lOMoARcPSD| 60826700
Thời kì 1: Những yếu tố tác động đến ngày 5/6/1911 HCM ra đi tìm đường cứu
nước?
*Tình hình thế giới
- Phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa: Cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ
20,chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và
tiến hành xâm lược các nước nhỏ, yếu để làm thị trường tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp tư bản, để vơ vét tài nguyên, bóc lột lao động nô dịch dân tộc. Tuy nhỏ bé,
lạc hậu, nhưng các nước này không cam chịu làm nô lệ cho thực dân, đế quốc mà
quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập, từ đó phong trào giải phóng
dân tộc phát triển. Sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của
người thanh niên VN yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong việc so sánh đối chiếu
với dân tộc VN, dân tộc ta quyết ko làm lệ cho Pháp, phải đấu tranh giành
lại nền độc lập dân tộc, mang lại tự do ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
- Lenin tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mac Lenin ,với đường lối đúng đắn đảng
Bonsevich lãnh đạo nhân dân đấu tranh làm nên Cách mạng Tháng 10 Nga
(1917).Chính sự kiện này hàng loạt các phong trào sản với sự ra đời của các
Đảng Cộng Sản trên thế giới như: Balan, Tiệp Khắc, Liên Xô,...Các ĐCS khả
năng lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết giai cấp công nhân và dân tộc làm cách mạng
hội chủ nghĩa.
- Phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước thuộc khu vực Châu Á nổ ra như:
Indonesia, Trung Quốc nhưng đều thất bại nguyên nhân chính do thiếu tổ
chức, thiếu đoàn kết, đoàn kết rời rạc, vậy cho nên HCM ko sang Trung Quốc
hay Nhật để tìm đường cứu nước mà Người quyết định sang Pháp.
*Tình hình trong nước
- Từ những năm đầu 1858 về trước, VN 1 nước phong kiến độc lập chủ quyền.
Cho đến ngày 1/9/1858, Pháp nổ phát súng đầu tiên tại cửa biển Đà Nẵng chính
thức xâm lược VN. sau hiệp định Patonot (1884), VN trở thành nước thuộc
địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp cấu kết với triều đình phong kiến áp bức bóc
lột các tầng lớp nhân dân lao động, hội VN xuất hiện nhiều mâu thuẫn, đen
tối, ngột ngạt và lúc đó xuất hiện là làm sao có thể giành lại độc lập và giành lại
độc lập bằng con đường nào?
- Dưới sự áp bức bóc lột, nhân dân ta không chịu làm lệ đã liên tiếp đấu tranh
giành lại độc lập dân tộc theo khuynh hướng của nông dân, trí thức, tư sản. Tại
thời điểm này, các phong trào đấu tranh lần lượt nổ ra như Phong trào Cần
lOMoARcPSD| 60826700
Vương( 1885-1896), khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913),.... nhưng đều thất bại do chưa
có đường lối cứu nước đúng đắn.
- Đầu thế kỉ 20, xuất hiện các phong trào theo khuynh hướng dân chủ sản với
sự dẫn dắt của các phu yêu nước nphong trào Đông du dưới sự lãnh đạo của
Phan Bội Châu, hay phong trào Duy Tân dưới sự dẫn dắt của Phan Châu Trinh
nhưng đều thất bại do thiếu tổ chức, thiếu đường lối, chưa Đảng Cộng Sản
lãnh đạo. Nên sau y HCM không đi theo con đường cứu nước của các phu
yêu nước lúc bấy giờ đó con đường cứu nước không thành cho Người rất
ngưỡng mộ các sĩ phu yêu nước với tinh thần hi sinh, xả thân vì nước.
- Yếu tố tiếp theo là về quê hương và gia đình. Nguyễn Tất Thành sinh ra tại làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi quê hương giàu truyền thống yêu
nước, thương dân, hiếu học. Cha của người cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
một vị quan giáo dục có tinh thần yêu nước, thương dân. Người cha thân sinh ra
Nguyễn Tất Thành đã dạy Người chu đáo về những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc như yêu nước, thương dân, đoàn kết cộng đồng,... Cụ Nguyễn Sinh
Sắc cũng định hướng cho Người muốn thắng giặc Pháp thì phải hiểu giặc Pháp,
muốn hiểu được văn hóa Pháp thì phải học ngôn ngữ Pháp. Trong gia đình thì
anh ruột của Người Nguyễn Sinh Khiêm chị ruột Nguyễn Thị Thanh đã
tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp bị bắt giam, bị đánh đập man.
Nguyễn Tất Thành sinh ra đã phải chịu cảnh nước mất nhà tan, lớn lên phải chứng
kiến cảnh nhân dân lầm than, đói khổ bị bóc lột tột cùng của thực dân Pháp.
Xuất phát từ thương dân rồi trăn trở dân quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Chủ nghĩa yêu nước nhân văn của VN là cội nguồn động lực cho
chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
- Yếu tố tiếp theo đó chính ttuệ squyết tâm của Người. thể nói, Nguyễn
Tất Thành một thanh niên VN yêu nước, thương dân, tưởng, khát
vọng, hoài bão, quyết tâm, hi sinh trọn vẹn đời mình cho dân tộc VN. Người
nói: Lòng thương yêu nhân dân nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi”.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, một mình Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước đã thành công, tạo bước ngoặt chuyển hướng cho cách mạng VN,
thay đổi hướng phát triển cho cả dân tộc. Việc lựa chọn đi theo con đường cách
mạng sản đã chấm dứt skhủng hoảng về đường lối cứu nước đem lại
nhiều thành tựu đại cho cách mạng VN. Cuộc đời- sự nghiệp- tài năng- trí tuệ-
phong cách HCM luôn nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, tấm gương soi,
lời dạy cho các nhà quản hôm nay, trăn trở, suy tư, xác định trách nhiệm, rèn
đức, luyện tài sự phát triển của con người VN. Nhân dân ta luôn tự hào về
lOMoARcPSD| 60826700
HCM bởi vì Bác là ánh sáng, là niềm tin cho muôn dân, là tấm gương soi chung
cho các thế hệ người VN, đb là thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.
Thời kì 2- thời kì 5:
Thời kì 1911-1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc
VN theo con đường cách mạng vô sản
- Nhận thức được sâu sắc về thực tại hội đau xót trước nỗi thống khổ của dân
tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm ý chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng đồng bào, nên quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Người quyết định đi sang nước Pháp, sang phương Tây để tìm hiểu sao họ giàu
mạnh và hiểu những gì ẩn giấu sau những từ Tự do- Bình đẳng- Bác ái mà thực
dân Pháp rêu rao các nước thuộc địa. ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng(
Sài Gòn) với tên gọi Văn Ba, Người xuống làm thuê cho một con tàu của Pháp
để bắt đầu thực hiện quyết tâm và khát vọng cứu nước, cứu dân.
- Từ năm 1911 đến năm 1920 Người đã đi đến nước Pháp, nước Mĩ, nước Anh và
rất nhiều nước Châu Phi, Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ, hòa mình vào
cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm
sống, vừa ra sức học tập, nâng cao vốn hiểu biết tìm mọi cách để hoạt động
cách mạng.
- Năm 1919, Người ra nhập Đảng Xã Hội Pháp vì nhận thấy:” Đây là tổ chức duy
nhất ở Pháp bênh vực nước tôi và tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý
của Đại Cách mạng Pháp: Tự do- Bình đẳng- Bác ái. Tháng 6/1919 , thay mặt
Hội những Người VN yêu nước tại Pháp, Người đã gửi tới Hội nghị Vecxay(
Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8 điểm đề nghị chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ tối thiểu cho nhân dân VN. Mặc
bản yêu sách không được hội nghị chấp nhận nhưng Bản Yêu sách lời tuyên
bố chính trị đầu tiên của nhân dân VN trên diễn đàn quốc tế, đã thể hiện tấm lòng
yêu nước thiết tha, khát vọng của Nguyễn Ái Quốc và nhân dân các nước thuộc
địa trong cuộc đấu tranh tự do dân chủ, quyền tự quyết của các dân tộc, khơi
nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân tiến
bộ toàn thế giới.
- Sau gần 10 năm trên chặng đường đầu tiên của mình với khát vọng giải phóng
dân tộc, Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới thấu hiểu
được bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân. Với điều kiện mới của thế giới sau
thắng lợi của Cuộc CM tháng 10 Nga năm 1917, Người đã đến với chủ nghĩa
Mac Lenin, tìm được con đường giải phóng cho cách mạng Việt Nam- con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách hoàn toàn
lOMoARcPSD| 60826700
triệt để nhất. Vào a năm 1920, Người đọc được Bản thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo. Luận cương của Lênin nhấn mạnh về nhiệm vụ của ĐCS phải giúp đỡ
thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa. Chính tư tưởng đó đã giải
đáp thắc mắc cho Người con đường giành độc lập dân tộc khiến Người rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao” bởi đã đem đến “ con đường giải
phóng dân tộc cho chúng ta”. Kết quả tất yếu đó đã đưa Người đến một quyết
định đúng đắn bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng Sản tham gia thành
lập ĐCS Pháp vào tháng 12 năm 1920. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ
XHCN.
Thời kì 1920- 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách
mạng VN
- Sau khi tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng VN, Nguyễn Ái Quốc
đã ra sức kiến tạo những nhân tđảm bảo thắng lợi cho cách mạng. Những
năm 1921-1930 thời Người ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mac-
Lênin những quan điểm cách mạng của mình về trong nước, bắt đầu
một thời hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập nghiên cứu về ch
nghĩa Mac về chế độ XHCN ngay trên đất nước Liên Xô. Nhận thức
được vai trò và ảnh hưởng to lớn của Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng Sản
Pháp đối với cách mạng giải png dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
tham gia vào đời sống chính trị trong phong trào cộng sản quốc tế: Dự đại
hội lần thứ 1 Quốc tế Nông dân( 1923), được bầu vào Đoàn chủ tịch Quốc
tế Nông dân, dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản( 1924) được cử làm n
bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Năm 1922, Người tham gia
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Đây một hình thức mặt trận của các dân
tộc bị chủ nghĩa thực dân thống trị, liên minh với giai cấp sản chính
quốc để phối hợp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tại Matxcova,
Người học tại Trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản như
Người nói là: “ Đây nơi đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc
Phương Tây và trang bị cho chúng tôi- những người nô lệ, khả năng hoạt
động chặt chẽ” . Người còn viết nhiều bài báo đăng trên các tờ báo cách
mạng Nga, Pháp như: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,
Tạp chí cộng sản, Thư tín Quốc tế,... tố cáo tội ác của thực dân Pháp, tình
cảnh các dân tộc thuộc địa trong đó có nước ta, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa
thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Năm
lOMoARcPSD| 60826700
1925, Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp bài viết của
Người đã được mật chuyển về nước u truyền rộng rãi trong các tầng
lớp nhân dân, thức tỉnh họ đoàn kết trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc.
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên đến Quảng ChâuTrung
Quốc. Năm 1925, tại Trung Quốc, Người sáng lập Hội VN Cách mạng
Thanh Niên ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa MácLênin về
trong nước đồng thời mở ra các lớp huấn luyện cho cán bộ cách mạng VN.
Những bài viết được truyền đó sau được tập hợp được xuất bản thành
cuốn sách Đường Kách Mệnh. Đây là cuốn sách lý luận chính trị đầu tiên
được truyền những tưởng của chnghĩa Mac Lenin vào nước ta phản
ánh những tưởng, quan điểm, đường lối, chiến lược và phương pháp
cách mạng của Người.
- Mùa xuân năm 1930, tại Cửu Long( Hồng Kông, Trung Quốc), Người ch
trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, thống nhất thành
ĐCS Việt Nam. Các văn kiện do Người soạn thảo, được thông qua Hội
nghị thành lập Đảng: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn
tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh ch mạng đầu
tiên của Đảng. Cương lĩnh đã vạch đường lối con đường cách mạng cho
VN. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt nguy chia rẽ trong phong trào ch
mạng giải phóng dân tộc ở VN, chấm dứt thời bế tắc, khủng hoảng về
đường lối cứu nước, mở ra bước ngoặt cùng quan trọng trong lịch sử
cách mạng VN.
Thời 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp
cách mạng VN đúng đắn, sáng tạo
- Sau khi sáng lập ĐCS VN từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia
công c của Quốc tế cộng sản nước ngoài. Do không nắm vững hoàn
cảnh thực tiễn các dân tộc thuộc địa Đông Dương VN, hơn nữa lúc
bấy giờ Quốc tế cộng sản đang đề cao đấu tranh giải phóng giai cấp sản
nên tưởng mới mẻ, đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trong ơng lĩnh
chính trị đã bị Quốc tế Cộng sản phê phán, không chấp nhận. Trong quá
trình đó, Người bị bắt giam trong nhà tù Thực dân Anh ở Hồng
Kông( 1931-1933). Dù vậy nhưng Người vẫn luôn theo sát phong trào
cách mạng trong nước từng ngày từng giờ luôn nuôi dưỡng khát vọng:
Sớm trở về Tổ quốc tôi để giải phóng đồng bào”
- T10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng ra nghquyết: Hội nghị hợp nhất
Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì gặp nhiều sai lầm chỉ lo đến việc phản
lOMoARcPSD| 60826700
đế quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu, ấy một sự rất nguy hiểm” .
Nguyễn Ái Quốc ko đc quốc tế cộng sản giao nhiệm vụ nhưng Người
vẫn luôn kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc về vấn
đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng
sản.
- T6/1933, Người trở lại Matxcova( Liên Xô), Nguyễn Ái Quốc vào học
Trường Quốc tế Lênin Trường dành cho những người cộng sản nước
ngoài, nhằm giúp đcác Đảng Cộng sản đào tạo cán bộ cách mạng, nhất
là cán bộ chủ chốt. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc điều kiện đi sâu vào
những vấn đề của ch mạng vô sản, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân tích luỹ qua hàng chục năm hoạt động cách mạng, để suy nghĩ
tiếp tục hoàn chỉnh con đường cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc
Việt Nam. Tiếp đó, tháng 7 năm 1935, Người tham dự Đại hội VII Quốc tế
cộng sản, tìm thấy trong nghị quyết Đại hội nhiều quan điểm mới về chiến
lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, đặc biệt
vấn đề phải xây dựng cho được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
chống đế quốc, đòi dân chủ, cơm áo hoà bình. Sự chuyển hướng đấu
tranh của quốc tế cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về
cách mạng VN là hoàn toàn đúng đắn.
- Vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, trước sự chuyển biến mau lẹ của
tình hình thế giới và trong nước, nhất là nguy cơ của một cuộc chiến tranh
thế giới do đế quốc phát xít gây ra đang tới gần, đe doạ vận mệnh các dân
tộc, sau khi Quốc tế cộng sản “đồng ý” để Người về nước công tác, Hồ Chí
Minh đã sớm rời Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa (9-
1938), bỏ lại bản luận án nghiên cứu sinh đang viết dở. Người đáp xe lửa,
rời Mátxcơva, đi về phương Đông. Cuối năm 1939, Người đến Côn Minh
thủ phủ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng,
tìm đường về nước.
Thời kì 1941- 1969: Tư tưởng HCM tiếp tục phát triển, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
- Ngày 28-1-1941, sau hành trình "Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất
bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm
thương nhớ, đợi chờ”, Người đã “bước chân về nơi non sông gấm vóc của
mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác cùng cảm động". Từ
đây, Người mở ra một chân trời mới trong việc tiếp tục hành trình hiện thực
lOMoARcPSD| 60826700
hóa khát vọng độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, dẫn
tới những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
- Tháng 5-1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác
(Cao Bằng). Người cùng Trung ương Đảng quyết định “thay đổi chiến
lược” cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực
lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong một Mặt trận dân
tộc thống nhất; chủ trương tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang n
cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng mọi mặt chờ thời khởi nghĩa giành
chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945, thể hiện quyết tâm của
Người: “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho kỳ được độc lập dân tộc”, “đem sức ta giải phóng cho ta”, toàn dân
tộc đã nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền vtay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, thay mặt chính phủ lâm thời, HCM đọc bản tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hòa. Thắng lợi đại đó
thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh; đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”, mở ra một thời đại mới - thời đại Hồ CMinh rực rỡ nhất,
vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
- Sau khi giành đc chính quyền Đảng và nhân dân ta tiếp tục phải tiến hành
2 cuộc kháng chiến chống Pháp Mỹ vừa đấu tranh xây dựng CNXH
miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đây
cũng là thời kì tư tưởng HCM đc bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn.
- Trước khi qua đời, Người để lại Di chúc, một văn kiện lịch sử giá, kết
tinh tư tưởng đạo đức, trí tuệ, phong cách một lãnh tụ cách mạng, anh hùng
dân tộc vĩ đại , nhà văn hóa kiệt xuất suốt đời vì dân vì nước.
- 111 năm gắn liền với sự kiện lịch sử Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước đã trôi qua, nhưng, những ý nghĩa đại của sự kiện đó vẫn vẹn
nguyên giá trị trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn 100 năm, Người tìm
đường đi cho n tộc ta đi, n 90 năm, Người sáng lập Đảng, lãnh đạo
nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn, y dựng đất nước phồn
vinh, ấm no, hạnh phúc. Những mốc son trọng đại ấy luôn nhắc nhở Đảng
ta, nhân dân ta gìn giữ, bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng lý luận soi đường, dẫn dắt dân tộc
từ đêm dài nô lệ bước tới đài vinh quang như ngày nay

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60826700
Thời kì 1: Những yếu tố tác động đến ngày 5/6/1911 HCM ra đi tìm đường cứu nước?
*Tình hình thế giới
- Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa: Cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ
20,chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và
tiến hành xâm lược các nước nhỏ, yếu để làm thị trường tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp tư bản, để vơ vét tài nguyên, bóc lột lao động nô dịch dân tộc. Tuy nhỏ bé,
lạc hậu, nhưng các nước này không cam chịu làm nô lệ cho thực dân, đế quốc mà
quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập, từ đó phong trào giải phóng
dân tộc phát triển. Sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của
người thanh niên VN yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong việc so sánh đối chiếu
với dân tộc VN, dân tộc ta quyết ko làm nô lệ cho Pháp, mà phải đấu tranh giành
lại nền độc lập dân tộc, mang lại tự do ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
- Lenin tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mac Lenin ,với đường lối đúng đắn đảng
Bonsevich lãnh đạo nhân dân đấu tranh làm nên Cách mạng Tháng 10 Nga
(1917).Chính vì sự kiện này hàng loạt các phong trào vô sản với sự ra đời của các
Đảng Cộng Sản trên thế giới như: Balan, Tiệp Khắc, Liên Xô,...Các ĐCS có khả
năng lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết giai cấp công nhân và dân tộc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước thuộc khu vực Châu Á nổ ra như:
Indonesia, Trung Quốc nhưng đều thất bại mà nguyên nhân chính là do thiếu tổ
chức, thiếu đoàn kết, đoàn kết rời rạc, vì vậy cho nên HCM ko sang Trung Quốc
hay Nhật để tìm đường cứu nước mà Người quyết định sang Pháp.
*Tình hình trong nước
- Từ những năm đầu 1858 về trước, VN là 1 nước phong kiến độc lập có chủ quyền.
Cho đến ngày 1/9/1858, Pháp nổ phát súng đầu tiên tại cửa biển Đà Nẵng chính
thức xâm lược VN. Và sau hiệp định Patonot (1884), VN trở thành nước thuộc
địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp cấu kết với triều đình phong kiến áp bức bóc
lột các tầng lớp nhân dân lao động, xã hội VN xuất hiện nhiều mâu thuẫn, đen
tối, ngột ngạt và lúc đó xuất hiện là làm sao có thể giành lại độc lập và giành lại
độc lập bằng con đường nào?
- Dưới sự áp bức bóc lột, nhân dân ta không chịu làm nô lệ đã liên tiếp đấu tranh
giành lại độc lập dân tộc theo khuynh hướng của nông dân, trí thức, tư sản. Tại
thời điểm này, các phong trào đấu tranh lần lượt nổ ra như Phong trào Cần lOMoAR cPSD| 60826700
Vương( 1885-1896), khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913),.... nhưng đều thất bại do chưa
có đường lối cứu nước đúng đắn.
- Đầu thế kỉ 20, xuất hiện các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản với
sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước như phong trào Đông du dưới sự lãnh đạo của
Phan Bội Châu, hay phong trào Duy Tân dưới sự dẫn dắt của Phan Châu Trinh
nhưng đều thất bại do thiếu tổ chức, thiếu đường lối, chưa có Đảng Cộng Sản
lãnh đạo. Nên sau này HCM không đi theo con đường cứu nước của các sĩ phu
yêu nước lúc bấy giờ vì đó là con đường cứu nước không thành cho dù Người rất
ngưỡng mộ các sĩ phu yêu nước với tinh thần hi sinh, xả thân vì nước.
- Yếu tố tiếp theo là về quê hương và gia đình. Nguyễn Tất Thành sinh ra tại làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi quê hương giàu truyền thống yêu
nước, thương dân, hiếu học. Cha của người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là
một vị quan giáo dục có tinh thần yêu nước, thương dân. Người cha thân sinh ra
Nguyễn Tất Thành đã dạy Người chu đáo về những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc như yêu nước, thương dân, đoàn kết cộng đồng,... Cụ Nguyễn Sinh
Sắc cũng định hướng cho Người muốn thắng giặc Pháp thì phải hiểu giặc Pháp,
muốn hiểu được văn hóa Pháp thì phải học ngôn ngữ Pháp. Trong gia đình thì
anh ruột của Người là Nguyễn Sinh Khiêm và chị ruột là Nguyễn Thị Thanh đã
tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp và bị bắt giam, bị đánh đập dã man.
Nguyễn Tất Thành sinh ra đã phải chịu cảnh nước mất nhà tan, lớn lên phải chứng
kiến cảnh nhân dân lầm than, đói khổ và bị bóc lột tột cùng của thực dân Pháp.
Xuất phát từ thương dân rồi trăn trở vì dân và quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Chủ nghĩa yêu nước nhân văn của VN là cội nguồn động lực cho
chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
- Yếu tố tiếp theo đó chính là trí tuệ và sự quyết tâm của Người. Có thể nói, Nguyễn
Tất Thành là một thanh niên VN yêu nước, thương dân, có lý tưởng, có khát
vọng, có hoài bão, có quyết tâm, hi sinh trọn vẹn đời mình cho dân tộc VN. Người
nói: “ Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi”.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, một mình Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước và đã thành công, tạo bước ngoặt chuyển hướng cho cách mạng VN,
thay đổi hướng phát triển cho cả dân tộc. Việc lựa chọn đi theo con đường cách
mạng vô sản đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và đem lại
nhiều thành tựu vĩ đại cho cách mạng VN. Cuộc đời- sự nghiệp- tài năng- trí tuệ-
phong cách HCM luôn là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, là tấm gương soi,
lời dạy cho các nhà quản lý hôm nay, trăn trở, suy tư, xác định trách nhiệm, rèn
đức, luyện tài vì sự phát triển của con người VN. Nhân dân ta luôn tự hào về lOMoAR cPSD| 60826700
HCM bởi vì Bác là ánh sáng, là niềm tin cho muôn dân, là tấm gương soi chung
cho các thế hệ người VN, đb là thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.
Thời kì 2- thời kì 5:
Thời kì 1911-1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc
VN theo con đường cách mạng vô sản
- Nhận thức được sâu sắc về thực tại xã hội và đau xót trước nỗi thống khổ của dân
tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm có ý chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng đồng bào, nên quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Người quyết định đi sang nước Pháp, sang phương Tây để tìm hiểu vì sao họ giàu
mạnh và hiểu những gì ẩn giấu sau những từ Tự do- Bình đẳng- Bác ái mà thực
dân Pháp rêu rao ở các nước thuộc địa. Và ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng(
Sài Gòn) với tên gọi Văn Ba, Người xuống làm thuê cho một con tàu của Pháp
để bắt đầu thực hiện quyết tâm và khát vọng cứu nước, cứu dân.
- Từ năm 1911 đến năm 1920 Người đã đi đến nước Pháp, nước Mĩ, nước Anh và
rất nhiều nước Châu Phi, Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ, hòa mình vào
cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm
sống, vừa ra sức học tập, nâng cao vốn hiểu biết và tìm mọi cách để hoạt động cách mạng.
- Năm 1919, Người ra nhập Đảng Xã Hội Pháp vì nhận thấy:” Đây là tổ chức duy
nhất ở Pháp bênh vực nước tôi và là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý
của Đại Cách mạng Pháp: Tự do- Bình đẳng- Bác ái. Tháng 6/1919 , thay mặt
Hội những Người VN yêu nước tại Pháp, Người đã gửi tới Hội nghị Vecxay(
Pháp) “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8 điểm đề nghị chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ tối thiểu cho nhân dân VN. Mặc
dù bản yêu sách không được hội nghị chấp nhận nhưng Bản Yêu sách là lời tuyên
bố chính trị đầu tiên của nhân dân VN trên diễn đàn quốc tế, đã thể hiện tấm lòng
yêu nước thiết tha, khát vọng của Nguyễn Ái Quốc và nhân dân các nước thuộc
địa trong cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ, quyền tự quyết của các dân tộc, khơi
nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
- Sau gần 10 năm trên chặng đường đầu tiên của mình với khát vọng giải phóng
dân tộc, Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới và thấu hiểu
được bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân. Với điều kiện mới của thế giới sau
thắng lợi của Cuộc CM tháng 10 Nga năm 1917, Người đã đến với chủ nghĩa
Mac Lenin, tìm được con đường giải phóng cho cách mạng Việt Nam- con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách hoàn toàn lOMoAR cPSD| 60826700
và triệt để nhất. Vào mùa hè năm 1920, Người đọc được Bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo. Luận cương của Lênin nhấn mạnh về nhiệm vụ của ĐCS phải giúp đỡ
thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa. Chính tư tưởng đó đã giải
đáp thắc mắc cho Người con đường giành độc lập dân tộc khiến Người “ rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao” bởi đã đem đến “ con đường giải
phóng dân tộc cho chúng ta”. Kết quả tất yếu đó đã đưa Người đến một quyết
định đúng đắn là bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng Sản và tham gia thành
lập ĐCS Pháp vào tháng 12 năm 1920. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ XHCN.
Thời kì 1920- 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng VN
- Sau khi tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng VN, Nguyễn Ái Quốc
đã ra sức kiến tạo những nhân tố đảm bảo thắng lợi cho cách mạng. Những
năm 1921-1930 là thời kì mà Người ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mac-
Lênin và những quan điểm cách mạng của mình về trong nước, bắt đầu
một thời kì hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ
nghĩa Mac và về chế độ XHCN ngay trên đất nước Liên Xô. Nhận thức
được vai trò và ảnh hưởng to lớn của Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng Sản
Pháp đối với cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
tham gia vào đời sống chính trị trong phong trào cộng sản quốc tế: Dự đại
hội lần thứ 1 Quốc tế Nông dân( 1923), được bầu vào Đoàn chủ tịch Quốc
tế Nông dân, dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản( 1924) và được cử làm cán
bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Năm 1922, Người tham gia
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Đây là một hình thức mặt trận của các dân
tộc bị chủ nghĩa thực dân thống trị, liên minh với giai cấp vô sản chính
quốc để phối hợp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tại Matxcova,
Người học tại Trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản như
Người nói là: “ Đây là nơi đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc
Phương Tây và trang bị cho chúng tôi- những người nô lệ, khả năng hoạt
động chặt chẽ” . Người còn viết nhiều bài báo đăng trên các tờ báo cách
mạng ở Nga, ở Pháp như: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,
Tạp chí cộng sản, Thư tín Quốc tế,... tố cáo tội ác của thực dân Pháp, tình
cảnh các dân tộc thuộc địa trong đó có nước ta, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa
thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Năm lOMoAR cPSD| 60826700
1925, Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và bài viết của
Người đã được bí mật chuyển về nước và lưu truyền rộng rãi trong các tầng
lớp nhân dân, thức tỉnh họ đoàn kết trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô và đến Quảng ChâuTrung
Quốc. Năm 1925, tại Trung Quốc, Người sáng lập Hội VN Cách mạng
Thanh Niên và ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa MácLênin về
trong nước đồng thời mở ra các lớp huấn luyện cho cán bộ cách mạng VN.
Những bài viết được truyền bá đó sau được tập hợp và được xuất bản thành
cuốn sách Đường Kách Mệnh. Đây là cuốn sách lý luận chính trị đầu tiên
được truyền bá những tư tưởng của chủ nghĩa Mac Lenin vào nước ta phản
ánh những tư tưởng, quan điểm, đường lối, chiến lược và phương pháp cách mạng của Người.
- Mùa xuân năm 1930, tại Cửu Long( Hồng Kông, Trung Quốc), Người chủ
trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, thống nhất thành
ĐCS Việt Nam. Các văn kiện do Người soạn thảo, được thông qua Hội
nghị thành lập Đảng: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn
tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh cách mạng đầu
tiên của Đảng. Cương lĩnh đã vạch rõ đường lối con đường cách mạng cho
VN. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt nguy cơ chia rẽ trong phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc ở VN, chấm dứt thời kì bế tắc, khủng hoảng về
đường lối cứu nước, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng VN.
Thời kì 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp
cách mạng VN đúng đắn, sáng tạo
- Sau khi sáng lập ĐCS VN từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia
công tác của Quốc tế cộng sản ở nước ngoài. Do không nắm vững hoàn
cảnh thực tiễn các dân tộc thuộc địa ở Đông Dương và VN, hơn nữa lúc
bấy giờ Quốc tế cộng sản đang đề cao đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản
nên tư tưởng mới mẻ, đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh
chính trị đã bị Quốc tế Cộng sản phê phán, không chấp nhận. Trong quá
trình đó, Người bị bắt giam trong nhà tù Thực dân Anh ở Hồng
Kông( 1931-1933). Dù vậy nhưng Người vẫn luôn theo sát phong trào
cách mạng trong nước từng ngày từng giờ và luôn nuôi dưỡng khát vọng:”
Sớm trở về Tổ quốc tôi để giải phóng đồng bào”
- T10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng ra nghị quyết: Hội nghị hợp nhất
Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì gặp nhiều sai lầm “ chỉ lo đến việc phản lOMoAR cPSD| 60826700
đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu, ấy là một sự rất nguy hiểm” .
Dù Nguyễn Ái Quốc ko đc quốc tế cộng sản giao nhiệm vụ nhưng Người
vẫn luôn kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và về vấn
đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản.
- T6/1933, Người trở lại Matxcova( Liên Xô), Nguyễn Ái Quốc vào học
Trường Quốc tế Lênin – Trường dành cho những người cộng sản nước
ngoài, nhằm giúp đỡ các Đảng Cộng sản đào tạo cán bộ cách mạng, nhất
là cán bộ chủ chốt. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đi sâu vào
những vấn đề của cách mạng vô sản, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân tích luỹ qua hàng chục năm hoạt động cách mạng, để suy nghĩ và
tiếp tục hoàn chỉnh con đường cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc
Việt Nam. Tiếp đó, tháng 7 năm 1935, Người tham dự Đại hội VII Quốc tế
cộng sản, tìm thấy trong nghị quyết Đại hội nhiều quan điểm mới về chiến
lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, đặc biệt
là vấn đề phải xây dựng cho được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
chống đế quốc, đòi dân chủ, cơm áo và hoà bình. Sự chuyển hướng đấu
tranh của quốc tế cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về
cách mạng VN là hoàn toàn đúng đắn.
- Vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, trước sự chuyển biến mau lẹ của
tình hình thế giới và trong nước, nhất là nguy cơ của một cuộc chiến tranh
thế giới do đế quốc phát xít gây ra đang tới gần, đe doạ vận mệnh các dân
tộc, sau khi Quốc tế cộng sản “đồng ý” để Người về nước công tác, Hồ Chí
Minh đã sớm rời Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (9-
1938), bỏ lại bản luận án nghiên cứu sinh đang viết dở. Người đáp xe lửa,
rời Mátxcơva, đi về phương Đông. Cuối năm 1939, Người đến Côn Minh
– thủ phủ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng, tìm đường về nước.
Thời kì 1941- 1969: Tư tưởng HCM tiếp tục phát triển, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
- Ngày 28-1-1941, sau hành trình "Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất
bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm
thương nhớ, đợi chờ”, Người đã “bước chân về nơi non sông gấm vóc của
mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động". Từ
đây, Người mở ra một chân trời mới trong việc tiếp tục hành trình hiện thực lOMoAR cPSD| 60826700
hóa khát vọng độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, dẫn
tới những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
- Tháng 5-1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó
(Cao Bằng). Người cùng Trung ương Đảng quyết định “thay đổi chiến
lược” cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực
lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong một Mặt trận dân
tộc thống nhất; chủ trương tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn
cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng mọi mặt chờ thời cơ khởi nghĩa giành
chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945, thể hiện quyết tâm của
Người: “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho kỳ được độc lập dân tộc”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, toàn dân
tộc đã nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, thay mặt chính phủ lâm thời, HCM đọc bản tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là
thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh; đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”, mở ra một thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất,
vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
- Sau khi giành đc chính quyền Đảng và nhân dân ta tiếp tục phải tiến hành
2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ vừa đấu tranh xây dựng CNXH ở
miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đây
cũng là thời kì tư tưởng HCM đc bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn.
- Trước khi qua đời, Người để lại Di chúc, một văn kiện lịch sử vô giá, kết
tinh tư tưởng đạo đức, trí tuệ, phong cách một lãnh tụ cách mạng, anh hùng
dân tộc vĩ đại , nhà văn hóa kiệt xuất suốt đời vì dân vì nước.
- 111 năm gắn liền với sự kiện lịch sử Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước đã trôi qua, nhưng, những ý nghĩa vĩ đại của sự kiện đó vẫn vẹn
nguyên giá trị trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn 100 năm, Người tìm
đường đi cho dân tộc ta đi, hơn 90 năm, Người sáng lập Đảng, lãnh đạo
nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn, xây dựng đất nước phồn
vinh, ấm no, hạnh phúc. Những mốc son trọng đại ấy luôn nhắc nhở Đảng
ta, nhân dân ta gìn giữ, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng lý luận soi đường, dẫn dắt dân tộc
từ đêm dài nô lệ bước tới đài vinh quang như ngày nay