Một số đoạn đánh giá nâng cao môn cơ sở văn hóa việt nam| Đại học Sư Phạm Hà Nội
Một số đoạn đánh giá nâng cao môn cơ sở văn hóa việt nam| Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Nhập môn khoa học xã hội và nhân văn
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỘT SỐ ĐOẠN ĐÁNH GIÁ NÂNG CAO THAM KHẢO
1. Về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến
Chất hiện thực: hiện thực đến trần trụi. Nhà thơ không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh
khi nói về khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, sự xanh xao, tiều tụy của người lính; không né tránh cái
chết khi miêu tả cảnh tượng hoang lạnh và sự chết chóc đang chờ đợi người lính: Rải rác biên cương mồ viễn xứ
-> Chất hiện thực tôn lên vẻ đẹp hình tượng - Bút pháp lãng mạn:
+ Thể hiện ở nỗi nhớ và tình yêu, gắn bó, giọng điệu ngợi ca, tự hào tràn ngập trong mỗi dòng thơ về người lính.
+ Thể hiện trong việc tô đậm vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, hào hoa trong tâm hồn người lính Hà
Thành qua thủ pháp đối lập: vẻ ngoài dữ dội với tâm hồn bên trong dạt dào cảm xúc, bay bổng.
+ Thể hiện ở khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng thủ pháp đối lập: hiện thực
thiếu thốn, bệnh tật, chết chóc đối lập với sức mạnh dữ dội, lẫm liệt và lí tưởng anh hùng cao cả, sự hi sinh bi tráng.
+ Thể hiện ở bút pháp lí tưởng hóa hình tượng.
=> Hiện thực và lãng mạn cùng khắc tạc nên bức tượng đài độc đáo và cao đẹp về người lính chống Pháp.
* Từ đoạn thơ, ta có thể nhận thấy bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng. Bút pháp là
cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một
hình thức nghệ thuật nào đó. Ở đây bút pháp cũng tức là cách viết, lối Với viết. tâm hồn lãng mạn,
cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt, Quang Dũng đã làm sống dậy trước mắt người đọc khung
cảnh thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ. Bằng trí tưởng
tượng bay bổng, với thủ pháp nghệ thuật đối lập
ngôn ngữ giàu giá trị tạo
được sử dụng triệt để,
hình, nhà thơ đã họa nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vỹ, hoang sơ, bí hiểm vừa
vô cùng mĩ lệ và thơ mộng. Trên phông nền thiên nhiên ấy, hình tượng người lính được miêu tả
thật hiên ngang, kiêu hùng mà cũng rất lãng mạn, hào hoa. Giọng điệu thơ gân guốc, khỏe khoắn,
gợi âm hưởng cổ kính của những bài hành trong văn học trung đại. Lối ngắt nhịp linh hoạt, cách
sử dụng từ láy, biện pháp tu từ trùng điệp cũng góp phần tạo nên tính nhạc cho bài thơ. Bởi vậy
mà Xuân Diệu đã từng nhận xét về thơ Quang Dũng: " đọc thơ QD như ngậm nhạc ở trong
miệng". Những tên địa danh xa lạ, những hình ảnh được lạ hóa, những từ ngữ được sử dụng
một cách sáng tạo, tài hoa...tất cả đã đem đến cho đoạn thơ màu sắc xứ lạ phương xa, kích thích
sự tưởng tượng của con người, nhất là những tâm hồn trẻ. Bài thơ bởi vậy có một màu sắc riêng
trong thơ ca kháng chiến, đưa tên tuổi Quang trở thành " một nhà thơ của Hà Nội, một nhà thơ của
Việt Nam, một nhà thơ của thời đại”. (Phạm Xuân Nguyên)
2. Về cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến
Cảm hứng lãng mạn- Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của nhà thơ Quang Dũng ở bài thơ Tây Tiến.
Chính nguồn cảm hứng ấy đã biến thành nguồn cảm xúc tuôn trào, thôi thúc nhà thơ sáng tác.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là xu thế vươn lên, vượt lên trên thực tại
khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát vọng mạnh mẽ hướng
về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng tượng, ở tương lai hay quá khứ.
Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên, tình yêu, tôn
giáo, hồi tưởng, kỉ niệm,... đồng thời đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường, độc đáo,
vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hằng ngày. Nó đề cao nguyên tắc chủ
quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng tượng, liên tưởng, cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm
đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và
tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của nhà thơ Quang Dũng ở bài thơ Tây Tiến. Chính nguồn cảm
hứng ấy đã biến thành nguồn cảm xúc tuôn trào, thôi thúc nhà thơ sáng tác. Do đó, bài thơ viết về
Tây Bắc và những người lính Tây Tiến nhưng lại là một tác phẩm trữ tình, một cái tôi cá nhân đầy
cảm xúc, với nỗi nhớ khi đong đầy, tràn ngập, khi bâng khuâng, luyến tiếc.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái nhìn đối với thiên nhiên.
Thiên nhiên Tây Bắc với núi đồi trùng điệp, hiểm trở, nhưng dưới con mắt của những người
lính Tây Tiến, những cảnh tượng ấy lại có vẻ đẹp tươi mới, hấp dẫn của sự khám phá, kiếm tìm.
Hơn nữa, người lính Tây Tiến còn tìm thấy ở đó những cảnh thơ mộng.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở chân dung người lính lãng mạn hào hoa:
Xem thường nguy nan, xem thường bệnh tật, cái chết.
Ấp ủ nhiều ước mơ tươi đẹp.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở giọng điệu (khi mềm mại, thiết tha, lúc hùng tráng, khỏe mạnh), ở
thủ pháp tương phản (hình ảnh), từ ngữ ước lệ... Đây là những hình thức nghệ thuật rất đặc thù của
thơ ca lãng mạn nói chung.
3. Về phong cách trữ tình, chính luận trong đoạn trích Đất Nước
Đoạn trích trên đã thể hiện sự kết hợp nhuần nhị giữa hai yếu tố trữ tình và chính luận trong
hồn thơ tác giả. Nguyễn Khoa Điềm với giọng thơ giàu suy tư, vừa dạt dào chất trữ tình vừa sâu
lắng chất chính luận đã ghi dấu một phong cách thơ độc đáo giữa làng thơ chống Mĩ biết bao
phong cách đa dạng. Chất trữ tình nằm trong xúc cảm cá nhân được bộc lộ trong thơ, thể hiện ở
lối thơ tâm sự ngọt ngào đằm thắm giữa “anh” và “em”, thể hiện ở chất dân gian với những hình
ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi cảm, là những “hạt lúa”, “hòn than”, “con cúi”, là “giọng điệu”, “tên
xã tên làng”,... vốn luôn hiện hữu quanh ta hàng ngày nay được đưa vào trong thơ trở thành hình
ảnh giàu biểu cảm và ý nghĩa. Kết hợp với đó là chất chính luận thể hiện ở chiều sâu suy tư và
cảm nhận của tác giả về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, gắn vận mệnh đất nước với số phận,
trách nhiệm của những con người bình dị vô danh. Đó là một quan điểm có tính thời sự, lớn lao
nhưng cũng vô cùng bức thiết trong bối cảnh chiến tranh và cả trong thời kì hòa bình. Phong cách
thơ trữ tình - chính luận cứ thế được thể hiện đặc sắc và rõ nét ở cả nội dung và nghệ thuật của
đoạn thơ. Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ sự kết hợp giữa hai yếu tố chính luận
và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc nhìn mới mẻ về đoạn thơ nói riêng và bản trường ca
nói chung. làm cho tác phẩm có nội dung về vận mệnh Tổ quốc, khơi dậy ý chí đồng bào nhưng lại
hết sức uyển chuyển, không phải lời kêu gọi giáo điều nhưng có sức tác động mạnh mẽ. Đây cũng
là sáng tạo trong phong cách nghệ thuật nổi bật của tác giả ở đoạn trích này nói riêng và thiên
trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung.
4. Về cái nhìn mới mẻ về Đất Nước
“Đóng góp mới mẻ” là những đóng góp riêng, độc đáo, là sản phẩm của quá trình sáng tạo
mang đậm dấu ấn chủ quan, dấu ấn cá nhân của tác giả. Vì yêu cầu của nghệ thuật là luôn phải
mới mẻ, yêu cầu phẩm chất nghệ sĩ là phải có giọng riêng, nói như Tuốc-ghê-nhép là phải có “thần
sắc riêng”, nói như Hoài Thanh là “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”
Nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước được cảm nhận trên
nhiều bình diện, từ thời gian lịch sử đến không gian địa lý và bề dày văn hoá. Tất cả đều được dọi
chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân
dân” từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm để nâng lên
một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. “Đất Nước của Nhân dân” được cảm nhận một cách
toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không
những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân.
Đất nước được cảm nhận một cách toàn diện, trên nhiều phương diện trong sự gắn bó với mỗi cá
nhân và cả cộng đồng với cuộc sống bình thường của mỗi con người. Đất nước xa xôi mà không
xa vời. Đất nước gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con
người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi
con người: Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác
định mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc.
5. Những sáng tạo mới mẻ trên phương diện nghệ thuật của Đất Nước
Thơ hay không chỉ nằm ở nội dung mà còn thể hiện ở hình thức biểu hiện của nó. Sự mới
mẻ ở hình thức trong đoạn trích nằm ở thể thơ tự do, câu thơ ngắn dài linh hoạt, nhịp nhanh, chậm
phong phú thể hiện cảm xúc suy tư, sôi nổi. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên gần với khẩu ngữ nên
rất tự nhiên sống động. Thơ tự do, nhiều từ, nhiều ngữ nhưng không hề khô khan bởi Nguyễn
Khoa Điềm đã khéo léo sử dụng một loạt điệp từ, điệp hình ảnh, điệp cấu trúc góp phần làm giọng
thơ thêm nhiệt hứng, câu thơ thêm hình ảnh. Thêm vào đó còn là tài năng sử dụng chất liệu dân
gian rất riêng, rất độc đáo. Không trích dẫn nguyên văn ca dao, tục ngữ, dân ca, không kể lể dài
dòng các phong tục tập quán, các truyện cổ tích, truyền thuyết, tác giả chỉ bắt lấy rất nhạy cái hồn
của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho độc giả, tạo ra cảm giác vừa quen vừa lạ.
6. Về cách sử dụng chất liệu văn học dân gian
Chất liệu văn học dân gian đã được tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo.
Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ thờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một
phần của các câu ca đó để đa vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích
cũng được sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đa người
đọc nhập cả vào môi trường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện được sự đánh giá,
cảm nhận được phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc.
- Nhiều bài ca dao, truyện cổ tích, những câu thành ngữ, tục ngữ đã được huy động:
+ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn → ca dao Em ơi chua ngọt đã từng – Gừng cay
muối mặn ta đừng quên nhau.
+ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
một nắng hai sương → thành ngữ .
→ Đóng góp của tác giả đã đưa vào thơ Việt Nam chất liệu văn hóa phong tục, tạo ra một cách
nhìn mới về đất nước nhưng không đánh mất đi sự gần gũi, thân thuộc.
- Chất liệu văn hóa dân gian ở đoạn trích này gợi ấn tượng vừa quen thuộc vừa mới lạ:
+ Quen thuộc vì những hình ảnh, chi tiết trong văn hóa phong tục dân gian rất gần gũi với con người Việt Nam.
+ Mới lạ vì trong thơ nói riêng và trong văn học nói chung chưa có ai nói về đất nước bằng cách
khai thác chất liệu văn hóa dân gian này.
⇒ Sáng tạo của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mới mẻ, độc đáo, góp phần làm phong phú cách thể
hiện Đất Nước. Đem đến cho Đất Nước một cách hiện diện hoàn toàn khác nhưng lại thân thuộc,
gần gũi trong trái tim quần chúng nhân dân.
7. Về cái nhìn mới mẻ về người nông dân trong Vợ nhặt
- Cái nhìn xót xa, thương cảm về người nông dân trong nạn đói khủng khiếp Ất Dậu 1945.
- Cái nhìn lạc quan tin tưởng về con người: nhìn thấy sức mạnh của tình yêu thương, khao khát sống
mãnh liệt và niềm tin bất diệt vào tương lai trong thẳm sâu tâm hồn con người đang bên bờ vực mong
manh giữa sự sống - cái chết.
- Kim Lân không để người nông dân chìm trong vòng luẩn quẩn bế tắc của bi kịch như Chí Phèo của
Nam Cao, Tắt đèn của Ngô Tất Tố… mà mở ra cho họ tương lai hứa hẹn sự đổi đời, hướng đến ánh sáng cách mạng.
- Cách nhìn mới mẻ về người nông dân cho thấy sự am hiểu sâu sắc về đời sống làng quê, tình thương
yêu con người và phong cách nghệ thuật truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân. Ví dụ:
- Nhà văn có cái nhìn xót xa, thương cảm và tin yêu về con người Việt Nam dưới ách thống trị
của giai cấp phong kiến và bọn thực dân phát xít trong nạn đói khủng khiếp Ất Dậu 1945. Tuy
sống trong thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát
sống, khao khát yêu thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. - Kim Lân còn
tìm thấy sức mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu
chuyện dở khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy, con người và thế giới của riêng Tràng thay
đổi: vợ hiền thảo hơn, Tràng đã trưởng thành nên người. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám
mây u ám. Tình yêu thương đã khiến cho ba con người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị
vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Trong thời khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu
mang, sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu.
- Cái nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng
cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống
truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị
nhân văn trong sáng tác của nhà văn nông thôn được đánh giá xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975.
8. Về giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt
a. Giá trị hiện thực:
- Phản ánh chân thực, sắc nét và cảm động tình cảnh khốn cùng của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945.
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy nhân dân ta vào bước đường cùng.
- Con đường đi đến với cách mạng là con đường tất yếu của người dân lao động nghèo. b. Giá trị nhân đạo:
- Niềm cảm thương, đồng cảm sâu sắc của nhà văn trước số phận của những người nghèo khổ.
- Là tiếng nói khẳng định, đề cao những tình cảm cao đẹp của người lao động nghèo khổ: đó
là tình yêu thương đùm bọc, tình mẫu tử, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.
- Thể hiện niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống vào tương lai dù ở trong tình cảnh khốn khó nhất.
9. Về nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật trong vợ nhặt
- Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của tâm hồn.
Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết,
yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa.
- Nhà văn đã kết hợp miêu tả trực tiếp tâm lí nhân vật với việc gián tiếp thể hiện nó qua miêu tả
lời nói, cử chỉ, nét mặt. Đặc biệt nhà văn chú ý làm nổi bật nội tâm nhân vật qua cách nhập giọng
kể vào giọng nói của nhân vật để nhân vật bộc lộ một cách tự nhiên và xúc động những trạng thái
cảm xúc đan xen, phức tạp, chồng chéo lên nhau
- Từng giai đoạn chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ ấy được nhà văn miêu tả rất chân thực và
hợp lí, phù hợp với bối cảnh và tính cách nhân vật. Từ ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà
trong nhà, nghe con giới thiệu vợ đến thương con, tủi phận, lo lắng rồi hạnh phúc... là những trạng
thái tâm lí của người mẹ nghèo trong một hoàn cảnh éo le. Dường như tác giả đã đặt mình vào
nhân vật ấy để cảm nhận được những rung động sâu sắc nhất trong lòng người mẹ ấy!
=>Phải là người có vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những
người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.
10. Về giá trị nhân đạo mới mẻ trong Vợ chồng A Phủ
- Qua đoạn trích, Tô Hoài mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của chế độ phong
kiến miền núi, lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà đạp lên quyền
sống, quyền hạnh phúc của những người dân lương thiện miền núi Tây Bắc.
- Nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau mà người dân miền núi trong chế độ cũ
phải gánh chịu như đồng cảm với thân phận làm dâu gạt nợ của Mị; với thân phận đây tớ và nỗi
đau của A Phủ khi bị trói vào cây cọc để thế mạng con bò.
- Nhà văn còn phát hiện ra sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng
của con người bị áp bức và không chỉ bênh vực mà còn đưa họ đến chân trời tự do, rộng mở. Từ
đây, Tô Hoài đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu
tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Bạo lực không thể đè bẹp,
hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều là để có thể giành được sự sống,
tự do, hạnh phúc, con người có thể phải trải qua nhiều tủi nhục, đắng cay. Nếu bức chân dung của
những người nông dân trong văn học trước cách mạng đều bị dồn vào bước đường cùng, không lối
thoát thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức
của thời đại để giải phóng số phận nhân vật, hướng con người đến ánh sáng của tự do.
=> Tấm lòng nhà văn dành cho đồng bào miền núi thật sâu nặng, nghĩa tình mà xét đến
cùng đó chính là tấm lòng nhân đạo của người nghệ sĩ dành cho đất và người Tây Bắc.
11. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Bằng việc lựa chọn chi tiết đặc sắc, sử dụng hình ảnh giàu sức biểu tượng, giọng điệu trần
thuật linh hoạt nhà văn đã diễn tả một cách tinh tế, hấp dẫn diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong
đêm tình mùa xuân, nhất là khi bị trói rất tinh tế, sâu sắc. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật
Mị được thể hiện: Miêu tả theo quá trình chuyển hóa tâm lí từ suy nghĩ tuyệt vọng đến tâm lý
hồi sinh sức sống; Miêu tả tâm lý qua hành động; sự phân thân trạng thái tinh thần ở Mị.
Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi bật ý nghĩ, tâm trạng và những
trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật...
Diễn biến tâm lí của Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của nhân vật.
Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, như tiếng sáo gọi bạn
tình, tiếng chó sủa xa xa, tiếng chân ngựa đạp vách...Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút
tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính
cách. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, biểu cảm cùng với tấm lòng nhân
hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm
hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biến trong tâm trạng Mị.
Tâm lí, tính cách nhân vật Mị rất phù hợp với hướng vận động của tâm lí, tính cách nhân
vật trong văn học Việt Nam 1945 – 1975: Thường vận động theo chiều hướng tích cực, gắn với sự
“thức tỉnh”, “trưởng thành”,“hồi sinh”. Nhân vật có khả năng vượt lên hoàn cảnh, thậm chí thay đổi hoàn cảnh sống.
12. Nhận xét chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài:
- “Chất thơ” trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hoà
quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể
khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát
lên từ đời sống hiện thực. Nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng lại trong một thể thống
nhất.Nếu hiện thực là môi trường của những cái vốn có, hiện có thì vẻ đẹp lãng mạn là ước mơ, là
lí tưởng để nâng đỡ con ngươi vượt qua đờ sống hiện thực vốn trần trụi.
- Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi
với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước
ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Đoạn trích
cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân
tràn ngập màu sắc và âm thanh, ấn tượng nhất về màu sắc là vẻ đẹp của váy hoa, của âm thanh là tiếng sáo.
- Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị,
một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có
ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Tô Hoài còn để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa,
tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm của con người.
- Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật: Hàng loạt từ ngữ chỉ âm thanh, hình ảnh gợi
hình, gợi cảm rất nên thơ. Các từ ngữ địa phương gợi những hình ảnh gần gũi đặc trưng cho miền
núi Tây Bắc: nương ngô, nương lúa, vỡ nương, lều canh nương, cùng những sinh hoạt độc đáo:
hái bí đỏ chơi quay, thổi sáo. Từ ngữ miêu tả chi tiết đẹp và giàu sức sống: cỏ gianh vàng ửng,
những chiếc váy đem ra phơi trên mỏm đá …
- Chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài còn được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn cái
khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu luyện.
Đoạn miêu tả giàu tính nhạc thơ, trữ tình gợi cảm. Âm điệu câu văn êm ả, ngắn và đậm phong vị
Tây Bắc. Nhip kể chậm, giọng kể trầm lắng chứa đầy cảm thông, xót xa. Giọng trần thuật nhiều
khi đã hòa vào tiếng nói bên trong nhân vật.
13. Cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn Tô Hoài
- Cách nhìn về cuộc sống: là cái nhìn hiện thực khi nhà văn muốn thể hiện một cách chân
thực bức tranh xã hội thực dân, phong kiến miền núi với những mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ
phong kiến thực dân với quần chúng lao động. Đúng như quan niệm của nhà văn “Viết văn là một
quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”.
- Cách nhìn về con người: là cái nhìn nhân đạo. Trong đó:
Xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu thương với mảnh đất và con người miền núi, từ
hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay nhà văn đã hướng đến những người lao động bình dị, chất
phác bằng tình cảm sâu sắc, mộc mạc, chân thành, yêu thương và cảm phục. Ngược lại, đối với
những nhân vật phản diện như A Sử và Thống lí Pá Trá, nhà văn sử dụng những ngôn từ chân thực,
mang tính phê phán mạnh mẽ sự lộng hành và ác độc của gia đình nhà thống lý.
Người đọc cũng có thể cảm nhận được sự trân trọng, tin yêu của nhà văn với vẻ đẹp của
những người dân miền núi. Điển hình, trong mắt Tô Hoài, Mị là người hội tụ của nhiều vẻ đẹp từ
ngoại hình, đến tài năng và cả vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt.
Hơn nữa, với cái nhìn đầy yêu thương, nhà văn đã tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình,
giải thoát cho đồng bào miền núi bằng ánh sáng cách mạng, khẳng định, tin tưởng vào khả năng,
sức mạnh, tương lai tốt đẹp của người dân miền núi.
=> Cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn
học kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.
14. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn. Nguyễn
Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái khác
nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng tri thức của
nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo
những kì công của tạo hóa. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
Những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đem đến những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, độc
đáo, thú vị. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi,
trữ tình... Ông quả là một "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là người "thợ kim hoàn của chữ" (Tố Hữu).
=> Nhân vật Sông Đà dưới ngòi bút sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và
trữ tình. Lúc hung bạo, con sông “mang diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con
người. Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ, là một công trình nghệ thuật
tuyệt vời của tạo hóa, trở một “mĩ nhân” đầy gợi cảm và hấp dẫn. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể
hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
15. Quan niệm nghệ thuật mới về người lao động / Cái nhìn về người lao động của nhà văn Nguyễn Tuân.
Trong tùy bút "NLĐSĐ", nhà văn NT đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ về người lao động.
Ông lái đò là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp mới của người lao động miền Tây Bắc tổ quốc.
- Người lao động mang vẻ đẹp trí dũng tuyệt vời. NT nhìn ông lái đò như một người anh
hùng trên chiến trường sông nước với trận địa thác đá, với sóng thác dữ dội được chỉ huy bởi loài
thủy quái sông Đà. Ông đã chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, hiên ngang, bất khuất với những
chiến thuật ứng biến linh hoạt với dòng thác dữ như một mãnh tướng dạn dày kinh nghiệm trận
mạc. NTuân quan sát thấy, ở người lao động bình dị ấy lại có một trí tuệ siêu .
phàm Ông lão nắm
chắc trong lòng bàn tay quy luật phục kích của sông Đà ở từng quãng sông. Nếu sông Đà là một
thiên anh hùng ca thì ông lái đò đã thuộc nó đến từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than, chấm
xuống dòng. Đó là trí nhớ tuyệt vời ở một ông lão 70 tuổi đời
- NTuân còn khám phá được vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong con người lao đồng bình thường.
Đó là sự điêu luyện của tay nghề chèo thuyền trên sóng thác. Ông lái đã căn chỉnh đường đi của
con thuyền một cách chuẩn xác nhất. Tay cầm cuống lái, khi thì ông giữ chặt, khi ghì cương lái,
lúc lại mềm mại lái miết một đường chéo, lúc ông phóng thẳng cho thuyền bay lên. N Tuân đã
dành tất cả lòng tin yêu, trân trọng trước một "Tay lái ra hoa" như thế.
=> Qua hình tượng, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng- nghệ sĩ
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Đồng
thời, tác giả muốn thể hiện tình yêu, sự trân trọng đối với những con người lao động bình thường
mà phi thường. Ông đã tìm ra được “Thứ vàng mười đã qua thử lửa trong của tâm hồn Tây Bắc”
trong hành trình suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật của mình.
16. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện ở sự độc đáo, tài hoa, uyên bác.
- Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một dũng
tướng tài năng nhưng có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.Tô đậm những nét phi thường, tuyệt
vời của con người: ông lái đò tài hoa.
- Biện pháp tu từ linh hoạt: Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo
gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng.
- Ngôn ngữ giàu tính sáng tạo, uyên bác: Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ
thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh
ngầm , nhân hóa , cường điệu … Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh hòanh tráng .
- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng tác
đẽ tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò được ghi lại
bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.
17. Nhận xét cái nhìn độc đáo của tác giả đối với sông Đà
- Sông Đà được miêu tả như một sinh thể có linh hồn, có tâm trạng. Ở thượng nguồn, SĐ
như một công trình mĩ thuật hùng vĩ của tạo hóa, lại như một con quái vật khổng lồ quanh năm
suốt tháng làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc. Bằng vốn ngôn từ giàu có, khả năng liên
tưởng, tượng tượng phong phú, nhà văn đã dựng con sông sống dậy để nó biết gào thét, biết dọa
dẫm, biết bày thạch trận tấn công người lái đò, trở thành "một thứ kẻ thù số 1" của người dân TB.
Nhưng khi về tới hạ lưu, dòng sông được nhà văn miêu tả như một người con gái đẹp, dịu dàng,
duyên dáng gây biết bao thương nhớ.
- Dòng sông có khi được miêu tả như một cố nhân trong cảm nhận của nhà văn. Người cố
nhân ấy lắm chứng lắm bệnh nhưng cũng có khi rất đáng yêu, đáng nhớ, "rất thơ đời Đường". Đó
là dòng sông của quê hương đất nước, gắn bó với cuộc sống của con người lao động TB, là chiến
trường, cũng là công trường lao động của những con người đang ngày đêm góp phần vào công
cuộc xay dựng đất nước.
18. Cái tôi / phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Phong cách nghệ thuật là khái niệm chỉ nét riêng, độc đáo trong cách nhìn, cách tiếp cận,
khám phá con người và đời sống của người nghệ sĩ gắn với hình thức thể hiện độc đáo. M. Gorki
từng khẳng định: “ Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm
thấy trong những ấn tượng ấy có cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng”.
- Cai tôi chính là phong cách. Với HPNT, cái tôi là sự hòa quyện chất trí tuệ và chất thơ.
Chất trí tuệ chính là vốn hiểu biết phong phú cùng những kiến thức liên ngành đã giúp nhà văn
khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trên nhiều phương diện: địa lí, lịch sử, văn hóa, văn
chương một cách nghiêm túc, cẩn trọng. Chất
thơ thể hiện ở trí tưởng tượng phong phú; nhà văn
tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp
tình nhân lý tưởng với tìm kiếm, hào hoa và đam mê; sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc,
khi là một con người giàu nữ tính và bản lĩnh , khi là một người con gái rất mực đa tình và chung
tình. Chất thơ còn toát lên từ vẻ đẹp của ngôn ngữ - cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa cùng các
thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa mà nhà văn đã sử dụng rất thành công
+ Tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho dòng sông Hương: nếu không sống, hiểu và
hoài niệm về sông Hương thì tác giả không thể có cái nhìn đầy suy tư và chiêm nghiệm như thế.
Để thấu thị được vẻ đẹp đó, nhà văn phải là người am hiểu lịch sử của dòng sông.
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải đang viết về sông Hương như một cảnh đẹp tự nhiên của
xứ Huế mà là đang viết về sông Hương như một người con của mảnh đất quê hương, một phần cơ
thể của xứ Huế thơ mộng, lãng mạn và trữ tình.
+ Lối hành văn hướng nội, mê đắm và tài hoa: thủ pháp so sánh, liên tưởng tự do, phóng
khoáng rất đặc trưng của kí đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng tối đa đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
=> Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo; chính vì vậy nó đòi hỏi nhà văn phải có phong
cách . Và giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Khác với phong cách Nguyễn Tuân đầy chất văn xuôi
xương xẩu, gồ ghề với cái nhìn hóm hỉnh, bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường nghiêng hẳn về chất
thơ thi vị, ngọt ngào”. Đó là giọng điệu riêng của một cái tôi uyên bác, trữ tình, mê đắm, tài hoa
yêu xứ Huế, yêu đất nước mình vô cùng.
19. Nhận xét cái nhìn độc đáo của tác giả đối với sông Hương và xứ Huế?
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả sông Hương trong mối quan hệ với cội nguồn Trường Sơn.
Nếu các nhà văn, nhà thơ chỉ miêu tả khuôn mặt kinh thành cổ kính, dịu dàng của sông Hương, thì
HPNT đã tìm về với cội nguồn để thấy tâm hồn sâu thẳm của dòng sông. Đó là vẻ đẹp vừa mãnh
liệt vừa bí ẩn, đắm say, quyến rũ của "người con gái Di gan phóng khoáng và man dại", vừa
đầy trí tuệ của "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở".
- Sông Hương hiện lên như một sinh thể với cá tính đa dạng: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng , say
đắm. Với cái nhìn đầy say mê, với tình yêu và khả năng liên tưởng, tưởng tượng tuyệt vời, HPNT
đã miêu trả thủy trình của sông Hương giống như một cuộc hành trình của người con gái tìm về
với người tình nhân đích thực của mình. Qua đó, thấy được vẻ đẹp con người Huế vừa bản lĩnh,
kiên cường vừa duyên dáng và đằm thắm, thủy chung.
- Sông Hương còn được nhà văn cảm nhận dưới góc nhìn lịch sử và chiều sâu văn hóa. Ở mỗi
một góc nhìn, dòng sông lại mang một vẻ đẹp khác nhau: khi là người anh hùng trận mạc "hiến đời
mình làm một chiến công", khi là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya", khi lại trở về làm
"người con gái dịu dàng của đất nước". Dòng sông gắn liền với lịch sử của dân tộc, của xứ Huế, là
cái nôi sinh thành nền văn hóa Huế, là thế giới tâm hồn con người Huế.
20. Nhận xét nghệ thuật miêu tả của tác giả:
- Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả, sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghê † thuâ †t: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ ...
- Hình ảnh đa dạng, phong phú, giàu giá trị gợi hình, biểu cảm
- Ngôn ngữ trong thiên tùy bút trong sáng, tinh tế, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đậm chất trữ tình.
Ngôn ngữ văn xuôi đẹp mà truyền cảm.
- Giọng điệu biến hóa linh hoạt, uyển chuyển, giàu nhịp điệp
21. Bình luận về chất thơ / Chất trữ tình/ Ngòi bút trữ tình trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
tính trữ tình. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ
của ngôn ngữ. Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp,
trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ. Nhưng khó có thể tách các
yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn
tạo nên những trang thơ văn xuôi
- Tình yêu say đắm với sông Hương và Huế là cội rễ của chất thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường là
"một cuốn từ điển sống về Huế” (Hoàng Cát); là một "Thi sĩ của thiên nhiên" (Trần Đình Sử)
- Với liên tưởng kỳ thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một cô gái Di Gan phóng khoáng
và man dại, như người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức, như chứng nhân lịch
sử, như người tài nữ chơi đàn lúc đêm khuya…
- Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp với những từ ngữ gợi
cảm, những câu văn đẹp, đầy màu sắc và ấn tượng. "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những
thành quách”. "Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con
thoi…. Sáng tạo những hình ảnh tuyệt mĩ: "chiếc cầu trắng in trên nền trời", "uốn một cánh cung rất nhẹ”.
- Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so
sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu", khúc quanh trước khi ra biển ví "như một nỗi vấn vương" cả "một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”
-Văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương
mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đa Nuýp xanh” trong văn.
- Vẻ đẹp của đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối thì thăng hoa cao nhất, đẹp
nhất. Tác giả lý giải tên dòng sông băng huyền thoại đầy chất thơ khiến cho dòng sông vốn có cái
tên thơm càng thơm hơn: sông Hương - thơm của ngàn hoa, của nước nấu trăm loại hoa đổ xuống,
làm thơm cả từng hơi đất.
- "Kí của HPNT có rất nhiều ánh lửa" (Nguyễn Tuân). Bên cạnh chất thơ, các trang kí còn đậm đà
chất trí tuệ, uyên bác. HPNT xứng đáng là "một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay" (Nguyên Ngọc)