - Lênin là hệ thống
triết học khoa học cách mạng nhất, giải thích và cung cấp phương pháp luận khoa
học, giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới một cách có hiệu quả.
Các trường phái triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đều
quan tâm luận giải mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản
của triết học. Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học cơ bản, bao quát mọi sự vật
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Việc giải thích đúng đắn mối quan hệ
này có vai trò quan trọng định hướng cho con người hành động đúng đắn trong hoạt
động thực tiễn. Theo quan điểm của duy vật biện chứng thì vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức có tính độc lập tương đối, là sự phản ánh
sáng tạo, năng động, tích cực thế giới vật chất, tác động trở lại thế giới vật chất.
Việc nắm bắt và giải quyết đúng đắn mối quan hệ bản chất giữa vật chất và ý
thức có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Do vậy, nó đòi
hỏi trước hết ở mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải tích cực hoạt động nâng cao
trình độ về mội mặt theo kịp với xu hướng phát triển của tình hình thực tiễn; nhất là
giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đường lối phát triển kinh tế xã hội
giúp đất nước phát triển bền vững. NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất lOMoARcPSD| 50016789
Các nhà duy vật trước Mác đã có những quan điểm về vật chất nhưng còn hạn
chế. Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng, có quảng tính. Vào thời cổ đại,
thuyết Ngũ hành của triết học Trung quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ” là
những tố chất vật chất xây dựng nên thế giới. Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên của thế
giới theo quan điểm của Talet là nước, theo Anaximen là không khí, Hêraclit cho
rằng đó là lửa, còn Đêmôcrit khẳng định đó là nguyên tử. Các nhà duy vật thế kỉ
XVII cho rằng nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể chia nhỏ, là những viên gạch
đầu tiên xây nên vật chất. Đây là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới
không phải là vô cùng mà có giới hạn, có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất, bất biến.
Cuối thế kỷ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu khoa học ra đời
đã bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật trước Mác: Beccoren phát hiện ra
tia phóng xạ (năm 1896), Tômson phát hiện ra điện tử (năm1897), phát hiện ra hạt
quác (năm 1964)… Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó, V.I.Lênin
khẳng định: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh
nhất của Lenin. Theo định nghĩa trên, vật chất là pham trù rộng lớn nhất mà nhận
thức luận chưa vượt qua được. Do vậy, chúng ta không thể đồng nhất vật chất với
vật thể hay một thuộc tính cụ thể, cũng không thể qui về phạm trù rộng lớn hơn. Vật
chất không phải là một lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó như chủ nghĩa
duy tâm khách quan đã quan niệm. Mà vật chất dùng để thực tại khách quan, là cái
tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại
ấy con người thức được hay chưa nhận thức được. Vật chất là cái gây nên cảm giác
ở con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan con người, được cảm
giác chép lại, chụp lại, phản ánh.
Lênin từng chỉ rõ: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động
vàvật chất đang vận động không ở đâu ngoài không gian và thời gian”. Vận động là lOMoARcPSD| 50016789
phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Khác với quan điểm siêu hình
cho rằng vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn
gốc của sự vận động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm duy vật biện
chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Vật chất tồn tại bằng vận động, vật
chất thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là
sự tự thân vận động. Vận động của vật chất không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ
hình thức vận động này sang hình thức vận động khác. Đứng im là một trạng thái
vận động, đó là vân động trong sự thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Như vậy,
đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất luôn vận
động và phát triển, sự vận động ấy không đâu khác “ngoài không gian và thời gian”.
Không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự vận động
của vật chất. Không gian có tính vô tận và ba chiều còn thời gian có tính vĩnh cửu
và một chiều. Hai thuộc tính này không thể tách rời nhau.
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá
trình phát triển của cả tự nhiên và lịch sử xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và thế giới khách quan. Bộ óc con
người là cơ quan tổ chức vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức của con người diễn
ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc con người. Ý thức không thể tách
rời khỏi hoạt động của bộ óc. Tuy nhiên, để bộ óc con người sinh ra được ý thức thì
tất yếu cần phải có sự tác động của thế giới khách quan. Mọi vật chất có thuộc tính
chung là phản ánh, ý thức là hình thức phản ánh thế giới hiện thực cao nhất của bộ
óc thông qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới khách quan.
Điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên song vẫn chưa
đủ mà lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hôi quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển của ý thức. lOMoARcPSD| 50016789
Lao động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác với tất cả các
động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.
Thông qua lao động, thế giới khách quan tác động nên não người và não người càng
phát triển tư duy trừu tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Ngôn ngữ
còn là phương tiện giao tiếp trong xã hội, là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng bản chất của ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức ra đời trong quá trình con
người lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ động
như sao chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo. Theo C.Mác và Ăngghen,
ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc con người và được
cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt
ngang, ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn…Trong đó, tri thức là
hạt nhân của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm
thức, vô thức và tự ý thức. Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn
vạch ra quy luật vận động phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện thực mà
còn sáng tạo hiện thực.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy tâm thì ý thức quyết định vật chất. Thuyết nhị tâm một
mặt thừa nhận vật chất là thực tại khách quan mặt khác thừa nhận ý thức là một khởi
nguyên độc lập không phụ thuộc vào vật chất. Nhà duy tâm chủ quan Beccoli thì cho
rằng: “Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”. Ông coi tồn tại không khách quan, bị tri giác,
do cảm giác sinh ra. Những cái vốn là thực tại khách quan nhưng không được tri
giác thì cũng không tồn tại. Khác với các quan điểm trên, CNDVBC cho rằng vật lOMoARcPSD| 50016789
chất là thực tai khách quan, đối lập với ý thức. Vật chất là tính thứ nhất, cảm giác ý
thức là tính thứ hai. Vật chất là cái được phản ánh còn ý thức là cái phản ánh. Quan
điểm này đã được đề cập tới ngay trong định nghĩa của Lenin về vật chất. Với định
nghĩa này, Lenin đã phân biệt CNDVBC với CNDT đồng thời cũng nêu lên mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể hiện qua vai trò quyết định của
vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
* Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức
Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và sự biến đổi, phát triển
của ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người. Con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản
phẩm của thế giới vật chất. Như vậy xét đến cùng, vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “ý thứccũng là tư
duy của chúng ta dù có vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là sản
vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc”. Bên cạnh bộ óc, thế giới tự
nhiên cũng quyết định sự ra đời của ý thức. Nếu có bộ óc phát triển mà không sống
trong thế giới tự nhiên đa dạng phong phú tức là không có sự tác động của thế giới
tự nhiên vào bộ não thì ý thức của con người chẳng khác nào loài vật, khó nhận thức đầy đủ được.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Chúng là những dạng
tồn tại của vật chất, cùng với nguồn gốc tự nhiên quyêt định sự hình thành, tồn taị,
phát triển của ý thức. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tất cả những hiện tượng
ý thức đều hình thành trên những điều kiện sống và hoạt động thực tiễn của con
người và xã hội loài người.
Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý
thức thay đổi theo. Ví dụ, những sinh hoạt vật chất thay đổi sẽ làm cho thói quen, lOMoARcPSD| 50016789
tâm lý con người thay đổi. Hay một người bình thường nếu vì lí do nào đó mà não
bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn. Cơ sở vật chất của trường
học được nâng cấp cải tiến thì trình độ dạy và học cũng được nâng cao.
Bên cạnh đó, vật chất là điều kiện khách quan để hiện thực hóa ý thức tư
tưởng. Những chủ trương, kế hoạch của con người chỉ được thực hiện trên những cơ
sở vật chất nhất định. Vật chất quyết định tính năng động, sáng tạo của ý thức trong
hoạt động thực tiễn. Do vậy, vật chất quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
* Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Nói ý thức là tính thứ hai, chủ nghĩa duy vật biện chứng không hề hạ thấp mà
hiểu đúng vai trò thực sự của ý thức. Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của
con người vì ý thức là của con người và bản thân ý thức không làm thay đổi gì hiện
thực. Ý thức có tính tương đối tác dụng trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan trên cơ sở ấy con người đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
phương pháp để thực hiện mục tiêu làm thay đổi hiện thực. Sự phản ánh của ý thức
đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, sáng tạo và chủ động chứ không máy móc,
nguyên xi thế giới vật chất. Ý thức chỉ phát huy được vai trò của mình khi có sự kết
hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nhiều công trình nghiên
cứu đã xác nhận trạng thái tâm lí (vui, buồn, phấn khởi, chán nản, …) ảnh hưởng
trực tiếp, mạnh mẽ đến trạng thái thể lực, tốc độ, năng suất lao động, …
Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản ánh
đúng điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy, tạo sự thuận lợi cho
sự phát triển của đối tượng vật chất. Trong trường hợp này, ý thức có tác động trở
lại tích cực đối với thực tiễn, đặc biệt là sự tác động của khoa học, lí luận. Đây là cơ
sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác
trong hành động và thực tiễn. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ
làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan và kìm lOMoARcPSD| 50016789
hãm sự phát triển của vật chất. Tức là ý thức đã có tác động tiêu cực đối với thực
tiễn. Khi con người không nhận thức đúng, không hiểu rõ sự việc hiện tượng thì họ
sẽ hành động sai và thường chịu những thất bại trong cuộc sống.
* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nghiên cứu mối quan hệ giữa vật
chấtvà ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Thứ nhất, từ tính quyết định của vật chất với ý thức nên trong hoạt động thực
tiễn, đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
Thứ hai, xuất phát từ tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức
đối với vật chất, nên trong hoạt động thực tiễn cần phát huy tính năng động chủ quan,
đặc biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận
thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê
phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất
nhưng lí luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Thứ ba, phải chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà
hạ thấp, đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy
ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do
sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng
lí luận vào thực tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn
đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên
tuyệt dối hóa vai trò của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa
là chống lại”chủ nghĩa khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
Thứ tư, phải luôn đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan
và chủ quan trong hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức. lOMoARcPSD| 50016789
2. Ý nghĩa vận dụng giải quyết mối quan hệ vật chất và ý thức của chủ
nghĩa duy vật biện chứng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế
thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng. Đổi
mới ở Việt Nam diễn ra từ hai chiều: “từ dưới lên” tức là ở các hợp tác xã, doanh
nghiệp và “từ trên xuống” tức là các quyết định của Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ
hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung
đột giữa “phía trên” và “phía dưới”, cũng như không có các “cú sốc” quá mạnh được
tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô cứng rắn và duy ý chí của
bộ máy lãnh đạo “phía trên”. Đó là đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt
Nam, vừa có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, vừa có sự sáng tạo của nhân
dân. Do đó, đã đảm bảo cho công cuộc đổi mới luôn có bước đi vững chắc, hiệu quả.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi
to lớn, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những
kinh nghiệm cải cách của các nước cũng là sự gợi mở cho Việt Nam trong sự nghiệp
tìm tòi con đường đổi mới. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá khách quan,
toàn diện, lịch sử - cụ thể về bối cảnh khu vực tác động đến sự phát triển của đất
nước; đã chỉ rõ tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương luôn có tác động mạnh
mẽ, trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Cần phải nhận định đúng về tình
hình khu vực để đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp. Trên cơ sở phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đánh giá
khách quan, toàn diện về bức tranh tổng thể của khu vực, chỉ ra những đặc điểm cụ
thể với những nguy cơ tiềm ẩn: Không chỉ đánh giá bối cảnh trong nước và khu vực,
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể bối cảnh
thế giới. Bối cảnh thế giới trong nhiệm kỳ Đại hội XII có nhiều khó khăn, trở ngại.
Đại hội XIII đã chỉ ra những khó khăn, trở ngại cụ thể về cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn; toàn cầu hóa; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; cạnh tranh kinh lOMoARcPSD| 50016789
tế, chiến tranh thương mại; vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống. Cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình
thức, phức tạp và quyết liệt hơn; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy,
cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng. Toàn cầu hóa tiếp tục tiến
triển nhưng gặp nhiều trở ngại. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả
thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia - dân tộc. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại giữa các nước, các nền kinh tế ngày càng quyết liệt. Nhiều vấn đề an
ninh truyền thống, phi truyền thông, an ninh mới như an ninh mạng, biến đổi khí
hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh,... trở thành những thách thức lớn trên
quy mô toàn cầu. Đại dịch Covid19 kéo dài, diễn biến phức tạp trên quy mô toàn cầu
làm đảo lộn, suy thoái nghiêm trọng kinh tế thế giới.
Những quan điểm đổi mới của Việt Nam được hình thành không chỉ đúc kết
kinh nghiệm của nước mình mà còn từ những kinh nghiệm thành công và không
thành công của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội và trong tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó. Trong hơn
20 năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp. Cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên
Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực bị lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng
thế giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động đến
cách mạng nước ta. Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững
vàng, Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con đường hợp
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu lOMoARcPSD| 50016789
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát triển của nhân loại.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn
hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991
cũng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng nước
ta. Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn đề xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới đã
khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiên định tính biện chứng,
là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.
Thứ hai, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp
Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, nếu xác
định đúng mục tiêu, song không xác định đúng phương hướng, bước đi thì vẫn có
thể không thành công. Đối với nước ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách
mạng, toàn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên phải
xác định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp,
phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững các mối quan hệ biện
chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh, trong đó lOMoARcPSD| 50016789
xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và
giữ nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của
văn hóa nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị tư
tưởng về nhà nước pháp quyền.
Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt nhiệm vụ
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt với
phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn
hóa và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công
bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh và đối ngoại.
Thứ ba, đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về
bản chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ Nhân dân, vì lợi
ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân,
của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ
trương đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân, thể hiện ý Đảng lòng dân nên được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng
tạo đã giải phóng được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định
sự phát triển xã hội, khơi dậy được tài sức của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực
tiễn mà Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp đổi mới vừa qua sẽ góp phần lOMoARcPSD| 50016789
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành công, nhất là phải đối phó với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề cấp bách khác như biến đổi khí hậu, dịch bệnh,...
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng
phí đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng làm cho quan
hệ giữa Đảng và Nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải củng cố và tăng cường
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Lợi ích chính đáng của nhân
dân phải là cơ sở để hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như vậy
những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân
mới có thể được biến thành những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới.
Thứ tư, phát huy nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố
quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thời đại.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ
bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng những
thành tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới…) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh
tế - xã hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, tác
động đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập được quan hệ ổn định với
các nước lớn, đã thiết lập ngoại giao với 167 nước, có quan hệ thương mại với 221
nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày lOMoARcPSD| 50016789
càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được
quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng
vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước
ngoài, mở rộng thị trường để phát triển đất nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội
lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai thác ngoại
lực, sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Thứ năm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn,
ngày càng hoàn thiện, vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng được tăng
cường, do đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng được đông đảo nhân dân
hưởng ứng biến thành hành động sôi nổi, rộng khắp của quần chúng.
Trong quy trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng của con người
được phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của
nhân dân vào quá trình sáng tạo ra xã hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả hơn. lOMoARcPSD| 50016789
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, lấy
việc giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng. Phải tạo điều kiện và cơ
chế cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát
và phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ sáu, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào giải
quyết hài hoà, có hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, vật chất quyết định ý thức
và ý thức tác động trở lại vật chất. Nhưng trong nhiều trường hợp, ý thức lí luận lại
quyết định sự thành bại của con người. Điều đó được thể hiện trong đường lối chủ
trương đổi mới kinh tế của Đảng, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nếu
đường lối chính sách của Đảng phù hợp với quy luật phát triển sẽ làm cho đất nước
phát triển, ngược lại nếu nó đi ngược lại với quy luật phát triển thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Sự phát triển vượt bậc của Việt Nam qua 35 năm đổi mới là minh chứng cho
những thành tựu lý luân về chủ nghĩa xã hộ i và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộ ị
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, khi đất nước bước vào môt giai đoạṇ phát
triển mới, trong khi cuôc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển hết sức ̣ mau lẹ,
khi toàn cầu hóa và hôi nhậ p quốc tế ngày càng thâm nhập sâu vào đờị sống mọi
quốc gia thì việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa đổi mời kinh tế và đổi mới chính
trị, tìm ra liều lượng và bước đi thích hợp nhằm vừa giữ vững ổn định chính trị, vừa
phát triển kinh tế một cách bền vững. Để làm được điều đó, Đảng đã luôn quan tâm
và giải quyết một cách sáng suốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế và phát triển kinh tế là biện pháp
quan trọng nhất nhằm giữ vững ổn định chính trị. Việc nhận thức được sự tác động lOMoARcPSD| 50016789
qua lại giữa kinh tế và chính trị, sự chi phối lẫn nhau giữa chúng, có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc hoạch định các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước
Nhưng xét cho cùng, đường lối được đề ra phải phụ thuộc vào điều kiện khách
quan, hoàn cảnh cụ thể. Thế giới luôn vận động, vai trò tích cực của ý thức cũng chỉ
tồn tại trong một giai đoạn, điều kiện nhất định, nếu đường lối không phù hợp thì
sớm muộn cũng bị đào thải. Nếu một đất nước có một nền kinh tế phát triển giàu
mạnh mà chính trị bất ổn thì đất nước đó sẽ không phát triển bền vững, cuộc sống
của người dân sẽ không được yên bình, hạnh phúc. Còn đất nước có nền kinh tế phát
triển, chính trị ổn định thì sẽ trở nên giàu mạnh, người dân có một cuộc sống ấm no.
Như vậy, kinh tế (vật chất) là tính thứ nhất, chính thị (ý thức) là tính thứ hai. Đại hội
XIII của Đảng nêu ra chín mối quan hệ lớn trong Định hướng phát triển đất nước
giai đoạn 2021 - 2030, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các
quan hệ lớn:…; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;...”. Chúng ta đổi mới
không có nghĩa là phủ nhận mọi thành quả nhân dân cả nước đã đạt được, mà là sự
kế thừa những thành tựu, cách nghĩ, cách làm đúng trong các giai đoạn trước; chú
trọng nhiều hơn việc sửa chữa các “sai lầm, khuyết điểm”, quay trở lại nhận thức
đúng tầm quan trọng và tính tất yếu phải tôn trong quy luật khách quan, có như thế
mới bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”. Đồng thời khẳng định “Đổi mới tư
duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận
những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường
lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy” KẾT LUẬN
Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa hiên đại hóa, Đảng ta chủ
trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người
lao động. Muốn vậy “Phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát lOMoARcPSD| 50016789
huy tài chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu”
(tức là phát huy tính năng động của ý thức). Đảng đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngoài ra, ta cũng nâng cao công tác tuyên truyền
giáo dục lí luận chính trị để tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.
Hiện nay, trước những biến động của tình hình kinh tế - xã hội thế giới, đòi
hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó
khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng
ngày từng giờ để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Trước hết, cần tiếp tục quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng thành thạo phép biện chứng duy vật vào
việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính
trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Từ đó, không
ngừng nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. lOMoARcPSD| 50016789 7.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 8.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập I, II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 9.
V. I. Lênin toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1981.