- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với
côngbằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa hội; thực hiện ến bộ và công bằng
xã hội ngay từ trong chính sách; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển.
- Ngày nay, các nước bản chủ nghĩa người ta cũng đặt vấn đề giải quyết công bằng hội.
Song,thực chất chỉ được đặt ra khi tác động êu cực đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản hay
nói cách khác giải quyết công bằng xã hội c nước tư bản chủ nghĩa chỉ là phương ện để duy trì lợi
ích thống trị.
- Trong nền kinh tế thtrường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng hội không chỉ
làphương ện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là mục êu phải hiện thực hóa.
- Thực hiện ến bộ và công bằng xã hội không phải cào bằng hay kiểu bình quân, cũng ko dồn
mọinguồn lực cho phát triển xã hội vượt quá khả năng của nền kinh tế.
- Ko chỉ dựa vào chính sách điều ết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải to
ranhững điều kiện, ền đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc
ếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
1. Thành tựu
Thực hiện quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với ến bộ cân bằng xã hội, bảo vệ môi trường trong
suốt 35 năm qua, nền kinh tế Việt Nam luôn đạt được tăng trưởng dương, với mức tăng trưởng trung
bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 1990 chỉ là 6,4 tỷ USD, nhưng
đến năm 2020 đã mức 342,7 tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ trong ASEAN. GDP bình quân
đầu người tăng từ 118 USD năm 1990, lên mức 3.512 USD năm 2020; GNI bình quân đầu người tăng từ
1.179 USD năm 1990, lên 7.433 USD năm 2019. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp
từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm
được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng
đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đt trên 540 tỉ USD, trong
đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự tr ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020…
* Tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập
Đối với Việt Nam cũng như nhiều nước chậm đang phát triển khác, việc tạo ra nhiều việc làm thể
hiện qua tỷ lệ tht nghiệp và thiếu việc làm ở các vùng và trong cả ớc có xu hướng giảm xuống và ci
thiện thu nhập một cách bền vững đặc biệt nhóm nghèo và thu nhập thấp được coi là biện pháp
tốt nhất đ vừa đạt được tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế cũng góp phần tăng thu nhập đáng kcho người dân trong cả ớc. Theo kết quả
khảo sát mức sống hgia đình do Tổng cc Thống kê ến hành hai năm mt lần, thu nhập bình quân 1
người/ tháng theo giá hiện hành đã tăng từ 2000 nghìn đồng năm 2012 lên 4673 nghìn đồng năm 2022,
gấp 2,33 lần so với năm 2012. Chi êu bình quân 1 người/ tháng vào các năm tương ứng cũng tăng từ
1603 nghìn đồng lên 2794,9 nghìn đồng.
* Tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo được xem là một trong những mục êu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong
quá trình y dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả từ các cuộc
điều tra mức sống h gia đình cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên phương diện kết
hợp tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, là một trong những nước điển hình thực hiện tt các
mục êu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Tlệ hộ nghèo đã giảm từ 14,2% năm 2010 xuống còn
khoảng 5,8% năm 2016. Tùy theo các chuẩn nghèo khác nhau sẽnhững tỷ lệ khác nhau về nghèo
đói, nhưng trong trường hợp nào, nh trạng nghèo của Việt Nam cũng vẫn duy trì được chiều hưng
giảm xuống. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận trong việc gắn tăng trưởng kinh tế với công cuộc xóa
đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.Nhìn vào Bảng 2 có thể dễ dàng nhận thấy, trong
giai đoạn 2010-2016, Việt Nam đạt thành tựu giảm nghèo trên toàn bộ các vùng miền, tuy là ở các mức
độ khác nhau. Mặc tỷ lệ nghèo Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên còn cao hơn hẳn so
với các vùng khác nhưng lại là những vùng có tỷ lệ giảm nghèo cao nhất tương ứng là 9,3 điểm % và 6,3
điểm % (năm 2016 so với năm 2014). Điều này cho thấy, lợi ích tăng trưởng kinh tế được phân phối rộng
khắp các vùng, các bộ phận dân cư, không có vùng nào Việt Nam bị bỏ rơi trong quá trình phát triển.
* Tăng trưởng kinh tế gắn với sự nghiệp giáo dục, y tế
Trong những năm vừa qua, nhờ tăng trưởng kinh tế tạo ền đề vật chất, lĩnh vực giáo dục, đào tạo đã
được đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2002-2017, tổng số trường học từ ểu học đến trung học ph
thông đã tăng từ 25.825 trường lên 28.710 trường. Tỷ lệ lao đng từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 93,6
năm 2006 và đến năm 2017 đạt 95,1%. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ tăng từ 93,6% năm 2006
lên 94,8% năm 2018.
Về y tế, ngay từ năm 1989, Luật bảo vệ và chăm c sức khỏe nhân dân đã được ban hành. Kể từ đó đến
nay, rất nhiều chính sách y tế được triển khai nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã
hội.
2. Hạn chế
Nền kinh tế chỉ số tăng trưởng cao nhưng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn→thất nghiệp
gia tăng, bất bình đẳng thu nhập, hội tăng cùng với tăng trưởng kinh tế xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội,
đình công bãi công triền miên hình chung tác động êu cực trở lại đến nền kinh tế, kìm hãm tăng
trưởng kinh tế.
TTKT còn kéo theo hệ lụy gây ô nhiễm môi trường xã hội, hủy hoại môi trường tự nhiên.
* Bất bình đẳng xã hội có xu hướng tăng cùng với tăng trưởng kinh tế
Những thành quả của tăng trưởng kinh tế chưa được phân phối công bằng cho mọi đối tượng trong xã
hội, nhất là người nghèo, vùng nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương. Theo kết quả nh toán của
Tổng cục Thống kê với số liệu được cập nhật đến năm 2018, hệ số GINI có xu hướng tăng lên năm 2002
là 0,42 năm 2018 là 0,424
Nếu như hệ số GINI thể hiện bất công bằng theo chiều rộng có xu hướng tăng lên, thì mức độ bất công
bằng theo chiều sâu thể hin hệ số giãn cách thu nhập của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo
nhất cũng theo chiều hướng tăng khá mạnh. Theo số liệu điều tra thu nhập của Tổng cục Thống kê các
năm, hệ số giãn cách thu nhập năm 2002 là 8,1. Năm 2010 con sốy là 9,2 và năm 2018 đã lên tới 10
lần. Còn theo êu chuẩn “40” ca Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thu nhập của 40% dân số nghèo nhất trong
tổng thu nhập năm 2002 là 16,06% (tương ứng với mức bất công bằng thấp theo chuẩn quốc tế xuống
14,96% năm 2010 và chỉ n 14,64% năm 2018. Điều này cho thấy, ở Vit Nam, người nghèo đang được
ởng rất ít thành quả của tăng trưởng kinh tế.
* Bất bình đẳng cơ hi giữa các nhóm dân cư
Tình trạng nghèo đói thường tập trung chủ yếu các vùng sâu, vùng xa, nông thôn lĩnh vực nông
nghiệp. Trình độ học vấn thấp làm giảm khả năng ếp cận với việc làm tốt. Báo cáo phát triển thế gii
năm 2016 của World Bank cho thấy, những người trình độ đại học nhiều hơn 50% hội kiếm
được công việc trlương so với người có trình độ trung học có cùng độ tuổi, giới nh, dân tộc và sinh
sống trong cùng một khu vực. Cũng theo báo cáo này, do trình đhọc vấn thấp, ngay cả những người
công việc trả lương cũng kiếm được ít ền hơn rất nhiều.
* Bất bình đẳng về giáo dục và y tế giữa các tầng lớp dân cư
Mặc đã thu hẹp về khoảng cách, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng về giáo dục nói
chung giữa các vùng các nhóm giàu, nghèo. Báo cáo phát triển con người Việt Nam cho thấy, năm
2012, trong khi nhóm thu nhập cao nhất tỷ lệ học sinh nhập học bậc trung học sở đạt tỷ lệ gần
100%, thì nhóm thu nhập thấp nhất chỉ đạt xấp xỉ 80%. Sự chênh lệch này cũng xảy ra bậc trung hc
phthông, nhóm nghèo và cận nghèo có tỷ lệ nhập học ở bậc này chỉ đạt khoảng 40%-50%, nhóm thu
nhập cao đạt khoảng 90%.Trong số trem từ 11-14 tuổi, sợng trem thuộc các hộ gia đình người
dân tộc thiểu số thể không đến trường nhiều gấp đôi những trẻ em thuộc nhóm khác (UNICEF &
Women, 2013). Các trẻ em trong những gia đình di cư từ nông thôn lên thành phố cũng gặp nhiều trở
ngại về hệ thống đăng hộ khẩu, ít cơ hội được học hành.Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tu quan trọng khi thực hiện các mục êu phát triển thiên niên kỷ,
nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa các vùng và các nhóm thu nhập thông qua một vài chỉ số như:
tỷ lệ tử vong tr sơ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tuổi thọ kỳ vọng...Sự chênh lệch giữa các vùng
về tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng trẻ em còn khá lớn, đặc biệt là khi so sánh giữa các vùng khó khăn
với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn.
Bất bình đẳng trong hệ thống an sinh xã hội
Cả hai chương trình lớn nhất trong hệ thng an sinh xã hội Việt Nam là bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã
hội đều chủ yếu hướng vào người lao đng khu vực chính thức. Theo số liệu thống năm 2016, trong
số lao động xã hội, chỉ 34,5% người lao động tham bảo hiểm xã hội bắt buộc, 64,2% không có
bảo hiểm xã hội. Nếu nh riêng trong tổng số lao động chính thức thì có hơn 80% người lao động tham
gia bảo hiểm hội bắt buộc. Gần như hầu hết lao động phi chính thức không bảo hiểm hội (97,9%),
chkhoảng 1,2% lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm hội bắt buộc và 0,9% tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện. 2 điều này chứng tỏ mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội chưa cao.
.
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội VN
* Nguyên nhân khách quan
- Cơ cấu chi ngân sách theo phân cấp quản lý còn bất cập
- Thiếu kinh phí đào tạo chất lượng cao
- Tình trạng hộ nghèo đã vượt khi chuẩn nghèo nhưng nhiều hvẫn ko muốn ra khỏi nh trạng đó bởivì
muốn hưởng các quyền lợi của hộ nghèo.
- Nhiều tỉnh nơi thu hút lao động nhập tương đối lớn Tốc độ gia tăng dân số học đã y
ranhiều áp lực lớn trong việc thực hiện mục êu giảm nghèo.
- Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, các doanh nghiệp mục êu tối đa hóa lợi nhuận nhất
làdoanh nghiệp vốn đu nước ngoài, doanh nghiệp nhân đã xem nhẹ công tác bảo vệ môi
trường → ô nhiễm môi trường, các vấn đề xã hội
- Nguồn lực lao động chưa đáp ứng được nhu cầu cho sự phát triển đất nước.
* Nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống đô thị phát triển chưa tương xứng giữa số ợng, quy mô với chất lượng
- Giải pháp giảm nghèo còn đơn điệu
- Mạng lưới an sinh hội chưa bao phủ, sự phân phối lại thành quả của tăng trưởng kinh tế dành
choviệc chăm sóc sức khỏe chưa tương xứng.
- Một số địa phương chỉ tập trung đầu tư cơ sở vật chất, ca chú trọng chất lượng đội ngũ giảng dạy.
- Các biện pháp chế tài của Chính phủ chưa đủ sức răn đe nên nh trạng vi phạm môi trường chưa
đượcngăn chặn triệt để.
4. Để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong nền kinh tế th
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một nước Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng
và dân chủ vào năm 2035, cần thực hiện đồng b các giải pháp sau:
- Thnhất, ếp tục gắn những thành quả tăng trưởng kinh tế với công cuộc a đói giảm nghèo
hạnchế sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền.
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động
+ Giúp những người lao động thuộc diện đói nghèo ko có khả năng tự lập sản xuất m được việc hay tự
tạo ra việc làm
+ Thu hút đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp, các trung tâm du lịch.
+ Đy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp theo hướng sx hàng hóa.
- Thhai, gắn tăng trưởng kinh tế với tạo việc làm, nâng cao thu nhập: chính sách phát triển nôngnghiệp
toàn diện
- Thba, thực hiện công bằng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; giảm s cách biệt về hội học tập
giữacác tầng lớp dân cư, về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng
min.
- Thtư, xây dựng hoàn thiện chính sách y tế theo yêu cầu phát triển hệ thng y tế công bằng vàhiệu
quả, mọi người dân đều được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Cần có các chế tài xửnghiêm nh trạng
tham nhũng tại tất c các cấp.
- Thnăm, đảm bảo công bằng trong hệ thống an sinh xã hội; y dựng hoàn thiện các chính sách
bảohiểm theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm lĩnh vực bảo hiểm.
- Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội.
- Thbảy, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, hội, các tầng lớp nhân dân cùng Nhà
ớcthực hiện công bằng xã hội.
KẾT LUẬN: Với những đặc trưng trên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN là sự kết hp
những mặt ch cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để ớng
tới một nền kinh tế thị trường hiện đại văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thtrường định hướng xã hội chủ
nghĩa VN đang trong quá trình hình thành phát triển sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc
phục và hoàn thiện.

Preview text:

-
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với
côngbằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay từ trong chính sách; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển. -
Ngày nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cũng đặt vấn đề giải quyết công bằng xã hội.
Song,thực chất nó chỉ được đặt ra khi tác động tiêu cực đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản hay
nói cách khác giải quyết công bằng xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa chỉ là phương tiện để duy trì lợi ích thống trị. -
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã hội không chỉ
làphương tiện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là mục tiêu phải hiện thực hóa. -
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là cào bằng hay kiểu bình quân, cũng ko dồn
mọinguồn lực cho phát triển xã hội vượt quá khả năng của nền kinh tế. -
Ko chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo
ranhững điều kiện, tiền đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản 1. Thành tựu
Thực hiện quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cân bằng xã hội, bảo vệ môi trường trong
suốt 35 năm qua, nền kinh tế Việt Nam luôn đạt được tăng trưởng dương, với mức tăng trưởng trung
bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 1990 chỉ là 6,4 tỷ USD, nhưng
đến năm 2020 đã ở mức 342,7 tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. GDP bình quân
đầu người tăng từ 118 USD năm 1990, lên mức 3.512 USD năm 2020; GNI bình quân đầu người tăng từ
1.179 USD năm 1990, lên 7.433 USD năm 2019. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp
từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm
được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng
đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong
đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020…
* Tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập
Đối với Việt Nam cũng như nhiều nước chậm và đang phát triển khác, việc tạo ra nhiều việc làm thể
hiện qua tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở các vùng và trong cả nước có xu hướng giảm xuống và cải
thiện thu nhập một cách bền vững đặc biệt là nhóm nghèo và thu nhập thấp được coi là biện pháp
tốt nhất để vừa đạt được tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế cũng góp phần tăng thu nhập đáng kể cho người dân trong cả nước. Theo kết quả
khảo sát mức sống hộ gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành hai năm một lần, thu nhập bình quân 1
người/ tháng theo giá hiện hành đã tăng từ 2000 nghìn đồng năm 2012 lên 4673 nghìn đồng năm 2022,
gấp 2,33 lần so với năm 2012. Chi tiêu bình quân 1 người/ tháng vào các năm tương ứng cũng tăng từ
1603 nghìn đồng lên 2794,9 nghìn đồng.
* Tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo được xem là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong
quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả từ các cuộc
điều tra mức sống hộ gia đình cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên phương diện kết
hợp tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, là một trong những nước điển hình thực hiện tốt các
mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 14,2% năm 2010 xuống còn
khoảng 5,8% năm 2016. Tùy theo các chuẩn nghèo khác nhau sẽ có những tỷ lệ khác nhau về nghèo
đói, nhưng trong trường hợp nào, tình trạng nghèo của Việt Nam cũng vẫn duy trì được chiều hướng
giảm xuống. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận trong việc gắn tăng trưởng kinh tế với công cuộc xóa
đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.Nhìn vào Bảng 2 có thể dễ dàng nhận thấy, trong
giai đoạn 2010-2016, Việt Nam đạt thành tựu giảm nghèo trên toàn bộ các vùng miền, tuy là ở các mức
độ khác nhau. Mặc dù tỷ lệ nghèo ở Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên còn cao hơn hẳn so
với các vùng khác nhưng lại là những vùng có tỷ lệ giảm nghèo cao nhất tương ứng là 9,3 điểm % và 6,3
điểm % (năm 2016 so với năm 2014). Điều này cho thấy, lợi ích tăng trưởng kinh tế được phân phối rộng
khắp các vùng, các bộ phận dân cư, không có vùng nào ở Việt Nam bị bỏ rơi trong quá trình phát triển.
* Tăng trưởng kinh tế gắn với sự nghiệp giáo dục, y tế
Trong những năm vừa qua, nhờ tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất, lĩnh vực giáo dục, đào tạo đã
được đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2002-2017, tổng số trường học từ tiểu học đến trung học phổ
thông đã tăng từ 25.825 trường lên 28.710 trường. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 93,6
năm 2006 và đến năm 2017 đạt 95,1%. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ tăng từ 93,6% năm 2006 lên 94,8% năm 2018.
Về y tế, ngay từ năm 1989, Luật bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được ban hành. Kể từ đó đến
nay, rất nhiều chính sách y tế được triển khai nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. 2. Hạn chế
Nền kinh tế dù có chỉ số tăng trưởng cao nhưng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn→thất nghiệp
gia tăng, bất bình đẳng thu nhập, xã hội tăng cùng với tăng trưởng kinh tế xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội,
đình công bãi công triền miên vô hình chung tác động tiêu cực trở lại đến nền kinh tế, kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
TTKT còn kéo theo hệ lụy gây ô nhiễm môi trường xã hội, hủy hoại môi trường tự nhiên.
* Bất bình đẳng xã hội có xu hướng tăng cùng với tăng trưởng kinh tế
Những thành quả của tăng trưởng kinh tế chưa được phân phối công bằng cho mọi đối tượng trong xã
hội, nhất là người nghèo, vùng nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương. Theo kết quả tính toán của
Tổng cục Thống kê với số liệu được cập nhật đến năm 2018, hệ số GINI có xu hướng tăng lên năm 2002 là 0,42 năm 2018 là 0,424
Nếu như hệ số GINI thể hiện bất công bằng theo chiều rộng có xu hướng tăng lên, thì mức độ bất công
bằng theo chiều sâu thể hiện ở hệ số giãn cách thu nhập của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo
nhất cũng theo chiều hướng tăng khá mạnh. Theo số liệu điều tra thu nhập của Tổng cục Thống kê các
năm, hệ số giãn cách thu nhập năm 2002 là 8,1. Năm 2010 con số này là 9,2 và năm 2018 đã lên tới 10
lần. Còn theo tiêu chuẩn “40” của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thu nhập của 40% dân số nghèo nhất trong
tổng thu nhập năm 2002 là 16,06% (tương ứng với mức bất công bằng thấp theo chuẩn quốc tế xuống
14,96% năm 2010 và chỉ còn 14,64% năm 2018. Điều này cho thấy, ở Việt Nam, người nghèo đang được
hưởng rất ít thành quả của tăng trưởng kinh tế.
* Bất bình đẳng cơ hội giữa các nhóm dân cư
Tình trạng nghèo đói thường tập trung chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, nông thôn và lĩnh vực nông
nghiệp. Trình độ học vấn thấp làm giảm khả năng tiếp cận với việc làm tốt. Báo cáo phát triển thế giới
năm 2016 của World Bank cho thấy, những người có trình độ đại học có nhiều hơn 50% cơ hội kiếm
được công việc trả lương so với người có trình độ trung học có cùng độ tuổi, giới tính, dân tộc và sinh
sống trong cùng một khu vực. Cũng theo báo cáo này, do trình độ học vấn thấp, ngay cả những người có
công việc trả lương cũng kiếm được ít tiền hơn rất nhiều.
* Bất bình đẳng về giáo dục và y tế giữa các tầng lớp dân cư
Mặc dù đã thu hẹp về khoảng cách, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng về giáo dục nói
chung giữa các vùng và các nhóm giàu, nghèo. Báo cáo phát triển con người Việt Nam cho thấy, năm
2012, trong khi nhóm thu nhập cao nhất có tỷ lệ học sinh nhập học bậc trung học cơ sở đạt tỷ lệ gần
100%, thì nhóm thu nhập thấp nhất chỉ đạt xấp xỉ 80%. Sự chênh lệch này cũng xảy ra ở bậc trung học
phổ thông, nhóm nghèo và cận nghèo có tỷ lệ nhập học ở bậc này chỉ đạt khoảng 40%-50%, nhóm thu
nhập cao đạt khoảng 90%.Trong số trẻ em từ 11-14 tuổi, số lượng trẻ em thuộc các hộ gia đình người
dân tộc thiểu số có thể không đến trường nhiều gấp đôi những trẻ em thuộc nhóm khác (UNICEF &
Women, 2013). Các trẻ em trong những gia đình di cư từ nông thôn lên thành phố cũng gặp nhiều trở
ngại về hệ thống đăng ký hộ khẩu, ít có cơ hội được học hành.Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng khi thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,
nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa các vùng và các nhóm thu nhập thông qua một vài chỉ số như:
tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, tuổi thọ kỳ vọng...Sự chênh lệch giữa các vùng
về tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ em còn khá lớn, đặc biệt là khi so sánh giữa các vùng khó khăn
với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn.
Bất bình đẳng trong hệ thống an sinh xã hội
Cả hai chương trình lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam là bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã
hội đều chủ yếu hướng vào người lao động ở khu vực chính thức. Theo số liệu thống kê năm 2016, trong
số lao động xã hội, chỉ có 34,5% người lao động tham bảo hiểm xã hội bắt buộc, 64,2% không có
bảo hiểm xã hội. Nếu tính riêng trong tổng số lao động chính thức thì có hơn 80% người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Gần như hầu hết lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội (97,9%),
chỉ có khoảng 1,2% lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và 0,9% tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện. 2 điều này chứng tỏ mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội chưa cao. .
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở VN * Nguyên nhân khách quan
- Cơ cấu chi ngân sách theo phân cấp quản lý còn bất cập
- Thiếu kinh phí đào tạo chất lượng cao
- Tình trạng hộ nghèo đã vượt khỏi chuẩn nghèo nhưng nhiều hộ vẫn ko muốn ra khỏi tình trạng đó bởivì
muốn hưởng các quyền lợi của hộ nghèo.
- Nhiều tỉnh là nơi thu hút lao động nhập cư tương đối lớn → Tốc độ gia tăng dân số cơ học đã gây
ranhiều áp lực lớn trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo.
- Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, các doanh nghiệp vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nhất
làdoanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đã xem nhẹ công tác bảo vệ môi
trường → ô nhiễm môi trường, các vấn đề xã hội
- Nguồn lực lao động chưa đáp ứng được nhu cầu cho sự phát triển đất nước. * Nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống đô thị phát triển chưa tương xứng giữa số lượng, quy mô với chất lượng
- Giải pháp giảm nghèo còn đơn điệu
- Mạng lưới an sinh xã hội chưa bao phủ, sự phân phối lại thành quả của tăng trưởng kinh tế dành
choviệc chăm sóc sức khỏe chưa tương xứng.
- Một số địa phương chỉ tập trung đầu tư cơ sở vật chất, chưa chú trọng chất lượng đội ngũ giảng dạy.
- Các biện pháp chế tài của Chính phủ chưa đủ sức răn đe nên tình trạng vi phạm môi trường chưa
đượcngăn chặn triệt để.
4. Để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một nước Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng
và dân chủ vào năm 2035, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Thứ nhất, tiếp tục gắn những thành quả tăng trưởng kinh tế với công cuộc xóa đói giảm nghèo và
hạnchế sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền.
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động
+ Giúp những người lao động thuộc diện đói nghèo ko có khả năng tự lập sản xuất tìm được việc hay tự tạo ra việc làm
+ Thu hút đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp, các trung tâm du lịch.
+ Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp theo hướng sx hàng hóa.
- Thứ hai, gắn tăng trưởng kinh tế với tạo việc làm, nâng cao thu nhập: chính sách phát triển nôngnghiệp toàn diện
- Thứ ba, thực hiện công bằng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; giảm sự cách biệt về cơ hội học tập
giữacác tầng lớp dân cư, về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng miền.
- Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện chính sách y tế theo yêu cầu phát triển hệ thống y tế công bằng vàhiệu
quả, mọi người dân đều được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Cần có các chế tài xử lý nghiêm tình trạng
tham nhũng tại tất cả các cấp.
- Thứ năm, đảm bảo công bằng trong hệ thống an sinh xã hội; xây dựng và hoàn thiện các chính sách
bảohiểm theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm và lĩnh vực bảo hiểm.
- Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội.
- Thứ bảy, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp nhân dân cùng Nhà
nướcthực hiện công bằng xã hội.
KẾT LUẬN: Với những đặc trưng trên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN là sự kết hợp
những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng
tới một nền kinh tế thị trường hiện đại văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở VN đang trong quá trình hình thành và phát triển sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.