Một số điều có thể bổ sung trong Hiến Pháp 2013 - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng

Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

THEO ANH/ CHỊ, HIẾN PHÁP NĂM 2013 ĐÃ QUY ĐỊNH ĐẦY ĐỦ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN CHƯA? NẾU CHƯA THÌ
CẦN BỔ SUNG QUYỀN GÌ? TẠI SAO?
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 2013:
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua 25
năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp 1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngày 6/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số
06/2011/QH13 thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 30 thành
viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban. Sau
thời gian 9 tháng (từ tháng 1 đến tháng 9/2013) triển khai lấy ý kiến góp ý của nhân
dân cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam – Hiến pháp năm 2013. Ngày 8/12/2013, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố
Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Đây là bản Hiến pháp
của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế của nước ta thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới
của lịch sử lập hiến Việt Nam.
2. Nội dung của Hiến pháp 2013:
Hiến pháp năm 2013 gồm Lời nói đầu, 11 chương, 120 điều. So với Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp năm 2013 giảm 1 chương, 27 điều, trong đó có 12 điều mới; giữ
nguyên 7 điều và sửa đổi, bổ sung 101 điều còn lại. Trong đó, quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định ở chương II.
Lời nói đầu của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để
nêu bật được một cách ngắn gọn, súc tích tinh thần, nội dung của Hiến pháp, phản ánh
được lịch sử hào hùng của dân tộc, thể hiện rõ mục tiêu dân chủ và khẳng định chủ
quyền của nhân dân Việt Nam trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền
con người và quyền công dân tại Việt Nam. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp
2013 đã mở rộng và cụ thể hóa nhiều quyền, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao
của Nhà nước đối với con người và sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, vẫn còn một số quyền cần được b
sung và hoàn thiện để Hiến pháp thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của
hội và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền.
1. Quyền bình đẳng cho người tàn tật/ khuyết tật:
Pháp luật cần quy định rõ ràng rằng mọi hành vi phân biệt đối xử dựa trên
tình trạng tàn tật là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt nghiêm minh. Điều
này sẽ tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi của người
khuyết tật, đồng thời khuyến khích họ tham gia đầy đủ vào các hoạt động
xã hội.
Việc ban hành luật cấm phân biệt đối xử dựa trên tình trạng tàn tật thể
hiện cam kết của Nhàớc trong việc thúc đẩy bình đẳng và công bằng
cho tất cả mọi người. Nóng góp phần xóa bỏ mọi rào cản định kiến
đối với người khuyết tật, tạo điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng phát
huy tối đa tiềm năng của bản thân.
2. Quyền được chuyển đổi giới tính:
Hiến pháp 2013 công nhận quyền tự xác định giới tính của cá nhân, tuy nhiên
luật pháp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về thủ tục chuyển đổi
giới tính. Điều này khiến cho cộng đồng LGBT gặp nhiều khó khăn trong việc
thực hiện quyền này.
Cần có sự nỗ lực của Nhà nước trong việc:
Xây dựngban hành luật chuyển đổi giới tính để đảm bảo quyền lợi của
cộng đồng LGBT.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về LGBT, xóa bỏ kỳ thị và phân biệt
đối xử.
Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về y tế,m lýxã hội cho cộng đồng
LGBT.
3. Quyền tự do ngôn luận.
Hiến pháp 2013 quy định về quyền tự do ngôn luận, nhưng vẫn còn một số hạn
chế nhất định. Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận còn nhiều bất cập, dẫn đến
những tranh cãi trong xã hội.
Để đảm bảo quyền tự do ngôn luận được thực hiện một cách hiệu quả và hạn chế
những lạm dụng, cần:
Hoàn thiện quy định về quyền tự do ngôn luận một cách cụ thể hơn, rõ
ràng hơn.
Tăng cường giáo dục về quyền tự do ngôn luận cho người dân, nâng cao ý
thức trách nhiệm khi sử dụng quyền này.
Xây dựng môi trường truyền thông cởi mở, đa chiều, khách quan, tôn
trọng các ý kiến khác biệt.
4. Quyền bình đẳng giới:
- Vấn đề bình đẳng giới đối với người thuộc cộng đồng LGBT là một trong
những thách thức chính trong xã hội hiện đại. Dưới đây là một số điểm quan
trọng liên quan đến vấn đề này:
Phân biệt đối xửkỳ thị: Người LGBT thường phải đối mặt với s
phân biệt đối xửkỳ thị trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, bao gồm
giáo dục, làm việc,trong cộng đồng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng
loại trừhội và tâm lý.
Hợp nhất hôn nhânquyền đồng tính: Nhiều quốc gia vẫn chưa công
nhận hợp nhất hôn nhân hoặc không bảo vệ đầy đủ quyền lợi của cặp đôi
đồng tính. Điều này tạo ra sự không công bằng và khôngnh đẳng trong
quyền lợi và trách nhiệm củac cặp đôi LGBT.
An toàn và bạo lực: Một số người LGBT phải đối mặt với tình trạng an
toàn khi làm công bố danh tính hoặc sống theo bản thân mình, do tình
trạng kỳ thịbạo lực từ một số người khác.
Tình trạng tâm thần và sức khỏe: Áp lực xã hội và kỳ thịthể ảnh
hưởng đến tâm lýsức khỏe tinh thần của người LGBT. Nhiều người
cảm thấylập và không được chấp nhận, điều này có thể dẫn đến tình
trạng trầm cảm và tự tử.
- Hiện tại, Hiến pháp Việt Nam không chứa các điều khoản cụ thể về bình
đẳng giới đối với cộng đồng LGBT. Tuy nhiên, có một số cải cách và quy
định pháp luật khác mà Việt Nam đã thực hiện trong những năm gần đây để
cải thiện bình đẳng và đối xử công bằng đối với cộng đồng LGBT. Dưới đây
là một số điểm chính:
1. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Luật này đã bỏ đi các điều khoản cấm
hôn nhân đồng tính, tuy nhiên, vẫn không cung cấp những quyền lợi hoặc
bảo vệ đầy đủ cho các cặp đôi đồng tính như các cặp đôi trai gái.
2. Chính sách Giáo dục: Nhiều tổ chức và chính trị gia ở Việt Nam đã đề xuất
cải cách giáo dục để giảng dạy về sự đa dạng tình dục và tình dục, bao gồm
cả chủ đề về LGBT.
3. Chính sách Y tế: Các nỗ lực đã được thực hiện để cải thiện quyền lợi y tế
của cộng đồng LGBT, bao gồm cả việc đối phó với HIV/AIDS và các vấn đề
sức khỏe tâm thần.
Tuy nhiên, còn nhiều công việc cần phải làm để đảm bảo bình đẳng đầy đủ và bảo
vệ quyền lợi của cộng đồng LGBT. Có thể cần có các cải cách lớn hơn và các quy
định pháp luật cụ thể để đảm bảo rằng người LGBT được đối xử công bằng và có
những quyền lợi tương đương với những người khác trong xã hội.
KẾT LUẬN:
Việc bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một quá trình phức tạp và cần được thực hiện
một cách cân nhắc để đảm bảo rằng nó phản ánh đúng nhu cầu và giá trị của xã hội
Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn không thể phủ nhận những điểm nổi bật của Hiến pháp 2013.
- Đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công
dân. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người với
quyền công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân
biệt và sử dụng hai thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế
định các quyền con người và quyền công dân (Chương II).
- Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu
hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, bao gồm:
bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1, Điều 20); bảo vệ
đời tư (Điều 21); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà
nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); được xét xử công
bằng, công khai (Điều 31); bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền
việc làm (Điều 35);...
Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội
dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm
1992 - chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Nếu
Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành
vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến
pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều
26), tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ
chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ.
Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và
làm sâu sắc hơn.
Hiến pháp 2013 là một văn bản quan trọng, thể hiện sự phát triển của Việt Nam
trongnh vực bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Tuy nhiên, để Hiến
pháp thực sự đi vào cuộc sống và đáp ứng được yêu cầu phát triển củahội,
cần có sự nỗ lực của cả Nhà nước vàhội trong việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, nâng cao nhận thức và thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền con
người và quyền công dân.
| 1/5

Preview text:

THEO ANH/ CHỊ, HIẾN PHÁP NĂM 2013 ĐÃ QUY ĐỊNH ĐẦY ĐỦ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN CHƯA? NẾU CHƯA THÌ
CẦN BỔ SUNG QUYỀN GÌ? TẠI SAO?

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 2013:
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua 25
năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp 1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngày 6/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số
06/2011/QH13 thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 30 thành
viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban. Sau
thời gian 9 tháng (từ tháng 1 đến tháng 9/2013) triển khai lấy ý kiến góp ý của nhân
dân cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam – Hiến pháp năm 2013. Ngày 8/12/2013, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố
Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Đây là bản Hiến pháp
của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế của nước ta thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới
của lịch sử lập hiến Việt Nam.
2. Nội dung của Hiến pháp 2013:
Hiến pháp năm 2013 gồm Lời nói đầu, 11 chương, 120 điều. So với Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp năm 2013 giảm 1 chương, 27 điều, trong đó có 12 điều mới; giữ
nguyên 7 điều và sửa đổi, bổ sung 101 điều còn lại. Trong đó, quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định ở chương II.
Lời nói đầu của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để
nêu bật được một cách ngắn gọn, súc tích tinh thần, nội dung của Hiến pháp, phản ánh
được lịch sử hào hùng của dân tộc, thể hiện rõ mục tiêu dân chủ và khẳng định chủ
quyền của nhân dân Việt Nam trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền
con người và quyền công dân tại Việt Nam. So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp
2013 đã mở rộng và cụ thể hóa nhiều quyền, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao
của Nhà nước đối với con người và sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, vẫn còn một số quyền cần được bổ
sung và hoàn thiện để Hiến pháp thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã
hội và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền.
1. Quyền bình đẳng cho người tàn tật/ khuyết tật:
 Pháp luật cần quy định rõ ràng rằng mọi hành vi phân biệt đối xử dựa trên
tình trạng tàn tật là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt nghiêm minh. Điều
này sẽ tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi của người
khuyết tật, đồng thời khuyến khích họ tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội.
 Việc ban hành luật cấm phân biệt đối xử dựa trên tình trạng tàn tật thể
hiện cam kết của Nhà nước trong việc thúc đẩy bình đẳng và công bằng
cho tất cả mọi người. Nó cũng góp phần xóa bỏ mọi rào cản và định kiến
đối với người khuyết tật, tạo điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng và phát
huy tối đa tiềm năng của bản thân.
2. Quyền được chuyển đổi giới tính:
Hiến pháp 2013 công nhận quyền tự xác định giới tính của cá nhân, tuy nhiên
luật pháp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về thủ tục chuyển đổi
giới tính. Điều này khiến cho cộng đồng LGBT gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền này.
Cần có sự nỗ lực của Nhà nước trong việc:
 Xây dựng và ban hành luật chuyển đổi giới tính để đảm bảo quyền lợi của cộng đồng LGBT.
 Nâng cao nhận thức của cộng đồng về LGBT, xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử.
 Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho cộng đồng LGBT.
3. Quyền tự do ngôn luận.
Hiến pháp 2013 quy định về quyền tự do ngôn luận, nhưng vẫn còn một số hạn
chế nhất định. Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận còn nhiều bất cập, dẫn đến
những tranh cãi trong xã hội.
Để đảm bảo quyền tự do ngôn luận được thực hiện một cách hiệu quả và hạn chế những lạm dụng, cần:
 Hoàn thiện quy định về quyền tự do ngôn luận một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn.
 Tăng cường giáo dục về quyền tự do ngôn luận cho người dân, nâng cao ý
thức trách nhiệm khi sử dụng quyền này.
 Xây dựng môi trường truyền thông cởi mở, đa chiều, khách quan, tôn
trọng các ý kiến khác biệt.
4. Quyền bình đẳng giới:
- Vấn đề bình đẳng giới đối với người thuộc cộng đồng LGBT là một trong
những thách thức chính trong xã hội hiện đại. Dưới đây là một số điểm quan
trọng liên quan đến vấn đề này:
Phân biệt đối xử và kỳ thị: Người LGBT thường phải đối mặt với sự
phân biệt đối xử và kỳ thị trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, bao gồm
giáo dục, làm việc, và trong cộng đồng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng
loại trừ xã hội và tâm lý.
Hợp nhất hôn nhân và quyền đồng tính: Nhiều quốc gia vẫn chưa công
nhận hợp nhất hôn nhân hoặc không bảo vệ đầy đủ quyền lợi của cặp đôi
đồng tính. Điều này tạo ra sự không công bằng và không bình đẳng trong
quyền lợi và trách nhiệm của các cặp đôi LGBT.
An toàn và bạo lực: Một số người LGBT phải đối mặt với tình trạng an
toàn khi làm công bố danh tính hoặc sống theo bản thân mình, do tình
trạng kỳ thị và bạo lực từ một số người khác.
Tình trạng tâm thần và sức khỏe: Áp lực xã hội và kỳ thị có thể ảnh
hưởng đến tâm lý và sức khỏe tinh thần của người LGBT. Nhiều người
cảm thấy cô lập và không được chấp nhận, điều này có thể dẫn đến tình
trạng trầm cảm và tự tử. -
Hiện tại, Hiến pháp Việt Nam không chứa các điều khoản cụ thể về bình
đẳng giới đối với cộng đồng LGBT. Tuy nhiên, có một số cải cách và quy
định pháp luật khác mà Việt Nam đã thực hiện trong những năm gần đây để
cải thiện bình đẳng và đối xử công bằng đối với cộng đồng LGBT. Dưới đây là một số điểm chính:
1. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Luật này đã bỏ đi các điều khoản cấm
hôn nhân đồng tính, tuy nhiên, vẫn không cung cấp những quyền lợi hoặc
bảo vệ đầy đủ cho các cặp đôi đồng tính như các cặp đôi trai gái.
2. Chính sách Giáo dục: Nhiều tổ chức và chính trị gia ở Việt Nam đã đề xuất
cải cách giáo dục để giảng dạy về sự đa dạng tình dục và tình dục, bao gồm cả chủ đề về LGBT.
3. Chính sách Y tế: Các nỗ lực đã được thực hiện để cải thiện quyền lợi y tế
của cộng đồng LGBT, bao gồm cả việc đối phó với HIV/AIDS và các vấn đề sức khỏe tâm thần.
Tuy nhiên, còn nhiều công việc cần phải làm để đảm bảo bình đẳng đầy đủ và bảo
vệ quyền lợi của cộng đồng LGBT. Có thể cần có các cải cách lớn hơn và các quy
định pháp luật cụ thể để đảm bảo rằng người LGBT được đối xử công bằng và có
những quyền lợi tương đương với những người khác trong xã hội. KẾT LUẬN:
Việc bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một quá trình phức tạp và cần được thực hiện
một cách cân nhắc để đảm bảo rằng nó phản ánh đúng nhu cầu và giá trị của xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn không thể phủ nhận những điểm nổi bật của Hiến pháp 2013.
- Đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công
dân. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người với
quyền công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân
biệt và sử dụng hai thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế
định các quyền con người và quyền công dân (Chương II). -
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu
hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, bao gồm:
bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1, Điều 20); bảo vệ
đời tư (Điều 21); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà
nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); được xét xử công
bằng, công khai (Điều 31); bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền việc làm (Điều 35);...
Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội
dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm
1992 - chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Nếu
Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành
vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến
pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều
26), tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ
chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ.
Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn.
Hiến pháp 2013 là một văn bản quan trọng, thể hiện sự phát triển của Việt Nam
trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Tuy nhiên, để Hiến
pháp thực sự đi vào cuộc sống và đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội,
cần có sự nỗ lực của cả Nhà nước và xã hội trong việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, nâng cao nhận thức và thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền con
người và quyền công dân.